Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Phát triển đô thị thông minh tại Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 8 trang )

PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ THÔNG MINH TẠI ĐÀ NẴNG
ThS. Trần Phạm Huyền Trang
Trường cao đẳng CNTT Hữu nghị Việt Hàn
Tóm tắt
Vai trò của sự phát triển đô thị Đà Nẵng có vị trí quan trọng. Về quan điểm
phát triển đô thị, thành phố Đà Nẵng tiếp tục phát huy tối đa mối quan hệ liên kết
vùng; phát triển khu đô thị trung tâm thành khu đô thị nén để tái thiết khu vực đô thị
cũ; quy hoạch đô thị biển thành “khu đô thị biển”; xây dựng đô thị theo mô hình
thành phố thông minh, tiện ích cao để phát triển, khai thác nền tảng công nghệ
thông tin, công nghệ cao. Tất cả những việc làm này nhằm hướng đến phát triển
thành phố Đà Nẵng trở thành đô thị thông minh. Tuy nhiên, điều này không phải dễ
dàng. Bài viết này nhằm phân tích thực trạng phát triển đô thị thông minh tại Đà
Nẵng và đưa ra một số giải pháp phù hợp.
Từ khóa: Công nghệ thông tin, Đô thị thông minh, Đà Nẵng
1. Đặt vấn đề
Phát triển đô thị thông minh cho đến nay đã trở thành một xu thế tất yếu tại
nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Qua thực tế triển khai, cũng như qua đánh
giá của các nhà khoa học, chuyên gia, việc xây dựng đô thị thông minh ở các nước
trên thế giới đã cơ bản đạt được những kết quả như mong muốn so với mục tiêu,
yêu cầu đề ra như: Tăng chất lượng cuộc sống cùng các dịch vụ thiết yếu đi kèm;
tăng tính hiệu quả của bộ máy hành chính; tăng tính liên kết dọc giữa các hệ thống
hạ tầng kỹ thuật với nhau và hạ tầng xã hội với nhau, cũng như liên kết ngang giữa
hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội; tăng sự tương tác trong nội bộ cộng đồng dân cư
cũng như giữa cộng đồng dân cư với chính quyền; giảm chi phí; giảm thời gian chờ
đợi hoặc thời gian đi lại; giảm tiêu thụ các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như
lãng phí không cần thiết các nguồn lực xã hội. Minh chứng cho điều này cách đây 5
năm, Hàn Quốc - một trong những quốc gia phát triển ở châu Á - có sẵn hạ tầng
công nghệ thông tin phát triển mạnh đã đầu tư xây dựng và phát triển mô hình thành
phố công nghệ tại nhiều thành phố lớn của nước này. Theo đó, người dân được kết
nối một cách tối đa, thẻ thông minh được dùng để thanh toán cho tất cả các phương
tiện giao thông công cộng, công nghệ GPS (định vị toàn cầu) kết hợp với camera hỗ


trợ giám sát ở khắp mọi nơi. Cùng với đó, nước này cũng xây dựng mạng thông tin
mở giữa chính quyền và người dân nhằm minh bạch thông tin. Đến nay, Hàn Quốc
vẫn tiếp tục xây dựng đô thị thông minh để nâng cao chất lượng sống của người dân
và mục tiêu ưu tiên là giảm ô nhiễm môi trường nhờ phát triển năng lượng sạch,

