Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tổ chức chiến trường Nam Bộ và lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.45 KB, 8 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 22 - Tháng 8/2014

TỔ CHỨC CHIẾN TRƯỜNG NAM BỘ VÀ LỰC LƯỢNG
VŨ TRANG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945-1954)
NGUYỄN ĐỨC HỊA(*)

TĨM TẮT
Hưởng độc lập chưa được bao ngày, đồng bào Nam Bộ đã phải đi đầu cả nước trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược.
Chiến trường Nam Bộ được chia làm 3 rồi 2 qn khu và cơ cấu hành chính, qn sự,
chính trị cũng đã được tổ chức lại. Chiến trường Nam Bộ ln có vai trò trọng yếu trong
cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ đã vượt qua những khó khăn
to lớn và đã có nhiều cống hiến cho thắng lợi chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp
của dân tộc. Bài viết chỉ tập trung trình bày khái qt về tổ chức chiến trường Nam Bộ và
lực lượng vũ trang cách mạng trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954).
Từ khóa: Nam Bộ, kháng chiến, chiến trường, lực lượng vũ trang
ABSTRACT
Enjoyed independence for a short time, Southern people were forced to go ahead
standing up fighting against French aggressors coming back Vietnam.
The Southern theater was divided into three military zones (then two zones) and the
political, administrative and military structure of the resistance reorganized. The Southern
region kept an essential and a key theater in the resistance against the French colonialism.
Southern people and revolutionary forces overcame huge difficulties and had a lot of
contributions for the victory over the French aggressors in the resistance for national
salvation. The paper focused on presenting organization of the Southern theater as well as
military forces in brief during the nine year-resistance against the French colonialism
(1945-1954).
Keywords: Southern VietNam, resistance, theater of war, armed forces
1. CHIẾN TRƯỜNG NAM BỘ TRONG


NHỮNG NGÀY ĐẦU KHÁNG CHIẾN
CHỐNG PHÁP*
Chiến trường theo thuật ngữ qn sự,
là nơi diễn ra các hoạt động tác chiến của
các bên đối địch. Nó được hiểu là vùng đất,
khu vực trên đó diễn ra cuộc chiến tranh
hoặc các hoạt động tác chiến chiến lược.
Chiến trường Nam Bộ ln có vị trí chiến
lược trọng yếu và là kho nhân tài vật lực
(*)

đối với vùng đất phía Nam và với đất nước
trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Điều đó
giải thích tại sao Pháp chọn tấn cơng Gia
Định (1859) để làm bàn đạp bình định Việt
Nam và tồn bộ Đơng Dương. Ngay sau
khi Cách mạng tháng Tám thành cơng,
thực dân Pháp cũng lại chọn Nam Bộ là
nơi bắt đầu quay trở lại xâm lược Việt
Nam. Nam Bộ là nơi bắt đầu chiến tranh và
cũng là nơi kết thúc oanh liệt thắng lợi
cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
(tháng 4-1975).

PGS.TS, Trường Đại học Sài Gòn

5


Nam Bộ là mảnh đất phía Nam của tổ

quốc đi đầu trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp ngay từ 23-9-1945. Ngay
trong ngày 23/9/1945, Xứ ủy và Ủy ban
kháng chiến Nam Bộ với sự tham dự của
các đại biểu như Trần Văn Giàu, Ung Văn
Khiêm, Phạm Ngọc Thạch họp tại đường
Cây Mai - Chợ Lớn (nay là số 627-629
đường Nguyễn Trãi, Quận 1, TP.HCM) xin
phép Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch phát
động nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng
chiến (1). Quyết định của Hội nghị Cây Mai
đã được Trung ương Đảng, Chính phủ và
Chủ tịch Hồ Chí Minh tán thành; cả nước tổ
chức lực lượng Nam tiến chi viện cho cuộc
kháng chiến của nhân dân Nam Bộ.
Sau đó, Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở
rộng họp ngày 25-10-1945 tại Thiên Hộ
(Cái Bè, Mỹ Tho) để đối phó với quâcứ nhỏ liên huyện, liên xã ở Nam
Bộ cũng được thành lập. Lực lượng vũ trang
ba thứ quân ở Nam Bộ được xây dựng và
củng cố. Ở các vùng nông thôn Nam Bộ,
hầu hết các xã đều có các đội du kích. Ở các
đô thị, lực lượng tự vệ được xây dựng và
củng cố. Các đơn vị bộ đội tập trung đã
được xây dựng từ cấp tỉnh đến cấp khu.
Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ
(19-12-1946), Xứ ủy lâm thời Nam Bộ đã
nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng
phối hợp chiến đấu với chiến trường toàn
quốc, do “Nam Bộ là căn cứ của Pháp thực

