Luận Văn Tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hiền-Lớp K382104
Một số ý kiến đề xuất về công tác kế toán vật
liệu ở công ty may hồ gơm
I . nhận xét về tổ chức công tác kế toán vật liệu ở
công ty may hồ gơm
1. Những u điểm, những mặt mạnh của công tác kế toán vật liệu ở
công ty may Hồ G ơm
Đặc trng cơ bản của nền kinh tế thị trờng là quy luật cạnh tranh. Trong
cạnh tranh nếu doanh nghiệp nào mạnh sẽ đứng vững đợc trong thơng trờng kinh
doanh, nghĩa là hoạt động phải có hiệu quả. Nên mục tiêu hoạt động chính của
các doanh nghiệp là hớng tới việc tối đa hoá lợi nhuận. Vậy để hoạt động có lợi
nhuận buộc các doanh nghiệp phải hạch toán đợc : làm sao doanh thu mang lại
bù đắp đợc những chi phí bỏ ra và đảm bảo có lãi. Doanh nghiệp phải hớng tới thị
trờng cần gì chứ không phải quan tâm đến những gì doanh nghiệp có. Thực tế cho
thấy các doanh nghiệp rất quan tâm tới việc tìm ra các giải pháp để đạt đợc mục
tiêu tiêu này và cuối cùng hầu nh tất cả các doanh nghiệp đều tìm ra một giải
pháp cơ bản đó là : trong sản xuất làm sao tiết kiệm đợc chi phí sản xuất vì đây là
cơ sở hợp lý để hạ giá thành sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực
sản xuất nói chung, chi phí nguyên vật liệu là chi phí chiếm tỷ trọng tơng đối
lớntrong giá thành sản phẩm. Có những doanh nghiệp chi phí nguyên vật liệu
chiếm từ 80%-90% trong giá thành sản phẩm, còn các chi phí khác chiếm tỷ
trọng không đáng kể. Do đố, việc tăng cờng quản lý vật liệu và hoàn thiện công
tác kế toán vật liệu là một trong những vấn đề quan trọng góp phần tiết kiệm chi
phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
Với ngành may mặc nói riêng, chi phí nhiên vật liệu cũng chiếm một tỷ
trọng lớn trong giá thành sản phẩm may. Nên cũng nh các doanh nghiệp sản xuất
nói chung công ty may Hồ Gơm cũng đã và đang cố gắng hoàn thiện công tác
này.
Qua thời gian thực tập tại công ty may Hồ Gơm, vận dụng lý thuyết vào
thực tiễn công tác kế toán vật liệu em thấy các phần hành của công tác kế toán
nói chung và kế toán vật liệu nói riêng ở công ty có những điểm sau:
Thứ nhất: Về việc áp dụng chế độ thanh toán và ghi chép ban đầu.
1
Trang 1
Luận Văn Tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hiền-Lớp K382104
Hoạt động trong nền kinh tế thị trờng công ty đã nhanh chóng chuyển đổi
và áp dụng chế độ kế toans mới vào hạch toán. Nó cho phép phản ánh đầy đủ, kịp
thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đáp ứng nhu cầu cơ chế quản lýmới, yêu cầu
của nền kinh tế thị trờng.
Mặt khác, công ty đã thực hiện đúng các qui định về chế độ ghi chép ban
đầu trên các chứng từ, các sổ kế toán tổng hợp: các chứng từ nhập, xuất, các
NKCH, sổ caí các tài khoản... Việc sử dụng chứng từ, trình tự luân chuển chứng
từ đảm bảo chứng từ lập ra có cơ sở thực tế giúp cho quá trình hạch toán xuất-
nhập- tồn kho đợc kịp thời, cung cấp đầy đủ các thông tin kinh tế cho các bên có
liên quan.
Thứ hai: Về việc tổ chức bộ máy kế toán.