179


tăng diện tích cây xanh, kiểm soát lưu lượng giao thông nhờ công nghệ thông tin.
Đây cũng chính là vấn đề đặt ra với các đô thị nói chung, trong đó có các thành phố
tại nước ta khi mà tốc độ đô thị hóa đang diễn ra nhanh kéo theo các vấn đề ùn tắc
giao thông, hạ tầng quá tải, hay ô nhiễm môi trường… Vì vậy, việc ứng dụng công
nghệ thông tin hướng tới mô hình thông minh được xem là lời giải đúng cho bài
toán này.
Việt Nam với vị trí là một nước đang trong quá trình phát triển cũng không
tránh khỏi xu thế trên. Là một trong những thành phố có tốc độ phát triển hạ tầng
công nghệ thông tin và truyền thông nhanh nhất trong cả nước, 9 năm liên tục, thành
phố Đà Nẵng dẫn đầu về chỉ số sẵn sàng phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin
(ICT Index), đoạt giải ASEAN City năm 2015 về ứng dụng công nghệ thông tin trong
khu vực công. Trong những năm qua, Đà Nẵng luôn chú trọng về vấn đề phát triển đô
thị thông minh. Tuy vậy, những kết quả đó vẫn còn khiêm tốn so với các mục tiêu,
yêu cầu, nội dung của một đô thị thông minh trong đó việc xây dựng đô thị thông
minh vẫn còn nhiều hạn chế. Chính vì thế bài viết này nhằm đưa ra một số biện pháp
phát triển đô thị thông minh tại Đà Nẵng.
2. Cơ sở lý thuyết về đô thị thông minh
Qua 20 năm hình thành và phát triển, khái niệm về đô thị thông minh đến
này đã có nhiều biến thể cấp độ khác nhau theo nhu cầu và khả năng nguồn lực đầu
tư, mục tiêu hướng đến ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương thực hiện. Theo PGS. TS
Nguyễn Minh Hoà, ý tưởng về đô thị thông minh đầu tiên bắt đầu từ khoảng 1990
bởi các chuyên gia công nghệ thông tin ở Valley Silicon (Mỹ) và thành phố

Bangalore – Valley silicon của Ấn Độ. Khái niệm đô thị thông minh chính thức
được sử dụng từ năm 2005 và đang dần được hoàn thiện tùy theo tình hình ứng
dụng triển khai thực tế tại các quốc gia trên thế giới.
Theo TS.KTS Ngô Lê Minh, đánh giá chung hiện nay, khái niệm đô thị
thông minh có thể được hiểu đầy đủ là thành phố sử dụng công nghệ thông tin và
truyền thông (ICT) để được thông minh hơn và hiệu quả trong việc sử dụng các
nguồn lực, nhằm mục tiêu tiết kiệm chi phí và năng lượng, cải thiện cung cấp dịch
vụ và chất lượng cuộc sống, giảm thiểu gây hại môi trường”. Ở một cấp độ cao hơn,
mô hình “Đô thị bền vững thông minh” đề cập khái niệm hướng đến nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân trên nhiều khía cạnh và qui mô khác nhau, thông
qua việc cung cấp và tiếp cận với các nguồn tài nguyên nước, năng lượng, giao
thông và di động, giáo dục, y tế, môi trường, quản lý chất thải, nhà ở, công ăn việc
làm, và sử dụng công nghệ thông tin.
Ở một cấp độ khác có lồng ghép thêm các yếu tố sinh thái và phát triển bền
vững như khái niệm của Bộ Giáo dục và Nghiên cứu CHLB Đức cho rằng Đô thị

180


thông minh là “thành phố trung tính về CO2, sử dụng năng lượng và tài nguyên có
hiệu quả, thích ứng với khí hậu trong tương lai”.
Như vậy, có thể thấy rõ, khái niệm đô thị thông minh là một khái niệm có
tính mở. Việc lựa chọn các mục tiêu phát triển đô thị khác nhau như đô thị sinh thái,
đô thị bền vững, đô thị công nghệ… trên nền tảng ứng dụng giải pháp đô thị thông
minh sẽ cho ra những khái niệm mô hình Đô thị thông minh tương ứng. Việc phát
triển đô thị thông minh ở mỗi quốc gia cần lựa chọn cho mình một định hướng khái
niệm cụ thể trên cở sở hiểu rõ mục tiêu và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của
đô thị.
Ở Việt Nam, khái niệm đô thị thông minh cũng được các nhà nghiên cứu, các
nhà khoa học tiếp cận và đưa ra những quan điểm riêng của mình. Tuy nhiên, là một

