Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

HOẠT ĐỘNG TTKDTM TẠI CÁC NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.38 KB, 35 trang )

HOẠT ĐỘNG TTKDTM TẠI CÁC NHTM.
1.1. NHTM và hoạt động TTKDTM tại các NHTM.
1.1.1. Sự tồn tại khách quan của hoạt động TTKDTM.
Sản xuất hàng hóa ra đời kéo theo sự xuất hiện của tìên tệ. Tiền tệ là
một loại hàng hoá đặc biệt, nó có thể biểu hiện được giá trị của tất cả các loại
hàng hoá khác và có thể thoả mãn được hầu hết các nhu cầu. Quá trình sản xuất
càng phát triển thì hàng hoá tạo ra ngày càng nhiều hơn, sự trao đổi ngày càng
được mở rộng và phức tạp. Tiền tệ ra đời với chức năng là phương tiện thanh
toán, phương tiện lưu thông đã góp phần tích cực cho sản xuất hàng hoá và lưu
thông phát triển.
Hình thái tiền thân của tiền tệ là hàng hoá được chọn làm vật ngang giá
chung. Sau một thời gian thì tiền tệ được cố định là tiền vàng do có nhiều tính
ưu việt hơn các loại hàng hoá khác. Trình độ sản xuất hàng hoá ngày càng phát
triển, khối lượng hàng hoá tăng theo cấp số nhân, còn trữ lượng vàng thì khai
thác không kịp làm cho giá trị danh nghĩa của tiền tê tách rời giá trị thực tế.
Tiền giấy ra đời khắc phục hạn chế của tiền vàng do việc in ấn không hạn chế
và có nhiều mệnh giá khác nhau, nó đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá
phát triển nhịp nhàng hơn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Trong quá trình
lưu thông luôn xuất hiện hai dòng luân chuyển: dòng luân chuyển hàng hoá và
dòng luân chuyển tiền tệ được thực hiện bởi các chủ thể kinh tế.
Bất kỳ một chủ thể nào muốn tiến hành sãn xuất kinh doanh đều phải có
hai quá trình trao đổi: quá trình mua hàng hoá dịch vụ đầu vào để tiến hành sản
xuất kinh doanh và quá trình bán sản phẩm đầu ra nhằm thu lợi nhuận. Và trong
quá trình sản xuất kinh doanh đó thì thanh toán là khâu đầu tiên và cũng là khâu
cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh đó. Thanh toán là điều kiện quan
trọng đảm bảo sự tuần hoàn bình thường của lưu thông hàng hóa của quá trình
chu chuyển vốn được liên tục trong từng đơn vị sản xuất nói riêng cũng như
trong nền kinh tế nói chung.
Khâu thanh toán bị ách tắc thì quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn, các mối
quan hệ kinh tế bị phá vỡ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Thanh
toán bằng tiền mặt có nghĩa là việc chi trả được thực hiện trực tiếp bằng tiền


