Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.15 KB, 23 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ
1.1. KHÁI NIỆM CẠNH TRANH.
1.1.1. Các quan điểm về cạnh tranh.
Có rất nhiều những quan điểm về cạnh tranh khác nhau, nhưng thực chất
của cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp là đưa ra những chiến lược, chiến
thuật phù hợp với tiềm lực của doanh nghiệp, ứng xử tốt với các chiến lược và
chiến thuật của đối thủ cạnh tranh nhằm giành lợi thế trong sản xuất tiêu thụ
hàng hoá và dịch vụ nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
 Quan điểm I: Cạnh tranh là sử dụng các biện pháp để chiến thắng trên thị
trường, để mặt hàng máy tính của mình có chỗ đứng trên thị trường.
 Quan điểm II: Cạnh tranh là sử dụng các biện pháp chính sách và nghệ
thuật để doanh nghiệp tạo ra nhiều lợi thế tồn tại trên thị trường. Cạnh
tranh không nhất thiết là phải làm cho doanh nghiệp mình thắng.
 Quan điểm III: Cạnh tranh là sử dụng các chính sách biện pháp và nghệ
thuật để thực hiện các chiến lược cạnh tranh đặc biệt là chiến lược về tài
chính và lợi nhuận.
Kinh tế thị trường luôn có xu hướng ra tăng nhiều hãng cùng tham gia
voà một lĩnh vực do đó cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt. Quy luật cạnh tranh
sẽ lần lượt gạt khỏi thị trường những doanh nghiệp không có khả năng phân bố
nguồn lực tới các hãng hoạt động có hiệu quả hơn. Đồng thời nó buộc các
doanh nghiệp phải tự vận động tạo ra cho mình một lợi thế so với đối thủ để tồn
tại và phát triển.
1.1.2. Khái niệm cạnh tranh.
Cạnh tranh ngày một sâu rộng và trở nên gay gắt, nó là yếu tố nội tại của
hàng hoá và tiếp cận thị trường không thể tránh được. Cạnh tranh buộc doanh
nghiệp phải xuất sắc và cung cấp những sản phẩm mà thị trường cần để đáp ứng
nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của người tiêu dùng.
Cạnh tranh là một hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, nó được thể
hiện trong các biện pháp kinh doanh, có thể hiểu cạnh tranh của các doanh
nghiệp là việc sử dụng hệ thống cá chính sách, các công cụ của các doanh
nghiệp để đối phó và phản ứng với các doanh nghiệp khác nhằm mục đính tồn


tại và phát triển trên thị trường và để thu lợi nhuận dự kiến hoặc lợi nhuận tối
đa.
Cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp hoàn thiện chính sách nâng cao sức
cạnh tranh cho bản thân doanh nghiệp và các mặt hàng của doanh nghiệp để đạt
mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Trong quá trình cạnh tranh doanh
nghiệp sẽ dần dần khẳng định được vị trí và uy tín của mình trên thị trường.
1.2. PHÂN LOẠI CẠNH TRANH.
1.2.1. Căn cứ theo ngành.
1.2.1.1.Cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh giữa các nghành là sự cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp
mua bán hàng hoá dịch vụ khác nghành với nhau nhằm thu lợi nhuận và có tỉ
xuất lợi nhuận cao hơn so với vốn đã bỏ ra. Trong quá trình cạn tranh này các
chủ doanh nghiệp luôn đầu tư các nghành có lợi hất nên đã chuyển vốn từ
nghành ít lợi nhuận sang ngành có nhiều lợi nhuận.