nước đi sau về xây dựng đô thị thông minh, nên hầu hết các khái niệm về đô thị
thông minh của Việt Nam đều trên cơ sở sở kế thừa hệ thống khái niệm của các nhà
nghiên cứu, khoa học trên thế giới. Bên cạnh đó, căn cứ tình hình thực tiễn, mà đưa
ra các nội hàm đô thị thông minh phù hợp với cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đời sống kinh
tế - văn hóa - xã hội của Việt Nam. Nhìn chung, khái niệm đô thị thông minh ở Việt
Nam được hiểu như sau: Đô thị thông minh là đô thị hoặc khu vực cư dân ứng dụng
công nghệ thông tin - truyền thông phù hợp, tin cậy, có tính đổi mới sáng tạo nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, cung cấp các dịch vụ công,
phát huy các nguồn lực của đô thị có sự tham gia của người dân; nâng cao chất
lượng cuộc sống và làm việc của cộng đồng; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phát triển
kinh tế; đồng thời bảo vệ môi trường trên cơ sở tăng cường liên thông, chia sẻ dữ
liệu, an toàn, an ninh thông tin giữa các hệ thống và dịch vụ. Khái niệm này cũng
được hiểu là đô thị thông minh phát triển bền vững.
3. Tình hình phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam
Đô thị thông minh đang là một xu thế phát triển mới của thực tế phát triển đô
thị ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Các bộ, ngành, địa phương cũng như cộng
đồng doanh nghiệp và các thành phần kinh tế trong xã hội đã có nhiều nỗ lực trong
việc tổ chức nghiên cứu, khai thác, ứng dụng phát triển đô thị thông minh ở nhiều
cấp độ khác nhau: Từ năm 2015, TP Đà Nẵng đã sớm phê duyệt Đề án xây dựng
thành phố thông minh hơn và tổ chức triển khai thực hiện trên toàn thành phố. Tỉnh
Bình Dương đã chủ động hợp tác với đối tác Hà Lan triển khai xây dựng đô thị
thông minh áp dụng mô hình 3 nhà - Triple Helix (nhà nước - nhà trường - doanh
nghiệp). Trên cả nước hiện đã có gần 30 địa phương ký kết biên bản hợp tác với các
đối tác là các tập đoàn công nghệ viễn thông lớn như VNPT, Viettel để xây dựng
Đề án đô thị thông minh, trong đó nhiều địa phương đã phê duyệt và tổ chức thực
hiện như: Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, TP Hồ Chí Minh, TP Cần Thơ, huyện

181



Phú Quốc. Các tập đoàn, tổng công ty viễn thông, công nghệ thông tin (VNPT,
Viettel, FPT, CMC,...) đã đẩy mạnh thành lập các đơn vị chuyên sâu về đô thị thông
minh, nghiên cứu làm chủ và phát triển, ứng dụng các công nghệ, giải pháp về đô
thị thông minh. Trong xã hội, việc sử dụng các phần mềm, ứng dụng công nghệ
thông tin, đặc biệt là ứng dụng trên mạng xã hội đang dần trở nên khá phổ biến và
rất đa dạng, thu hút đông đảo các thành viên tham gia. Chính sự tương tác này cũng
hỗ trợ cho chính quyền các địa phương trong phát triển đô thị thông minh.
4. Tình hình phát triển đô thị thông minh tại thành phố Đà Nẵng
Từ năm 2012, lãnh đạo thành phố đã định hướng phát Đà Nẵng thành một
thành phố thông minh và đã ký hợp tác với tập đoàn công nghệ IBM để nghiên cứu
triển khai. Năm 2014, Đà Nẵng đã triển khai đề án xây dựng thành phố thông minh,
tập trung 5 lĩnh vực: giao thông, cấp nước, thoát nước, kiểm soát an toàn vệ sinh
thực phẩm và xây dựng thành phố kết nối.
Tháng 7-2014, Đà Nẵng chính thức khai trương và đưa vào vận hành hệ thống
thông tin chính quyền điện tử. Trong 9 năm liên tiếp từ 2009 đến 2017, Đà Nẵng dẫn
đầu cả nước trong bảng xếp hạng chỉ số sẵn sàng ứng dụng và phát triển công nghệ
thông tin Việt Nam, đoạt giải ASEAN City năm 2015 về ứng dụng công nghệ thông tin
trong khu vực công. Đến nay, Đà Nẵng đã ký kết hợp tác chuyển giao mô hình chính
quyền điện tử với 19 tỉnh, thành phố trong cả nước. Sự phát triển đô thị thông minh ở
Đà Nẵng trong thời gian qua được thể hiện trong các lĩnh vực dưới đây:
- Xây dựng chính quyền điện tử: Thành phố Đà Nẵng là một trong những địa
phương đi đầu trong việc xây dựng chính quyền điện tử. Cụ thể, Đà Nẵng đã xây
dựng hạ tầng mạng cáp quang đi ngầm dài gần 300km, hỗ trợ băng thông lên tới 20
Gbps, kết nối tất cả cơ quan nhà nước từ thành phố xuống tận cơ sở. Thành phố
cũng xây dựng Trung tâm dữ liệu Đà Nẵng với dung lượng lưu trữ 100 Terabite, kết
nối với mạng đô thị để cung cấp các ứng dụng và dịch vụ chính quyền điện tử cho
cán bộ nhà nước và công dân. Mạng lưới wifi công cộng miễn phí bao phủ nội đô
với 430 điểm phát sóng, băng thông đạt 1Gbps, trung bình 20.000 lượt người sử
dụng/ngày. Việc xây dựng hệ thống mạng truyền số liệu chuyên dùng, tổng đài hệ
đặc biệt (Hệ 1) phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà Nước; Thiết kế và triển khai đầu tư