mặt trong các quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán, hay sự vận động
của hàng hoá gắn liền với một khối lượng tiền tệ nhất định. Khi sản xuất hàng
hoá chỉ ở trong một phạm vi hẹp, nền kinh tế ở trình độ thấp, khối lượng thanh
toán nhỏ thì thanh toán bằng tiền mặt tỏ ra linh hoạt diễn ra ở mọi lúc mọi nơi
tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của người mua và người bán.
Khi sản xuất hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trao đổi hàng hóa không
còn bó hẹp trong phạm vi một vùng nữa mà nó đã mở rộng ra phạm vi toàn
quốc và trên thế giới. Khối lượng sản phẩm sản xuất ra và tiêu thụ với quy mô
lớn, phạm vi rộng, việc thanh toán bằng tiền mặt sẽ không an toàn làm tăng chi
phí lưu thông (chi phí vận chuyển, in ấn, bảo quản, kiểm đếm,…). Việc thanh
toán bằng tiền mặt sẽ gây cản trở cho tốc độ chu chuyển vốn, đồng thời tạo ra
những khe hở không thể kiểm soát như tham ô, trốn thuế trong kinh doanh.
Với những hạn chế nói trên thanh toán bằng tiền mặt trở nên không còn
phù hợp, không đáp ứng được nhu cầu của một nền kinh tế hiện đại đòi hỏi phải
có một hình thức thanh toán mới là hình thức TTKDTM qua ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ qua chức
năng phương tiện thanh toán giữa các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội
bằng cách trích chuyển vốn từ tài khoản của người phải trả sang tài khoản của
người thụ hưởng. Để có được hình thức thanh toán này thì khách hàng phải mở
tài khoản tại ngân hàng. TTKDTM là nghiệp vụ trung gian của ngân hàng, là
một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, của các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội. Nó là cần
thiết khách quan không chỉ đối với sự phát triển của hệ thống ngân hàng mà còn
cần thiết cho một nền kinh tế hiện đại.
Để thực hiện TTKDTM thì không thể thiếu sự tham gia của hệ thống các
NHTM. Sự xuất hiện của NHTM gắn liền với sự phát triển của sản xuất lưu
thông hàng hóa, tiền tệ.
NHTM là đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với ba nghiệp vụ
chính là: nhận gửi, cho vay và cung ứng dịch vụ thanh toán, ngoài ba nghiệp vụ
này còn có các dịch vụ khác tuỳ theo sự phát triển của hệ thống ngân hàng.

Hoạt động của NHTM là khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình tuần hoàn
và chu chuyển vốn. NHTM không chỉ cung cấp vốn cho sản xuất mà còn thúc đẩy
sự vận động của nền kinh tế thông qua dịch vụ TTKDTM qua ngân hàng.
Trong thực tiễn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì mọi đơn
vị kinh tế đều phải có một khối lượng tiền tệ nhất định để mua nguyên vật liệu,
chi trả các khoản phí phát sinh trong quá trình sản xuất của mình. Các đơn vị
kinh doanh thương mại có quá trình mua hàng hoá vào và bán hàng ra, tất yếu
phải có hoạt động thanh toán tiền hàng. Nếu như mỗi đơn vị này phải vận
chuyển tiền lượng tiền mang đi hay thu về bằng phương tiện giao thông vận tải
thì chi phí lớn, không an toàn và mất thời gian. Chính vì vậy mỗi đơn vị cần
một trung gian đáng tin cậy để đóng vai trò lưu trữ, bảo quản và thực hiện chi
trả hộ. Trung gian đó chính là Ngân hàng. Việc thanh toán sẽ được diễn ra trong
nội bộ hệ thống ngân hàng với sự trợ giúp của các phương tiện thông tin liên lạc
hiện đại khiến cho hoạt động thanh toán được nhanh chóng, tiết kiệm và an
toàn.
NHTM là đơn vị thực hiện hoạt động TTKDTM. Với vai trò là trung
gian thanh toán trong nền kinh tế, Ngân hàng đưa ra các công cụ thanh toán hữu
ích đa dạng nhằm đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngày càng lớn của các chủ
thể trong nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện tốt hoạt động TTKDTM là thúc đẩy
nhanh quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình tái
sản xuất. Với sự trợ giúp của hệ thống ngân hàng, quan hệ thanh toán trở nên
đơn giản hơn rất nhiều đối với các đơn vị kinh doanh, họ sẽ không tốn nhiều
thời gian và chi phí cho sản xuất, không gian sản xuất được mở rộng. Các đơn
vị kinh doanh ở xa vẫn có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách
dễ dàng mà không phải tốn nhiều thời gian và chi phí cho hoạt động thanh toán
của mình. Bằng việc áp dụng công nghệ hiện đại với các mối quan hệ đa dạng
của mình ngân hàng thực hiện thanh toán cho một doanh nghiệp một cách
nhanh chóng và an toàn. Các hoạt động thanh toán như vận chuyển tiền, kiểm
tra tiền để thanh toán nay không còn nữa mà thay vào đó các đơn vị kinh doanh
chỉ cần mở một tài khoản tại ngân hàng và ký lệnh thanh toán khi cần thiết là

