Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Qua bài Xin lập khoa luật (Trích Tế cấp bất điếu) của Nguyễn Trường Tộ, anh (chị) có suy nghĩ gì về vai trò của luật trong đời sống xã hội.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.38 KB, 4 trang )

Đề bài: Qua bài Xin lập khoa luật (Trích Tế cấp bất điếu) của Nguyễn Trường Tộ,  
anh (chị) có suy nghĩ gì về vai trò của luật trong đời sống xã hội.
Bài làm
Ở mỗi thời đại, luật có sự điều chỉnh khác nhau cho phù họp với hoàn cảnh lịch sử xã hội  
trong   thời   đại   đó.   Thấy  được   vai   trò   quan  trọng   đó   của   luật,   nhà   trí   thức   yêu   nước 
Nguyễn Trường Tộ  đã viết bàn Điếu Trần, một bài văn chính luận, để  trình lên bề  trên 
về những điều cần phải canh tân đất nước, trong đó có luật. Bài Xin lập khoa luật trích ở 
bản Điếu trần số 27 có tên là Tế cấp bát điếu. Bài trích này cho thấy Nguyễn Trường Tộ 
là một người sớm nhận ra những điều cần phải đổi mới để  đem lại sự thịnh vượng cho  
đất nước và lẽ công bằng cho xã hội.
Trong lịch sử nước nhà đã từng hình thành nhiều luật khác nhau. Cách đáy trên sáu thế kỉ 
có bộ luật Hồng Đức nổi tiếng, trong đó quy định nhiều vấn đề có tính chất xã hội rộng  
lớn. Bộ luật Hồng Đức có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đối với đời sống chính trị  xã hội qua 
nhiều thời kì. Nhưng do quy luật phát triển lịch sử, sang các giai đoạn sau, đất nước cần 
có những luật mới phù hợp với tính chất và hoàn cảnh xã hội lúc đó. Vì vậy tác giả 
Nguvễn Trường Tộ đã đề nghị và thuyết phục bề trên cần phải thay đổi luật.
Theo tác giả, luật phải là công cụ đại diện cho lẽ công bằng. Do đó "bất luận quan hay 
dân, mọi người đều phải học luật nước...". Từ  tính chất quan trọng đó cho nên một đòi  
hỏi gần như bắt buộc đối với mọi người là phải học luật và nắm được luật, mặt khcác 
còn cần phải tôn trọng và chấp hành nghiêm minh luật nước nhà bởi "vì luật bao gồm cả 
kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia". Có thể  nói luật là chỗ  công bằng nhất để 
hòa giải các mâu thuẫn trong xã hội. Vì vậy dù bất cứ ai phạm vào những điều quy định  
trong luật đều phải được xét xử  theo đúng luật và công minh. Như  thế  kỉ  cương phép 
nước mới được giữ vững, luật mới xứng đáng với vai trò là công cụ của nhà nước trong  
việc bảo vệ sự bình yên cho nhân dân.
Để chứng minh cho vai trò có tính quan trọng tuyệt đối của luật, tác giả dẫn lại trong các  
giai đoạn lịch sử đã qua, theo đó ta hiểu được rằng nếu không có luật thì đồng nghĩa với 
không có một xã hội bình yên.
Nói về ý nghĩa của luật, tác giả  đã nêu lên những khía cạnh có tính chất như để  so sánh  



với đạo làm người. Và từ  đó ông dẫn lại trong lịch sử  rằng: "Từ  xưa đến nay các vua 
chúa nắm quyền thống trị  đất nước giúp đời đều nhờ  hiểu luật, còn các sách vở  khác 
cũng chỉ là phụ  thuộc. Nếu trong nước không có luật thì dù vạn quyển sách cũng không 
thể  trị dân". Với lập luận một cách khoa học và chính xác đó cho thấy rằng nếu chỉ dựa 
vào những điều trong sách vở  mà không hiểu luật thì đó chỉ  là cách nói suông và không 
bao giờ  trở  thành một công cụ  để  đem lại an bình cho đất nước. Ngay  ở  những quyển  
sách nói về luật cũng vậy, nếu sách đó không thể hiện tính thời đại của luật thì nó cũng  
trở  nên vô tác dụng. Do đó phải có sự  điều chỉnh và hợp nhất thành một hệ  thống chặt 
chẽ về điều khoản và nội dung của luật thì mới phát huy tác dụng.
Lại nói về vai trò và ý nghĩa của luật, tác giả Nguyễn Trường Tộ đã phân tích:
"Nếu bảo luật chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi, thế là không biết rằng  
trái luật là tội, giữ đúng luật là đức. Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử sự 
thì mọi quyền pháp đều là đạo đức".
Qua cách lập luận trên ta thấy rõ luật phải vừa đảm bảo tính nghiêm minh của nó nhưng 
lại vừa có tính nhân đạo hoặc nói cách khác luật phải chứa đựng trong đó bản chất của  
đạo đức con người. Nếu luật chỉ  đơn thuần là công cụ  trấn áp và giải quyết các mâu  
thuẫn của xã hội thì vô tình đã đem cái đạo của con người ra ngoài lề  của công lí, pháp 
luật. Như vậy luật cũng là một hình thức thể hiện đạo đức con người. Bởi thế trong luật 
bao giờ  cũng  ẩn chứa tinh thần nhân đạo lớn lao nhằm bảo vệ lẽ phải và sự  công bằng 
tuyệt đối. Vì thế khi áp dụng luật vào đời sống xã hội phải thật tinh vi và nhạy bén tránh 
làm tổn hại đến phạm trù đạo đức và lối sống của con người. Vậy nên tác giả  mới nói:  
"Nếu tận dụng cái lẽ  công bằng  ở  trong luật mà xử  sự  thì mọi quyền pháp đều là đạo  
đức". Nghĩa là giữa luật và đạo đức phải cùng song hành và bổ  trợ  cho nhau tạo ra một 
thiết chế đủ để đem lại sự bình an và, thịnh đạt cho xã hội.
Trong những luật đã từng tồn tại trong lịch sử tất cả đều mang hai yếu tố  cần thiết nói 
trên nhưng chung quy lại là để  giữ  vững và bảo vệ  công bằng và chính nghĩa cho con  
người. Chưa có một xã hội nào dưới sự bảo trợ của luật mà không có yêu tố đạo đức và 
pháp quyền để  trị  những hành vi phạm luật. Nói như  vậy có nghĩa là không bao giờ  đạo  
đức con người lại được tách ra ngoài hệ  thống của luật mà ngược lại đạo đức đó lại  