Nhìn chung việc tổ chức bộ máy kế toán của công ty là hợp lý và có hiệu
quả. Bao gồm những nhân viên kế toán có trình độ, có kinh nghiệm. Do đó, một
ngời có thể đảm nhận nhiều công việc kế toán khác nhau mà vẫn đảm bảo cung
cấp đầy đủ, kịp thời những thông tin cần thiết cho việc quản lý điều hành và giám
sát tình hình hoạt động của công ty. Việc bố trí một kế toán kiêm nhiều công việc
đã tiết kiệm đợc lao động.
Thứ ba: Về việc sử dụng công tác kế toán.
Với đặc điểm vận động của vật liệu trong công ty là tình hình nhập, xuất vật
liệu diễn ra hàng ngày và rất nhiều nên việc lựa chọn phơng pháp kê khai thờng
xuyên có u điểm hơn. Nó cho phép nhận biết một cách thờng xuyên tình hình
nhập- xuất- tồn kho vật liệu trong công ty.
Thứ t : Về khâu sử dụng vật liệu.
Vật liệu xuất dùng đúng mục đích và việc quản lý sản xuất dựa trên định
mức vật liệu mà phòng kỹ thuật xây dựng. Khi có nhu cầu về vật liệu thì các bộ
phận có nhu cầu về vật liệu, các bộ phận làm phiếu xin lĩnh vật liệu lên phòng
kinh doanh. Sau khi xem xét tính hợp lệ của phiếu, bộ phận quản lý xét duyệt. Do
vậy, vật liệu đợc đáp ứng kịp thời cho nhu cầu sản xuất. Mặt khác, thông qua việc
xây dựng định mức vật t cho từng loại sản phẩm công ty đã tiết kiệm đợc lợng vật
t khá lớn. Khoản này đã đem lại doanh thu đáng kể cho công ty.
Thứ năm: Việc thực hiện phơng pháp tính thuế giá tri gia tăng.
2
Trang 2
Luận Văn Tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hiền-Lớp K382104
Cùng với sự thay đổi của các sắc thuế, công ty đã nhanh chóng áp dụng việc
nộp thuế giá tri gia tăng theo phơng pháp khấu trừ (từ quí I/1999). Việc áp dụng
phơng pháp tính thuế này mang lại nhiều lợi nhuận cho công ty. Vì sản phẩm
công ty sản xuất chủ yếu là xuất khẩu nên công ty đợc khấu trừ toàn bộ thuế giá
tri gia tăng đầu vào của lô vật liệu sử dụng cho việc sản xuất sản phẩm đó. Kế tán
vật liệu hạch toán rất chặt chẽ các khoản thuế VAT đầu vào đợc khấu trừ. Nên th-
ờng các tháng số thuế của công ty phải nộp là số âm. Đây là sự linh hoạt của
công ty trong việc áp dụng phơng pháp tính thuế giá trị gia tăng.
2. Những hạn chế về công tác kế toán vật liệu ở công ty may Hồ G ơm.
Trong quá trình hạch toán, bên cạnh những u điểm còn tồn tại những hạn chế
nhất định. Với những hạn chế này cần phải hoàn thiện để đảm bảo tính chính xác,
khoa học và có hiệu quả trong công tác quản lý của công ty. Những nhợc điểm đ-
ợc biểu hiện cụ thể là:
Thứ nhất: Kế toán chi tiết vật liệu.
Việc tổ chức kế toán chi tiết vật liệu cha khoa học và hợp lý, cụ thể: ở kho
vật liệu, thủ kho không mở thẻ kho dể theo dõi tình hình nhập xuất tồn vật liệu
hàng ngày. Do vậy, nhiều khi công tác quản lý vật liệu số lợng cha chặt chẽ.