1.2.1.2. Cạnh tranh trong nội bộ ngành.
Cạnh tranh trọng nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
cùng kinh doanh một loại hàng hoá hay dịch vụ nhằm giành lấy các điều kiện có
lợi nhất trong việc sản xuất, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ đó. Mục đích là đạt được
lợi nhuận siêu nghạch
1.2.2. Căn cứ vào chủ thể tham gia cạnh tranh.
1.2.1.1. Cạnh tranh giữa người mua và người bán.
Cạnh tranh giữa người bán với người mua là cuộc cạnh tranh diễn ra theo
“Luật” mua rẻ - bán đắt. Người mua luôn muốn được mua rẻ, ngược lại người
bán luôn có tham vọng bán đắt. Sự cạnh tranh này được thể hiện trong quá trình
“mặc cả” và cuối cùng giá cả được hình thành và hành động bán mua được thực
hiện.
1.2.2.2. Cạnh tranh giữa người mua với nhau.
Là sự cạnh tranh trên cơ sở của quy luật cung cầu. Khi một loại hàng hóa
dịch vụ nào đó mà mức cung nhỏ hơn nhu cầu thì cuộc cạnh tranh càng trở lên
quyết liệt và giá hàng hoá dịch vụ sẽ tăng, cuối cùng người bán thu được lợi

nhuận cao, còn người mua mất thêm một số tiền. Đây là cuộc cạnh tranh mà
người mua tự làm hại mình.
1.2.2.3. Cạnh tranh giữa người bán với nhau.
Là cuộc cạnh tranh trên vũ đài thị trường, đó là sự giành giật các lợi thế
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ nhằm thu được lợi nhuận lớn nhất.
Khi sản xuất hàng hóa càng phát triển, số người bán càng tăng thì cạnh tranh
càng quyết liệt. Trong quá trình ấy, một mặt sản xuất hàng hóa với quy luật cạnh
tranh sẽ lần lượt gat ra khỏi thị trường những chủ doanh nghiệp không có chiến
lược cạnh tranh thích hợp, Mặt khác nó mở đường cho những doanh nghiệp
nắm chắc được “vũ khí” phát triển.
1.3. CÁC CÔNG CỤ VÀ HÌNH THỨC CẠNH TRANH.
1.3.1. Các công cụ cạnh tranh.
1.3.1.1. Cạnh tranh bằng sản phẩm.
Đây là một trong những hình thức cạnh tranh quan trọng nhất, chữ tín của
doanh nghiệp và tạo ra lợi thế có tính quyết định cho cạnh tranh.
Nhu cầu của người ngày càng có xu thế đi lên do vậy cuộc đời của mỗi
mẫu hàng ngắn dần. Sự sống còn của mỗi công ty phụ thuộc vào khả năng thay
đổi mẫu mã kiểu dáng nhanh. Sản xuất hàng loạt kết hợp với những mặt hàng
đơn chiếc phục vụ cho từng đối tượng người tiêu dùng sẽ nâng cao sức cạnh
tranh cho công ty. Thời kỳ “chất lượng ăn đứt hình thức” đã qua, khách hàng
đòi hỏi cả nội dung lẫn hình thức. Bao bì đẹp thể hiện sự tôn trọng đối với
người tiêu dùng.
Cạnh tranh thông qua việc xác định và đưa ra thị trường những sản phẩm
có chất lượng cao hơn, những sản phẩm này có ưu thế trên thương trường tuy
nhiên cần chú ý mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng và giá bán để đảm bảo
lợi thế của sản phẩm có chất lượng cao.
1.3.1.2. Cạnh tranh bằng giá.
Giá cả là một trong những công cụ cạnh tranh quan trọng nhất. Định giá
có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vì nó là nhân tố quy định sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Định giá trong kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp

phải nghiên cứu các yếu tố một cách tỉ mỉ để có thể quy định giá thích hợp cho
sản phẩm của mình một cách phù hợp nhất vào một thời điểm nhất định nào đó.