được tác hợp với luật nhằm ứng xử những tình huống mang tính chất nhạy cảm trong xã 
hội. Nói về tính chất và đặc trưng của đạo đức đó là sự  tổng hòa cua những tố  chất tốt  
đẹp nhằm tạo nên đức tính và phẩm chất cao quý của con người. Để  đối chiếu trong 
phạm vi của luật tác giả khẳng định:
"Có cái đức nào lớn hơn đức chí công vô tư? Chí công vô tư là đức trời. Trong luật cái gì  
cũng công bằng, hợp với đức trời".
Như vậy, theo tác giả, giữa đạo đức và "chí công, vô tư" là một, xếp ngang hàng với luật. 
Tóm lại đạo đức và luật luôn phải là công cụ sắc bén hỗ trợ nhau nhằm đảm bảo sự công 
bằng cho xã hội. Nếu hai yếu tố  tách rời nhau thi sự  nghiêm minh của phép nước sẽ 
không được vững chắc. Đó là lí do trong luật cần có đạo đức và đạo đức chính là "chí  
công, vô tư".
Qua sự phân tích trên ta thấy, luật đóng một vai trò không thể thiếu trong đời sống xã hội.  
Chỉ có luật mói đem lại sự công bằng cho xã hội mà không một thiết chế nào có thể thay 
thế được. Sự ổn định đất nước dù ở thời đại nào cũng cần phải có luật. Luật sẽ quy định 
những yêu cầu của cuộc sống nhằm đem lại sự bình yên và thịnh vượng cho mọi người  
trong xã hội. Tính quan trọng của luật thể  hiện rõ  ở  chỗ  luật bảo đảm kỉ  cương phép  
nước, giữ  vững kỉ  cương đó và không để  bất kì một ai vi phạm luật hoặc nếu làm trái  
luật thì tất yếu phải được trị theo đúng luật. Vì những điều quan trọng đó nên trong bất kì 
một xã hội nào cũng đều cần phải có luật. Chỉ có luật xã hội mới bình yên, đất nước mới  
thịnh vượng được.
Tóm lại, có thể nói rằng mỗi chế độ  xã hội đều phải tuân theo sự quy định nghiêm minh  
của luật. Nếu xã hội đó tách khỏi luật thì sẽ  dẫn đến những hậu quả  khôn lường. Tác  
giả Nguyễn Trường Tộ đã sớm nhận ra tính chất quan trọng của luật và mong muốn canh 
tân đất nước bằng luật. Có thể  nói ông có một tầm nhìn rộng lớn và một tư  tưởng tân  
tiến trong thời đại bấy giờ, vì bản thân ông thấy được vai trò quan trọng của luật trong  
đời sống xã hội.
Ngày nay, khi toàn thể xã hội đang phát triển mạnh mẽ, luật lại càng chứng tỏ tầm quan 
trọng của nó trong đời sống dân sinh. Vì tính chất quan trọng đó cho nên luật luôn được 
điều chỉnh cho phủ hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước trong thời kì mới. Vì vậy, chúng  



ta luôn được chứng kiến sự  công bằng của xã hội nhờ  tính nghiêm minh của luật trong 
đời sống chính trị nước nhà. Do đó, trong mỗi chủng ta phải tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ 
luật để xã hội ngày một công bằng hơn, đất nước ngày càng phát triển hơn, văn minh hơn  
theo nhịp tiến cùng thời đại.



×