dân để lấy nhân, vật, tài lực để chiến tranh
với cả toàn quốc của ta, và Đông Dương,
chúng ta phải có chính sách không những
làm cho chúng không thể lấy Nam Bộ dùng
đánh Trung, Bắc mà lại làm Nam Bộ cản
trở thêm khó khăn nguy hại cho chúng”
[9]. Xứ ủy Lâm thời Nam Bộ đã lập tức chỉ
đạo cho “lãnh đạo và nhân dân các Khu 7,
8, 9 mở rộng, phát triển chiến tranh du kích
lên một bước mới, đẩy mạnh đánh địch ở
khắp các mặt trận, mở một cuộc tổng tiến
công, quấy rối, phong tỏa, phá hoại, đã góp
phần phá các cuộc tiến công của địch trên
các chiến trường Bắc Bộ và Trung Bộ”
[10]. Quân và dân Nam Bộ hoàn thành tốt
chỉ thị của Trung ương khi đã kìm chặt
chân quân Pháp trên địa bàn, không cho
chúng rút những đơn vị tinh nhuệ ra tăng
cường cho các chiến trường khác.
Từ sau thất bại trong chiến dịch Việt

Bắc Thu-Đông 1947 cho đến 1950, thực
dân Pháp ráo riết tập trung binh lực để thực
hiện chính sách bình định, củng cố và mở
rộng vùng tạm chiếm ở đồng bằng Nam
Bộ. Thực dân Pháp ra sức giành dân, bắt
lính và xây dựng nhiều đồn bốt, tháp canh
trong cấu trúc phòng ngự của De Latour để
khống chế các địa bàn trên chiến trường
Nam Bộ.

Bắt đầu từ năm 1948 bộ đội chủ lực
Nam Bộ được phân tán thành các đại đội
độc lập đưa về các địa phương để phát triển
chiến tranh du kích và xây dựng cơ sở cách
mạng. Cùng với cả nước, biến hậu phương
địch thành tiền phương của ta là một thành
công to lớn của quân dân Nam Bộ từ năm
1948 trở đi. Từ 1949 đến đầu 1950, các đại
đội độc lập lại được rút về xây dựng các
trung đoàn chủ lực trên chiến trường Nam
Bộ. Mỗi khu ở Nam Bộ có một trung đoàn
chủ lực [11]. Trong năm 1949- 1950, chiến
tranh du kích chống chính sách bình định
của địch phát triển mạnh mẽ ở Nam Bộ.
Trên chiến trường Nam Bộ, nhiều làng
chiến đấu được xây dựng như Tân Phú
Trung, Tân An Hội, Phước Vĩnh An, cùng
với sự xuất hiện các địa đạo toàn thôn xã
như Phú Thọ Hòa, Long Phước, Xuyên
Phước Cơ….
Trong giai đoạn 1945-1950, chiến
trường Nam Bộ đã được ta phân chia và tổ
chức ngày càng chặt chẽ. Việc tổ chức
chiến trường Nam Bộ đã giúp thống nhất
về tổ chức chính trị của Đảng, tập trung chỉ
đạo quân sự, điều hành cơ cấu chính quyền
và từng bước kiện toàn lực lượng vũ trang
chiến đấu. Từ năm 1945 đến cuối 1950, các
đơn vị vũ trang tập trung ở Nam Bộ được
thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

và dần dần hình thành các đơn vị chủ lực.
Quân và dân Nam Bộ từng bước gây dựng,
phát triển phong trào chiến tranh du kích,
9


thống nhất lực lượng vũ trang, xây dựng và
củng cố chính quyền cách mạng, tạo điều
kiện thuận lợi cùng cả nước chuẩn bị và
tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp từ
1945 đến 1950.
3. TỔ CHỨC CHIẾN TRƯỜNG VÀ
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TÁC CHIẾN
NAM BỘ TỪ SAU THÁNG 5-1951
ĐẾN 1954
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II
(2-1951), cơ quan Trung ương phân cục
miền Nam được thành lập (gọi tắt là Trung
ương Cục miền Nam) tại Nam Bộ. Trung
ương Cục chỉ đạo tổ chức lại chiến trường,
sắp xếp lại lực lượng vũ trang. Chiến
trường Nam Bộ được tổ chức lại cho phù
hợp với yêu cầu mới của cách mạng, nhất là
từ khi Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt
động công khai (2-1951). Tháng 5 năm
1951, các khu ở Nam Bộ được giải thể, các
tỉnh liền nhau nhập lại thành tỉnh mới; Nam
Bộ chia thành Phân liên khu miền Đông,
Phân liên khu miền Tây và Đặc khu Sài
Gòn - Chợ Lớn. Cơ quan Trung ương Cục,