Đưa ra một chính sách giá cả nào, vào thời điểm nào cho phù hợp sẽ tạo nhiều
điều kiện thuận lợi cho công ty. Các đối thủ cách tranh sử dụng giá thấp hoặc
gia ưu đãi để bán hàng, với mức giá đó kênh phân phối của doanh nghiệp sẽ bị
rối loạn, người điều khiển kênh không quản lý được lực lượng bán hàng và phần
lớn người bán hàng vì chạy theo lợi ích kinh tế đã đi bán hàng cho đối thủ cạnh
tranh và do đó doanh nghgiệp không có người bán hàng sẽ bị phá sản. Cạnh
tranh bằng giá thực chất là tạo được nghệ thuật sử dụng giá và giá bán tạo ra
nhiều lợi thế trên thương trường. Các biện pháp cạnh tranh về giá mà các công
ty đưa ra là một cơ sở giá linh hoạt. Nó không phải cố định mà thay đổi phù hợp
theo tình hình thị trường, bao gồm:
 Định giá thấp: Với mục đích thâm nhập thị trường hay thu hút được một
khối lượng lớn khách hàng, nhanh chóng thu tiền về các công ty sẽ đưa ra
mức giá thấp.
 Sử dụng hạ giá: Thực chất là chú trọng đến việc quản lý chặt chẽ và chi
phí tiết kiệm chi phí và hạ thấp chi phí do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải
có sự lựa chọn công nghiệp và thiết bị. Hạ giá để chiếm lĩnh thị trường
của sản phẩm và thực hiện chiến lược về tài chính. Khi thị trường đã
chiếm lĩnh được doanh nghiệp có thể lại hoàn giá theo mức cũ hoặc
tương đương, trong cạnh tranh hạ giá là biện pháp được sử dụng nhiều
nhất.
 Giá ưu đãi: Giá ưu đãi thường có mức giá thấp hoặc rất thấp do đó nó trở
thành yếu tố lợi ích rất hấp dẫn đối với người mua và người tiêu dùng. Vì
vậy nó có khả năng lôi kéo nhu cầu xã hội về sản phẩm của doanh
nghiệp.
 Giá thị trường: Công ty không muốn lôi kéo khách hàng về phía mình
bằng mức giá thấp và đồng thời họ cũng không muốn mất khách hàng
nếu họ đánh giá quá cao thị trường.
 Cố định giá cao: Công ty muốn tối đa hoá lợi nhuận khu vực thị trường

của mình thị công ty sẽ tìm cách dễ tăng giá dịch vụ.
1.3.2.2. Cạnh tranh bằng dịch vụ.
Phục vụ là một trong một trong số lĩnh vực có cạnh tranh mãnh liệt nhất,
đặc biệt trong lĩnh vực hiện nay. Nhiều hãng coi đây là địa bàn lợi hại nhất trong
việc trinh phục khách hàng. Chất lượng hàng hoá thì khó phân biệt nhưng trình
độ và chất lượng dịch vụ thì khó qua mắt người tiêu dùng.
Người tiêu dùng hiện đại thường quan tâm nhiều đến dịch vụ hơn là một
số yếu tố như giá cả, thậm chí cả chất lượng của món hàng đã mua. Việc vận
chuyển ra sao, cách bảo hành như thế nào, thời gian bảo dưỡng đinh kỳ có
thường xuyên hay không thái độ bên bán ra sao mỗi khi hàng hóa có vấn đề trục
trặc.
Như vậy chất lượng phục vụ là yếu tố hết sức quan trọng, chất lượng
phục vụ thay đổi tuỳ theo người cung cấp thời gian, địa điểm. Vì vậy để cạnh
tranh hiệu quả, nguyên tắc chung của họ là tạo sự tin tưởng đối với khách hàng.
Trong kinh doanh các doanh nghiệp thường phải đối đầu với tính thời vụ có lúc
hoạt động dồn dập, nhưng cũng có lúc không có việc làm. Việc tạo ra một cơ
cấu phục vụ sẽ giúp được doanh nghiệp khắc phục được hạn chế trên và sẽ thoả
mãn được nhu cầu khách hàng, giảm bớt được rủi ro trong kinh doanh.
1.3.2.3.Cạnh tranh bằng uy tín.