mọi hoạt động thanh toán coi như đã hoàn tất. Hơn nữa khoản tiền gửi của các
đơn vị kinh tế, cá nhân tại ngân hàng được an toàn và được hưởng lãi từ khoản
tiền gửi đối với lãi suất tiền gửi thanh toán.
Ngân hàng làm trung gian thanh toán đã làm giảm lượng tiền mặt lưu
thông , tiền mặt không bị vận chuyển qua lại nhiều lần từ đó làm tăng tuổi thọ
của tiền. làm giảm các chi phí in tiền vận chuyển và bảo quản tiền, các khoản
tiền nhàn rỗi được sử dụng để phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động TTKDTM
Hoạt động TTKDTM đã xuất hiện từ rất lâu. Lịch sử xuất hiện thanh
toán chuyển khoản đầu tiên ở nước Anh. Trước năm 1854 nước Anh phát hành
tờ giấy bạc 1000 bảng Anh trị giá bằng 7,3224 kg vàng để tiện cho các nhà tư
bản rút tiền mặt thanh toán với nhau, đến chiều thì lại nộp vào ngân hàng. Năm
1854, nước Anh phát minh ra phòng thanh toán bù trừ và mang kết quả thanh
toán bù trừ về làm chuyển khoản giữa các nhà tư bản thì việc rút tiền mặt buổi
sáng nộp lại buổi chiều chấm dứt. Kể từ đó các ngân hàng nước Anh chuyển từ
các ngân hàng tiền mặt thành các ngân hàng chuyển khoản.
Hoạt động TTKDTM được dựa trên cơ sở tiền gửi ở ngân hàng, việc
thanh toán được tiến hành bằng phương pháp ghi chuyển từ tài khoản người này
sang tài khoản người khác. TTKDTM có những đặc điểm sau:
 Sự vận động của hàng hoá và tiền tệ luôn có sự tách rời về thời gian,
sự vận động của tiền tệ có thể trước hoặc sau sự vận động của hàng hoá. Để
sự vận động này được diễn ra một cách hợp lý thì cơ chế thanh toán phải quy
định thời gian lập và chuyển chứng từ giữa các ngân hàng, giữa ngân hàng
với các tổ chức kinh tế cho tương xứng với thời gian vận chuyển hàng hoá,
cung cấp dịch vụ đến tay người mua. Hiện nay với sự phát triển của công
nghệ máy tính, thời gian thanh toán rất nhanh chỉ sau vài phút có khi chỉ vài
giây là việc thanh toán được hoàn tất, trong khi đó thời gian vận động của
hàng hoá lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Chính vì vậy mà cần
phải có nhiều hình thức thanh toán khác nhau để đáp ứng tốt các quan hệ
mua bán hàng hóa và thanh toán theo yêu cầu của khách hàng.