mạng viễn thông công nghệ thông tin tại Trung tâm hành chính thành phố để phục
vụ nhu cầu sử dụng dịch vụ viễn thông công nghệ thông tin của UBND thành phố
và các sở ban ngành; Triển khai hạ tầng, cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt nhất,
an toàn và bảo mật nhất cho các sự kiện như Đại hội thể thao bãi biển châu Á (ABG
5), giải chạy Marathon thế giới…
- Trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo, nhằm mang lại hiệu quả trong công tác
quản lý của nhà trường và hoạt động giảng dạy của giáo viên, VnEdu đang được

182


94% trường THPT, 77,3% trường THCS và 40% trường tiểu học trên địa bàn tin
tưởng sử dụng. Hiện tại, VNPT đã nâng cấp, xây dựng thành công hệ thống giáo
dục thông minh và đang từng bước áp dụng cho các trường đang sử dụng hệ thống
VnEdu… Ngoài ra, các trường cũng đã đẩy mạnh việc thiết kế và đưa vào sử dụng
bài giảng điện tử e-Learning và thường xuyên khai thác kho bài giảng e-Learning
của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại địa chỉ . Tiếp tục chỉ
đạo các trường học tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương
pháp dạy và học theo hướng giáo viên chủ động tích hợp công nghệ thông tin vào
từng môn học để nâng cao hiệu quả bài giảng, sử dụng phần mềm trình chiếu, kết
hợp các phần mềm mô phỏng, thí nghiệm ảo và phần mềm dạy học. Nhìn chung,
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục - đào tạo của thành phố trong
những năm qua luôn được quan tâm đẩy mạnh và đạt được những kết quả thiết thực,
trong đó nổi bật là nâng cao chất lượng dạy và học, giảm thủ tục hành chính, thuận
lợi trong công tác quản lý cơ sở dữ liệu học sinh, trao đổi giữa phụ huynh và nhà
trường, hạn chế tiêu cực.
- Trong cung cấp dịch vụ công: Biên lai điện tử trong thanh toán phí dịch vụ
công cho các sở/ban/ngành, các cấp chính quyền có sử dụng biên lai, triển khai
thành công hệ thống HĐND điện tử (iPC) cho HĐND TP Đà Nẵng.
- Trong lĩnh vực giao thông: Đà Nẵng hiện nay, tốc độ phát triển hệ thống

giao thông vận tải đô thị rất cao. Chủng loại phương tiện cũng ngày càng đa dạng và
phong phú hơn. Hệ thống cơ sở vật chất cho giao thông cũng có nhiều thay đổi.
Toàn bộ hệ thống đường sá, cầu, cống đã liên tục được nâng cấp, tại các ngã ba, ngã
tư, các nút giao thông đã được trang bị hệ thống đèn hiệu, dải phân luồng. Nhiều
tuyến đường nhỏ tiếp tục được quy hoạch, mở rộng hợp lý, đạt yêu cầu về tiêu
chuẩn chất lượng, đảm bảo phục vụ tốt cho các hoạt động lưu thông. Tuy nhiên, tỷ
lệ đất dành cho giao thông còn chiếm tỷ lệ rất ít so với đất xây dựng và đất sử dụng
mục đích khác (chỉ khoảng 5%), trong khi phương tiện giao thông phát triển ngày
càng nhanh, nhất là phương tiện ô tô, đã tạo nên những thách thức lớn trong việc
quy hoạch, quản lý và giải bải toán ùn tắc giao thông. Trong lĩnh vực này, hệ thống
thu thập, phân tích thông tin từ camera giao thông, phục vụ công tác phân tích, theo
dõi, giám sát giao thông; Góp phần xây dựng hệ thống giao thông thông minh (ITS)
của thành phố. Hệ thống hạ tầng cống bể, mạng truyền dẫn cũng đã được đầu tư xây
dựng với 35,6 km cống bể cáp quang thuộc 37 tuyến đường trên địa bàn thành phố
phục vụ truyền dẫn, kết nối dữ liệu hệ thống camera giám sát, xử lý vi phạm và hệ
thống đèn tín hiệu điều khiển giao thông về Trung tâm Điều hành đèn tín hiệu giao
thông và vận tải công cộng và phòng Cảnh sát giao thông – Công an thành phố phục
vụ công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông, hệ thống giám sát hành trình phương
tiện vận tải đã lắp đặt cho tất cả các xe buýt hiện đang vận hành.