Các hãng tranh nhau bỏ những khoản tiền lớn mua một số nhãn hiệu nổi
tiếng, hay đấu tranh chống bọn làm hàng giả, nâng cao chất lượng hàng hoá và
dịch vụ, cố gắng tiết kiệm các chi phí để hạ giá thành sản phẩm. .. cũng chỉ đẻ giữ
uy tín của công ty với khách hàng. Để tạo uy tín là vô cùng khó khăn, tốn kém và
vô cùng kì công, trong đó chỉ sơ xuất nhỏ cũng làm mất nó. Tạo được uy tín đã
khó, phấn đấu để duy trì và củng cố nó càng khó hơn.
Trong xã hội tiêu dùng, khi chất lượng hàng hoá của các hãng không
chênh lệch nhau là mấy thì uy tín là vấn đề quyết định khách hàng chỉ tìm đến
với các nhãn mác nổi tiếng chứ không mấy ai bỏ tiền ra mua hàng hoá không rõ
nguồn gốc xuất xứ.
1.2.3.4. Cạnh tranh thông qua hệ thống phân phối và dịch vụ sau bán hàng.

Tương lai của mỗi công ty, mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào khối lượng
hàng hoá bán ra. Nhà phân phối thông tạo không bao giờ bỏ sót bất kỳ một diện
đối tượng khách hàng nào, dù là không đáng kể, việc phát triển đại lý với hệ
thống những cửa hàng rộng rãi, mở rộng các mô hính phân phối cửa hàng di
động, cửa hiệu gia đình, siêu thị. .. có dịch vụ bán và dịch vụ sau khi bán tốt và
hợp lý, kết hợp với nhưng người bán trên thị trường, có các biện pháp phong
phú để kết dính các thành viên trong kênh lại với nhau đặc biệt là các biện pháp
để quản lý chặt chẽ người bán hàng và điều khiển những người bán hàng, kết
hợp hợp lý giữa các phương thức bán, phương thức thanh toán. .. nhằm góp
phần nâng cao sức tiêu thụ của hàng hoá.
1.3.CÁC HÌNH THỨC CẠNH TRANH.
1.3.1. Cạnh tranh trực diện.
Đây là một trong những hình thức cạnh tranh rất hữu hiệu nhằm trực tiếp
đa sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp mình so sánh trớc đối thủ cạnh tranh
để từ đó bộc lộ trực tiếp các ưu điểm mà bản thân hàng hoá có được kèm theo
tất cả các dịch vụ đi kèm nhằm hớng sự quan tâm của khách hàng lên ngay các
sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp mình. Hình thức cạnh tranh này hiện nay
đang được hầu hết các công ty và doanh nghiệp áp dụng để tạo thế cạnh tranh
và khẳng định vị trí cạnh tranh cho các mặt hàng của mình. Tuy nhiên đây là
hình thức cạnh tranh đòi hỏi các mặt hàng của doanh nghiệp phải thực sự có ưu
điểm nổi trội hơn hẳn các hàng hoá cạnh tranh về mọi mặt: giá cả, chất lượng,
mẫu mã… Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự đầu tư lớn, quy mô và
doanh số lớn, chi phí được phân bổ trên số lợng hàng lớn và tiềm lực kinh tế
mạnh nhằm trực tiếp đè bẹp các đối thủ cạnh tranh của mình. Đối với các công
ty hay doanh nghiệp nhỏ, đây là hình thức cạnh tranh tương đối khó và mạo
hiểm bởi về tiềm lực kinh tế họ không đủ khả năng để duy trì đợc một mức giá
thấp như với các đối thủ mạnh, bên cạnh đó việc đầu tư vào công nghệ, mẫu
mã,…cũng không thể so sánh với các doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh và
sự đầu tư cao. Vì vậy tuỳ theo từng mặt hàng mới nên áp dụng hình thức cạnh
tranh như trên để tránh tình trạng bị đối thủ cạnh tranh lớn đè bẹp.