Nhiều lúc thủ kho không thể biết ngay đợc số lợng tồn kho của từng thứ, từng
loại vật liệu là bao nhiêu. Mặt khác, khi kế toán vật liệu có nhầm lẫn, sai sót,
muốn đối chiếu số liệu ở kho và phòng kế toán cũng không có căn cứ để đối
chiếu. Nên thờng ở công ty không có sự kiểm tra số lợng vật liệu trên sổ sách
giữa kho và phòng kế toán. Điều này gây những hạn chế nhất định trong công
việc hạch toán chi tiết vật liệu nói riêng và công tác quản lý vật liệu toàn công ty
nói chung.
Thứ hai: Việc mở bảng cân đối vật t của hàng gia công.
Do hạn chế về số nhân viên kế toán trong công ty, phòng kế toán có 4 ngời,
mỗi ngời đảm nhận nhiều công việc kế toán khác nhau. Nên có những phần hành
kế toán cha hoàn chỉnh đợc. Hiện nay, tại công ty kế toán chỉ mở bảng cân đối
vật t của vật liệu mà công ty mua về, không mở bảng cân đối vật t với hàng gia
công. Nên việc quản lý vật liệu hàng gia công cha đảm bảo yêu cầu đặt ra.
Thứ ba: Việc mở bảng phân bổ vật t cho đối tợng sử dụng.
3
Trang 3
Luận Văn Tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hiền-Lớp K382104
Hiện nay, kế toán vật liệu mở bảng phân bổ vật liệu cùng với bảng cân đối
vật t theo quí (trên cột xuất). Do cách mở nh thế này làm cho công việc lập bảng
cân đối vật t cuối quí trở nên phức tạp, mất nhiều công đoạn. Thậm trí không thể
có cái nhìn tổng quát về đối tợng sử dụng vật liệu. Mặt khác, chính việc mở kết
hợp nh thế này sẽ không áp dụng đợc những u điểm cho việc phân loại vật t theo
tài khoản trong quá trình hạch toán.
Thứ t : Công tác kế toán chi tiêt tài khoản 331 phải trả ngời bán.
Kế toán mở sổ chi tiêt tài khoản 331 phải trả ngời bán trên từng trang sổ,
mà công ty lại hạch toán theo quí. Nên nếu nh các nghiệp vụ mua bán chịu tăng
nên nhiều của ba tháng trong quý. Khi đó sẽ thiếu trang sổ để ghi và phải mở
trang sổ mới. Do vậy, làm cho việc theo dõi tình hình công nợ trở nên phức tạp
hơn.
Thứ năm: Khâu dự trữ và bảo quản vật liệu.
Với chức năng sản xuất hàng gia công và tự sản xuất nên vật liệu của công
ty không chỉ do khách hàng mang đến mà còn có cả vật liệu của công ty tự mua
về để sản xuất. Mặt khác, đối với hàng gia công khách hàng chỉ mang đến phần
vật liệu chính, còn nguyên liệu phụ công ty có thể tự bỏ ra cho qúa trình sản xuất.
Do vậy, để đảm bảo cho quá trình sản xuất cần dự trữ vật liệu ở mức cần thiết.
Nhng thực tế ở công ty khâu dự trữ vật liệu cha đảm bảo. ngoài ra, kho tàng bảo
quản vật liệu cha đầy đủ, có khi vật liệu về phải xếp ở hàng lang đi lại...
Với những nhợc điểm cơ bản đã nêu trên ở công ty May Hồ Gơm, để công
tác kế toán đợc đảm bảo cho qui trình hạch toán cần phải hoàn thiện những mặt
hạn chế này.
II. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế
toán vật liệu ở công ty may hồ gơm.
1./. Tổ chức việc hạch toán chi tiết vật liệu và đối chiếu kiểm tra
số liệu giữa kho và phòng kế toán đợc diễn ra giữa thẻ kho và sổ chi
tiết vật t.
Hiện tại, ở kho thủ kho không mở thẻ kho cho từng laọi nguyên vật liệu, nên
thủ kho không nắm bắt đợc biến động của vật liệu hàng ngày. Mặt khác, khi kế
toán vật liệu muốn kiểm tra, đối chiếu sự chính xác của số liệu ghi cũng không có
căn cứ để kiểm tra đối chiếu.