183


- Trong lĩnh vực an ninh công cộng, xây dựng giải pháp và triển khai ứng
dụng công nghệ thông tin tích hợp các hệ thống camera, hệ thống cảm biến, báo
cháy… phân tích, cảnh báo thông minh phục vụ trung tâm thông tin chỉ huy giám
sát, tiếp nhận các thông tin khẩn cấp về an ninh trật tự cứu nạn cứu hộ và chữa cháy.
Trong lĩnh vực du lịch, triển khai hệ thống Thẻ du lịch thông minh, xây dựng phần
mềm quản lý báo cáo và thu thập số liệu cho ngành du lịch…
- Trong lĩnh vực Y tế, hệ thống phần mềm quản lý khám và chữa bệnh

VNPT-HIS đã được triển khai tại nhiều bệnh viện và các cơ sở y tế trên địa bàn TP.
Đà Nẵng từ năm 2016, giúp các bệnh viện rút ngắn thời gian khám chữa bệnh, lưu
trữ hồ sơ, thanh toán bảo hiểm y tế, đảm bảo dữ liệu khám chữa bệnh tại bệnh viện
được đồng bộ với Cổng giám định Bảo hiểm xã hội và cung cấp thông tin đầy đủ
lên Cổng dữ liệu Bộ Y Tế. Hiện nay, các Trung tâm Y tế trên địa bàn thành phố đã
triển khai phần mềm quản lý tích hợp nhiều tính năng đáp ứng nghiệp vụ khám
chữa bệnh như: Nhập hồ sơ, quản lý hồ sơ khám và chữa bệnh nội trú, ngoại trú;
quản lý các xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh; quản lý dược; nghiệp vụ quản lý
hành chính (khoa phòng, nhân viên…), cho phép thực hiện thanh toán và liên thông
bảo hiểm y tế, thanh toán viện phí; quản lý báo cáo, thống kê. Phần mềm ứng dụng đã
giúp bệnh viện dữ liệu hóa được hồ sơ bệnh nhân ngay từ khi tiếp đón, đến việc khám
chữa bệnh, quản lý khoa phòng. Đặc biệt, phần mềm mang lại lợi ích lớn cho người
bệnh, việc thanh toán bảo hiểm y tế được công khai, minh bạch và tiết kiệm được thời
gian. Công tác quản lý, điều hành khám chữa bệnh, hiệu quả công việc của đơn vị
được nâng cao rõ rệt, giảm chi phí dành cho văn phòng phẩm và tránh thất thoát
thuốc, vì mọi chỉ định điều trị, bảng kê thuốc điều trị cho từng bệnh nhân đảm bảo
tính thống nhất về số liệu. Tất cả hồ sơ bệnh nhân khi đến khám đều được dữ liệu
hóa, đảm bảo dữ liệu đầu vào và đầu ra thông suốt, liên thông từ đơn vị đến sở Y tế,
Bảo hiểm xã hội thành phố. Việc lưu trữ dữ liệu hiệu quả, chính xác, tạo điều kiện
thuận tiện khi tra cứu, đảm bảo công tác thống kê, báo cáo chuyên môn cũng như
minh bạch thông tin tài chính trong hoạt động khám và điều trị.
- Đồng thời, Đà Nẵng đã triển khai giám sát nguồn nước tự động như về tiêu
chuẩn nước uống để báo cáo về trung tâm xử lý khi cần thiết, giám sát hệ thống
nguồn nước thải cảnh báo sớm chỉ số gây ô nhiễm để xử lý khi cần thiết.
Bên cạnh đó là, triển khai cơ sở dữ liệu và hỗ trợ người dân tra cứu các cơ
quan đạt chuẩn về an toàn thực phẩm và đang triển khai phần mềm quản lý an toàn
thực phẩm, sắp tới tổ chức dán tem an toàn thực phẩm cho sản phẩm không bao gói.
5. Một số giải pháp nhằm phát triển đô thị thông minh tại Đà Nẵng
Trước hết, lãnh đạo thành phố cần một có một mục tiêu và chiến lược dài
hạn khi xây dựng một thành phố thông minh. Thiết lập tầm nhìn phù hợp với tình