2.3.2. Cạnh tranh không trực diện.
Ngược lại với hình thức trên là hình thức cạnh tranh không trực tiếp đa
sản phẩm của mình ra so sánh ngang bằng về giá cả, chủng loại, mẫu mã, nhãn
hiệu… với đối thủ cạnh tranh để tránh bị tổn hại về vị trí cũng như khả năng
kinh tế sau khi cạnh tranh với các đối thủ mạnh. Thường các công ty, doanh
nghiệp khi lựa chọn hình thức này sẽ đa ra thị trờng các mặt hàng thay thế, thay
đổi một chút so với các mặt hàng của đối thủ cạnh tranh nhằm tránh bị so sánh
trực tiếp với các hàng hoá cùng chủng loại của đối thủ cạnh tranh. Đây là hình
thức cạnh tranh tương đối an toàn cho các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ,
tuy nhiên doanh nghiệp sẽ mất thời gian trong việc chiếm lĩnh thị phần cũng
như nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá trên thị trường.
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ.
1.4.1. Các nhân tố thuộc bản thân hàng hoá ảnh hưởng đến sức cạnh tranh.
Hàng hoá chính là đối tượng để nâng cao năng lực cạnh tranh đồng thời
cũng chính là công cụ để cạnh tranh một cách hữu hiệu nhất với các hàng hoá
khác của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy khi đề cập đến các nhân tố
ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá thì trước hết cần đề cập đến chính
các nhân tố nằm từ bản thân hàng hoá đó.
1.4.1.1. Nhân tố giá cả.
Từ khi xuất hiện nền kinh tế thị trường thì giá cả đã trở thành một công
cụ cạnh tranh đắc lực của các nhà kinh doanh. Giá cả của hàng hoá phản ánh
được sự hợp lý hoá về chi phí sản xuất của doanh nghiệp, phản ánh được phần
nào sức cạnh tranh của mặt hàng đó trên thị trường. Theo quy luật cầu thì giá
càng hạ lượng cầu càng tăng, đặc biệt đối với các hàng hoá thông thường, chính
vì vậy khi mặt hàng có giá tương đối thấp trên thị trường thì nó sẽ chiếm được
ưu thế khá lớn so với các đối thủ cạnh tranh và khẳng định được sức cạnh tranh
của nó trên thị trường. Vì vậy có thể khẳng định giá cả có ảnh hưởng hết sức to
lớn tới sức cạnh tranh của hàng hoá.
1.4.1.2. Nhân tố chất lượng.
Chất lượng sản phẩm phải được thể hiện toàn diện bằng hàm lượng khoa

học kỹ thuật trong sản phẩm. Hàm lượng khoa học cao, chất lượng sản phẩm tốt
thì có thể bán được với giá cao. Nhất là khi mà mức thu nhập của khách hàng
nước ngoài là rất cao, họ rất quan tâm đến chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là hệ thống đặc tính các nội tại của sản phẩm được
xác định bằng những thông số có thể đo được hay so sánh được phù hợp với
những điều kiện kỹ thuật hiện tại và thoả mãn được những nhu cầu nhất định
của xã hội.
Chất lượng sản phẩm càng cao tức là làm tăng được mức độ thoả mãn của
người tiêu dùng đối với sản phẩm, kích thích tiêu dùng dẫn đến tăng khả năng
tiêu thụ và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ khác.
Trên cơ sở đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh một
cách rất hiệu quả cho các sản phẩm của doanh nghiệp.
1.4.2.3. Nhân tố mẫu mã.
Ngày nay khi cuộc sống và mức sống của mỗi người đã được cải thiện thì
mọi người đều trở nên cầu kỳ hơn trong việc lựa chọn mẫu mã của các sản
phẩm hàng hoá. Ngoài các yêu cầu khắt khe về chất lượng, uy tín, nhãn hiệu…
của sản phẩm hàng hoá, người mua còn đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải đưa

×