 Khi thực hiện hoạt động thanh toán thì các chứng từ là do khách hàng
lập đòi hỏi cơ chế thanh toán phải quy định những nguyên tắc thống nhất,
nghiêm ngặt có tính chuẩn mực cao, hình thức thanh toán nào được áp dụng
thì sẽ sử dụng bộ chứng từ đó, trong các chứng từ số liên cũng phải đủ, đúng
chữ ký, lập theo mẫu quy định của Ngân hàng Nhà nước giúp cho việc thanh
toán thuận lợi, chính xác, đồng thời hạn chế việc lập các chứng từ giả.
 Hệ thống ngân hàng hoạt động với mạng lưới rộng khắp, số lượng
nghiệp vụ lớn, để kiểm soát theo dõi ngân hàng và khách hàng dễ dàng trong
quá trình thanh toán phải có sự thống nhất về quy trình thanh toán, loại hình
chứng từ, mẫu chứng từ,…giữa các ngân hàng. Khi khách hàng gửi chứng từ
thanh toán đến, kế toán giao dịch sẽ nhận biết đó là loại chứng từ nào, của
ngân hàng nào, việc thanh toán trở nên nhanh chóng hơn.
 Hoạt động thanh toán được kết thúc trên các tài khoản tại ngân hàng.
Nhưng nhiều lý do khác nhau mà việc kết thúc này không được trọn vẹn, tức
là sau khi ghi chép trên tài khoản còn có nhiều khách hàng từ chối thanh
toán. Sự từ chối gây ra nhiều rắc rối, gây ảnh hưởng đến khả năng tài chính,
kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế cá
nhân trong xã hội.
1.1.3. Vai trò của hoạt động TTKDTM trong nền kinh tế.
Hiện nay TTKDTM có vai trò rất quan trọng đối với các thành phần kinh tế.
Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan hệ thương mại giữa các nước
ngày càng mở rộng, phát triển cả về khối lượng và chủng loại hàng hoá. Chính
vì vậy mà hoạt động TTKDTM là một hoạt động không thể tách rời với hoạt
động kinh tế, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. Vai trò
của hoạt động TTKDTM thể hiện như sau:
1.1.3.1. Đố i v ớ i Ngân h à ng
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động TTKDTM có sự tách rời giữa sự
vận động của hàng hoá và tiền tệ, trong thời gian đó ngân hàng vẫn có thể tận
dụng được nguồn vốn nhàn rỗi từ hoạt động thanh toán, nhất là hình thức thanh
toán bằng séc bảo chi, thư tín dụng, ngân phiếu thanh toán khách hàng phải ký

quỹ tương ứng với giá trị của nó. Thanh toán qua ngân hàng tạo ra một lượng
vốn rất lớn cho hoạt động sản xuất. Ngân hàng phải trả lãi cho tiền gửi thanh
toán nhưng đây lại là nguồn vốn kém ổn định, có thể giảm bất cứ khi nào nên
hiệu suất sử dụng nguồn vốn này thấp, chỉ có thể cho vay ngắn hạn khó có thể
cho vay trung và dài hạn được. Vì thế mà lãi suất trả cho nguồn này thấp khoảng
0.15%/năm, trong khi ngân hàng có thể dùng nguồn này để cho vay, thanh toán
để thu lãi và phí dịch vụ. Đối với các ngân hàng nước ngoài thu phí từ các dịch
vụ chiếm khoảng 70% tổng thu nhập của ngân hàng.
Với hình thức TTKDTM, khách hàng gửi tiền vào tài khoản tại ngân
hàng, ngân hàng có thể kiểm soát được một lượng tiền trong nền kinh tế, cũng
như khả năng tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó
ngân hàng cung ứng một lượng tiền thích hợp cho nền kinh tế, giúp ngân hàng
hoạt động an toàn hơn, nâng cao hiệu quả tín dụng, đầu tư, tạo điều kiện cơ cấu
lại thành phần kinh tế cho hợp lý.
Hoạt động TTKDTM không chỉ tác động trực tiếp đến nghiệp vụ thanh
toán mà còn tác động đến các nghiệp vụ khác như hoạt động cho vay, huy động
vốn của ngân hàng. Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có quan hệ chặt
chẽ, tác động qua lại và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
1.1.3.2. Đố i v ớ i khách h à ng
Các khách hàng tham gia thanh toán tại ngân hàng bao gồm các tổ chức,
các thành phần kinh tế, và các cá nhân dân cư trong xã hội. Để tiến hàng thanh
toán các khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng phục vụ
mình và trên tài khoản này luôn có số dư để đảm bảo khả năng thanh toán khi cần
thiết. Hoạt động TTKDTM giúp khách hàng bảo toàn khối lượng tiền của mình
trong ngân hàng, nên tránh được rủi ro, tránh được sơ hở có thể bị lợi dụng. Khi
có hoạt động thanh toán thì ngân hàng trích từ tài khoản này sang tài khoản khác
nên tiết kiệm được chi phí bảo quản, vận chuyển. TTKDTM tạo điều kiện quay
nhanh vòng vốn, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh nhanh chóng và hiệu
quả. TTKDTM đảm bảo chính xác, rút ngắn thời gian thanh toán với chi phí thấp,
giúp các khách hàng an tâm, tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm

tăng hiệu quả sản xuất của xã hội.
1.1.3.3. Trên ph ươ ng di ệ n qu ả n lý v ĩ mô c ủ a Nh à n ướ c
Đố với nền kinh tế, việc tăng tỷ trọng TTKDTM sẽ làm giảm khối
lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm được chi phí lưu thông, chi phí in ấn,
phát hành, kiểm đếm, bảo quản,… đồng thời giúp Ngân hàng Trung Ương điều
tiết lượng tiền cung ứng phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế thông qua chính
sách tiền tệ thắt chặt hay mở rộng tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của
nền kinh tế. NHTW làm trung tâm thanh toán của toàn bộ nền kinh tế, nhưng
không chỉ thực hiện nghiệp vụ thanh toán một cách đơn thuần mà ngân hàng
còn thực hiện kiểm soát quan hệ mua bán, quy trình sử dụng vốn, việc chấp
hành chế độ, nguyên tắc quản lý kinh tế của từng ngân hàng.
Có thể thấy thông qua hoạt động TTKDTM Chính phủ, NHTW thực
hiện tốt hơn chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, điều tiết được lượng tiền lưu
thông trong nền kinh tế. Từ đó góp phần hạn chế lạm phát, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển, định hướng phát triển nền kinh tế theo sự quản lý của
Nhà nước.
Tóm lại hoạt động TTKDTM có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị
trường, được thể hiện dưới mấy điểm sau:
− Một là TTKDTM tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội.
− Hai là TTKDTM đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn kinh doanh, đảm bảo sản
xuất lưu thông liên tục.
− Ba là TTKDTM tạo điều kiện tập trung nguồn vốn trong nền kinh tế làm
tăng nguồn vốn cho ngân hàng.
− Bốn là TTKDTM có vai trò cung cấp thông tin cho ngân hàng thực hiện
kiểm soát bằng đồng tiền.
Như vậy, hoạt động TTKDTM có vai trò trực tiếp cũng như gián tiếp ảnh
hướng đến ba thành viên quan trọng của nền kinh tế đó là doanh nghiệp, Ngân
hàng, Nhà nước. Thực hiện tốt hoạt động TTKDTM sẽ tạo điều kiện cho từng
thành viên đạt hiệu quả cao trong hoạt động của mình, đồng thời thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.

1.2. Các hình thức TTKDTM phổ biến.
Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, ở mỗi thời kỳ và tuỳ theo
thói quen của dân cư mà mỗi nước có thể sử dụng các hình thức thanh toán khác
nhau cho phù hợp,
Từ sau năm 1986 nước ta xoá bỏ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đã nhiều lần thay đổi các
văn bản quy định về các hình thức TTKDTM. Thời kỳ bắt đầu đổi mới hệ thống
ngân hàng những năm 1990 – 1991, các hình thức TTKDTM được thực hiện
bởi quyết định số 101/QĐ ngày 31/07/1991 bao gồm 4 hình thức thanh toán sau:
- Séc
- Uỷ nhiệm thu (UNT)
- Uỷ nhiệm chi (UNC)
- Thư tín dụng (L/C)
Sau một quá trình thực hiện quyết định trên, NHNN nhân thấy 4 hình thức
TTKDTM này chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đa dạng của nền kinh tế,
Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 22/QĐ-NH ngày 21/12/1994 bổ xung
thêm 2 công cụ thanh toán, theo quyết định này thì các cá nhân và đơn vị thanh
toán qua ngân hàng được áp dụng các hình thức thanh toán dưới đây:
- Séc
- UNT
- UNC
- Thư tín dụng
- Phiếu thanh toán
- Thẻ thanh toán
Riêng về séc thanh toán ngày 09/05/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 30/CP về quy định sử dụng séc, NHNN đã ban hành thông tư hướng dẫn quy
chế phát hành và sử dụng cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng, thông tư
hướng dẫn có hiệu lực từ ngày 04/04/1997.
Trong các hình thức TTKDTM được quyết định ở số 22/QĐ-NH của
Thống đốc NHNN, ngân phiếu được coi là một hình thức TTKDTM. Tuy nhiên