184


hình đặc điểm kinh tế, xã hội, nguồn lực của địa phương, phải khoa học và thực tế,
dựa trên khung kiến trúc ICT của thành phố; xây dựng lộ trình thực hiện một cách
rõ ràng, hiệu quả; thành lập các lớp chỉ đạo, quản lý, điều hành việc ứng dụng công
nghệ thông tin, xây dựng đô thị thông minh; có cơ chế khuyến khích đầu tư, hợp tác
giữa nhà nước và doanh nghiệp, huy động sự tham gia mọi thành phần, tổ chức, cá
nhân của xã hội trong việc xây dựng đô thị thông minh.
Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh công tác truyền
thông, giáo dục để từng bước hình thành những công dân thông minh, cộng đồng
thông minh. Người dân, cộng đồng phải tham gia hiệu quả trong quản lý thành phố
và đưa ra quyết định bằng cách sử dụng hệ thống thông tin điện tử, nâng cao trí tuệ
tập thể, hình thành các thể chế thành phố thông qua môi trường mạng Internet, nhấn
mạnh vào sự tham gia của người dân và đồng sáng tạo các giá trị.
Thứ ba, phải có chính sách, qui định sử dụng cơ sở hạ tầng, tài nguyên
hiệu quả hơn (hạ tầng giao thông, môi trường, năng lượng, du lịch, xây dựng và
các tài nguyên khác) thông qua việc phân tích số liệu và ứng dụng tối đa công
nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội và
văn hóa lành mạnh.
Thứ tư, đẩy mạnh đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin trên địa bàn thành
phố, trong đó phải đảm bảo tất cả các cơ quan, đơn vị phải sử dụng công nghệ
thông tin làm công cụ chính trong các hoạt động quản lý, điều hành, cung cấp dịch vụ
công. Xây dựng khung kiến trúc công nghệ thông tin phù hợp với tình hình đặc điểm
của địa phương và thành phố, có sự tham vấn của các công ty công nghệ thông tin uy
tín. Đẩy mạnh ứng dụng các thiết bị công nghệ thông tin hiện đại trong công tác quản
lý xã hội như đảm bảo giao thông, bảo vệ môi trường, quản lý dữ liệu dân cư, thông
tin địa lý, cây xanh, cảnh báo thiên tai…v.v. Dành ngân sách thích đáng cho việc đầu
tư ứng dụng công nghệ thông tin, có cơ chế hợp tác theo mô hình công tư một cách

có hiệu quả. Mở rộng và hoàn thiện hệ thống kết nối không dây công cộng với công
nghệ tiên tiến, tính ổn định cao, chất lượng dịch vụ tốt đảm bảo yêu cầu về an ninh
thông tin để cán bộ, công chức, viên chức của thành phố, doanh nghiệp và người dân
dễ dàng truy cập internet và sử dụng dịch vụ công trực tuyến.
Thứ năm, phải không ngừng học hỏi, thích ứng và đổi mới (đặc biệt là khoa
học và công nghệ) để có khả năng đáp ứng hiệu quả hơn và nhanh chóng thay đổi
hoàn cảnh bằng cách cải thiện trí thông minh của thành phố.
Tài liệu tham khảo
1.

Hoàng Phương (2019), Phát triển đô thị thông minh - kinh nghiệm và lộ trình
thực hiện, ( />
185


2.

ICTnews (2018), Phác thảo mô hình thành phố thông minh của Việt Nam
trong tương lai, />
3.

Nguyễn Trung Thành (2018), Chính sách xây dựng đô thị thông minh từ thực
tiễn quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng.

4.

Sở thông tin và truyền thông Đà Nẵng (2014), Đề án xây dựng thành phố
thông minh hơn tại Đà Nẵng. ( />
5.


Trần Hoàng Giang (2018), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới việc xây
dựng đô thị thông minh tại thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí khoa học và công
nghệ Đà Nẵng.

186



×