Ủy ban kháng chiến hành chính, Bộ Tư
lệnh Nam Bộ chuyển lên miền Đông, đứng
chân tại chiến khu Dương Minh Châu.
Định hướng cho công tác vùng tạm
chiếm và công tác du kích được đưa ra tại
Hội nghị lần II Ban chấp hành Trung ương
Đảng (27-9 đến ngày 5-10-1951). Vùng
sau lưng địch ở Nam Bộ có ba công tác
chính là dân vận, vận động ngụy binh và
đẩy mạnh chiến tranh du kích, trong đó dân
vận được xác định là gốc của mọi công tác.
Phong trào cách mạng ở Nam Bộ từ sau
1951 gặp rất nhiều khó khăn, vì lãnh đạo
các địa phương không nắm được điểm này.
Ở một số địa phương Nam Bộ do không
quán triệt đầy đủ phương châm hoạt động
vùng tạm chiếm, nên lãnh đạo giải tán xã
đội, đưa phần lớn bộ đội chủ lực, địa

phương, lực lượng rút lui về căn cứ, dân
quân du kích không tích cực hoạt động
phối hợp với các chiến trường khác; chủ
trương hữu khuynh nằm im không hoạt
động “trường kỳ mai phục, súc tích lực
lượng, chờ đợi thời cơ” (12).
Do những sai lầm trong chỉ đạo cách
mạng của các địa phương ở Nam Bộ, cho
nên lực lượng vũ trang ta ở các vùng tạm bị
chiếm và ở các vùng du kích bị tiêu hao
nặng và hoạt động giảm sút rõ rệt. Phong

trào cách mạng ở Nam Bộ chịu nhiều tổn
thất và phải trả giá cho những sai lầm của
ta. Sai lầm hữu khuynh của một số địa
phương Nam Bộ gây nên những hậu quả
rất nghiêm trọng: để mất đất, mất dân, lực
lượng vũ trang suy yếu. Tình trạng này kéo
dài từ 1951 cho đến tận năm 1953.
Nam Bộ là chiến trường tập trung các
chiến dịch bình định lớn của Pháp, với Sài
Gòn là trung tâm điều hành các hoạt động
chiến tranh xâm lược của chúng ở Nam
Đông Dương. Lực lượng quân Pháp và
quân đội tay sai “Quốc gia Việt Nam” tập
trung rất đông trên chiến trường Nam Bộ.
Cho đến năm 1954, hầu hết lực lượng Bình
Xuyên và lực lượng các giáo phái Cao Đài,
Hòa Hảo đều nằm trong lực lượng võ trang
của địch chống lại cách mạng, đưa tổng số
quân tay sai tại Nam Bộ lên tới 19 tiểu
đoàn (13). Do vậy cuộc kháng chiến của
quân và dân ta trên chiến trường Nam Bộ
vẫn diễn ra rất khốc liệt, kể cả sau chiến
thắng Điện Biên Phủ.
Ngay từ đầu năm 1954, trong chỉ thị
cho Trung ương Cục miền Nam, Ban Bí
thư Trung ương Đảng phân tích tình hình,
tương quan lực lượng giữa ta và địch và
cho rằng cuộc kháng chiến ở Nam Bộ “còn
rất khó khăn và lâu dài” và đưa ra chỉ đạo:
“Trong năm 1954, nếu Nam Bộ giữ vững