4
Trang 4
Luận Văn Tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu Hiền-Lớp K382104
Theo em, ở kho thủ kho cần mở thẻ kho cho từng thứ vật liệu và cuối tháng
(quý) lập báo cáo nhập-xuất-tồn vật liệu ở chỉ tiêu số lợng. Nh vậy, sẽ rất thuận
tiện cho việc kiểm tra, đối chiếu số liệu giữa kho và phòng kế toán. Em xin nêu ra
quy trình ghi chép và mở thẻ, đối chiếu số liệu giữa kho và phòng kế toán nh sau:
+ Tại kho: Khi nhận đợc các chứng từ nhập, xuất vật liệu thủ kho phải kiểm
tra tính hợp lệ của chứng từ rầi tiến hàng nhập, xuất vật liệu và ghi chép số thực
nhập, số thực xuất vào chứng từ và căn cứ vào đó để mở thẻ kho. Cuối ngày tính
ra số tồn kho trên thẻ kho. Nếu có thể cuối tháng (quý) lập bảng báo cáo vật liệu
tồn kho. Định kỳ 8-10 ngày gửi chứng từ nhập, xuất kho cho kế toán vật liệu.
+Tai phòng kế toán: căn cứ vào chứng từ nhận đợc kế toán tiến hành phân
loại chứng từ: nhập riêng, xuất riêng và sau đó kế toán ghi vào sổ chi tiết vật t. Sổ
chi tiết vật t đợc mở cho từng thứ vật liệu, mỗi loại vật liệu có thể mở một hoặc
một số tờ để ghi cho cả năm. Cuối tháng kế toán tiến hàng đối chiếu số liệutồn
kho về mặt số lợng để đảm bảo công tác hạch toán chi tiêts vật liệu đợc chặt chẽ
và chính xác. Nếu có nhầm lẫn có thể tìm ra nguyên nhân và kịp thời sửa chữa.
2./.Tổ chức cải tiến việc mở bảng cân đối vật t của hàng gia công.
Nh đã trình bầy ở phần thực tế, công ty chủ yếu sản xuất hàng gia công và
bên cạnh đó công ty còn tiến hành mua vật liệu về để tiến hành sản xuất. Nên vật
liệu của công ty bao gồm: vật liệu của công ty và vật liệu của khách hàng mang
đến.
Hai loại vật liệu này có phơng pháp hạch toán khác nhau, mà vật liệu do
khách hàng mang đến với khối lợng khá lớn. Do không mở bảng cân đối vật liệu
của hàng gia công cho nên công tác quản lý vật liệu của hàng gia công còn lỏng
lẻo. Kế toán không thể phản ánh một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác số hiện
có và tình hình biến động của vật liệu hàng gia công. Ngoài ra, công ty đã xây
dựng định mức vật t cho một loáiản phẩm hàng gia công và định mức vật t cho
môtj loại sản phẩm mà phòng kỹ thuật thiết kế loại thờng nhỏ hơn định mức công
ty đã thoả thuận với ngời đặt gia công. Cho nên công ty có khoản doanh thu đối
với vật liệu gia công ngoài định mức khá lớn. Do không mở bảng cân đối vật t
của hàng gia công nên kế toán không phản ánh đợc số liệu chính xác của vật liệu
thừa ngoài định mức mà nhiều khi con số đó chỉ nằm trong dự toán. Vậy để khắc
phục hạn chế này theo em kế toán vật liệu nên mở bảng cân đối vật t cho hàng gia
công. Qua đó phản ánh đợc tình hình nhập, xuất, tồn vật liệu của hàng gia công
theo chỉ tiêu hiện vật. Kế toán có thể tách riêng bảng cân đối của hàng gia công
và bảng cân đối vật t của công ty, hoặc cũng có thể lập trên cùng một bảng: lập
5
Trang 5