được thế cầm cự lâu dài với địch không
10


cho chúng thực hiện âm mưu bình định, là
căn bản đã thắng được chúng. Nam Bộ
trong năm 1954 có ba nhiệm vụ chính: 1.
Giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích;
2. Củng cố và mở rộng căn cứ; 3. Đẩy
mạnh công tác ngụy vận” (14). Theo chỉ thị
của Đảng, quân và dân Nam Bộ đã rất nỗ
lực khắc phục những sai lầm hữu khuynh
trong các hoạt động trên khắp các chiến
trường từ vùng chiến tranh du kích mạnh,
tới vùng tranh chấp và cho tới vùng bị địch
tạm chiếm, đặc biệt là Sài Gòn.
Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư Trung
ương Đảng, Trung ương Cục kịp thời uốn
nắn và các địa phương Nam Bộ, nhất là ở
miền Đông đã tích cực xây dựng lại phong
trào và tổ chức lại lực lượng vũ trang. Các
đội công tác của các Phân liên khu miền
Đông, miền Tây cùng đội vũ trang tuyên
truyền các tỉnh đã dũng cảm luồn sâu, trở
lại hoạt động, xây dựng cơ sở cách mạng ở
các vùng tranh chấp và vùng tạm chiếm.
Trong Đông Xuân 1953-1954, các khu
du kích và căn cứ địa ở Nam Bộ, dần dần
được phục hồi và phát triển. Vùng mới giải
phóng ở Nam Bộ được củng cố, tạo chỗ

đứng chân vững chắc cho lực lượng vũ
trang ta và tạo thế uy hiếp đối với địch từ
khắp vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu

Long, cho tới Sài Gòn. Chiến trường Nam
Bộ đã có đóng góp quan trọng trong phối
hợp với các chiến trường khác trong toàn
quốc trong chiến dịch Đông Xuân 19531954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
4. KẾT LUẬN
Việc tổ chức chiến trường và phát triển
lực lượng vũ trang cách mạng ở Nam Bộ
có vai trò quan trọng trong suốt cuộc kháng
chiến chống Pháp, khi Nam Bộ đứng lên
kháng chiến (23-9-1945) cho đến chiến
dịch Đông Xuân 1953-1954.
Qua hai giai đoạn tổ chức và phát triển,
chiến trường Nam Bộ đã hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ của Đảng và của dân tộc.
Quân và dân Nam Bộ vừa tiến hành chiến
tranh du kích, vừa đánh bại các chiến dịch
bình định của thực dân Pháp, đồng thời kìm
chân chúng, không cho chúng chi viện lực
lượng cơ động cho các chiến trường khác.
Sự thay đổi và kiện toàn tổ chức chiến
trường, cũng như lực lượng vũ trang đã
giúp quân và dân Nam Bộ phối hợp nhàng
với các chiến trường Bắc Bộ, Trung Bộ, và
toàn chiến trường Đông Dương và đóng
góp to lớn vào những thắng lợi chung
chiến dịch Đông xuân 1953-1954, chiến

dịch Điện Biên Phủ lịch sử, cũng như trong
cuộc kháng chiến chống Pháp 1945-1954.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1984) Lịch sử cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945-1954, Tập I, NXB QĐND, Hà Nội, tr.66.

2.

Bộ Quốc phòng, Trung tâm từ điển bách khoa Quân sự (2004), Từ điển bách khoa
quân sự Việt Nam, NXB QĐND, Hà Nội, tr.567-568.

3.

Bộ Quốc phòng (1990), Miền Đông Nam Bộ kháng chiến (1945-1954), Tập 1, NXB
QĐND, Hà Nội, tr.119.

11


4.

Bộ Quốc phòng (1994), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Tập II
sđd…tr.273.

5.

Đảng Lao động Việt Nam (1969), Văn kiện Đảng (từ 25-12-1945 đến 31-12-1947,

Nxb Sự Thật, Hà Nội, tr.17-18.

6.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, NXB CTQG, Hà
Nội, tr.162

7.

Hồ Sơn Đài (2008), Cuộc kháng chiến 1945-1975 nhìn từ Nam Bộ, Nxb CTQG,
tr.72.

8.

Hồ Chí Minh (1995), Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Tập
5, tr.116.

9.

Lê Mậu Hãn (2014), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập III, NXB Giáo dục Việt Nam,
tr.35.

10.

Lê Văn Dương (1972), Quân lực Việt Nam Cộng hòa giai đoạn hình thành 19461955, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa xuất bản, Sài Gòn, tr.317.

11.

Raoul Salan, Việt Nam địch thủ của tôi, Thư viện quân đội, T/79-5531, tr.9.


12.

Tình hình Nam Bộ 1945-1947, Hồ sơ số 6, Phòng Nam Bộ, Kho Lưu trữ Bộ Quốc
phòng, tờ số 118-119.

13.

Trần Bá Đệ, Nguyễn Xuân Minh (2010), Giáo trình Lịch sử Việt Nam 1945-1954,
NXB. ĐHSP, Hà Nội, tr.101.

14.

Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp (1951-1954), Nxb Sự Thật, Hà
Nội, 1998, tr.325.
* Ngày nhận bài: 11/6/2014. Biên tập xong: 30/7/2014. Duyệt đăng: 05/8/2014

12



×