theo quyết định số 425 ngày 17/12/1998 của Thống đốc NHNN thì ngân phiếu
thanh toán được xếp vào tài khoản loại 1, loại hoạt động ngân quỹ. Mặt khác do
đặc điểm của ngân phiếu thanh toán là do NHNN phát hành, có thời hạn thanh
toán và mệnh giá in sẵn trên từng tờ, vô danh, được chuyển nhượng. Với đặc
điểm này thì ngân phiếu thanh toán được sử dụng như tiền mặt có thời hạn. Hơn
nữa đối với bất kỳ hình thức TTKDTM nào người sử dụng hình thức thanh toán
đó phải có tài khoản tại ngân hàng. Có những trường hợp khách hàng đến ngân
hàng xin lĩnh ra bằng ngân phiếu thanh toán thì nhân viên ngân hàng có thể trả
lời: “Hiện nay chưa có ngân phiếu thanh toán, xin khách hàng vui lòng lĩnh tiền
mặt”. Sự từ chối này tương tự với việc không có tiền mệnh giá lớn, đề nghị
khách hàng vui lòng nhận tiền mệnh giá bé. Như vậy thì hình thức thanh toán
bằng ngân phiếu không phải là một hình thức TTKDTM. Vì thế mà hiện nay
các hình thức TTKDTM phổ biến bao gồm 5 hình thức: Séc, UNT, UNC, thư
tín dụng, thẻ.
1.2.1. Thanh toán bằng Séc
1.2.1.1. Khái ni ệ m v à quy đị nh chung v ề s ử d ụ ng séc .
1) Khái niệm.
Séc là một lệnh trả tiền vô điều kiện của chủ tài khoản được lập trên mẫu
in sẵn đặc biệt của ngân hàng, ra lệnh cho ngân hàng trích tiền trên tài khoản
của mình để thanh toán cho người được hưởng.
Theo quyết đinh số 101/QĐ-NH do Thống đốc NHNN ban hành ngày
30/7/1991, séc được coi là một trong 4 hình thức TTKDTM gồm 3 loại séc là:
séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức. Đến ngày 21/12/1994 Thống đốc
NHNN đã ký quyết định số 22/QĐ-NH bổ xung thêm 2 hình thức thanh toán và
thêm một loại séc là séc cá nhân.
2) Các quy định chung về sử dụng séc.
Theo Nghị định 30/CP của Chính phủ ban hành về quy chế phát hành và
sử dụng séc do thủ tướng chính phủ ký ngày 09/05/1996 quy định rõ Việt Nam
được phép lưu hành loại séc vô danh và séc ký danh. Trong đó séc vô danh
được chuyển nhượng tự do, còn séc ký danh được phép chuyển nhượng thông

qua thủ tục ký hậu chuyển nhượng, trừ trường hợp người phát hành séc đã ghi
cụm từ “không được phép chuyển nhượng”, hoặc trên tờ séc ghi “không tiếp tục
chuyển nhượng”. Nghị định 30/CP ra đời đánh dấu một bước chuyển đổi có ý
nghĩa kinh tế lớn trong việc sử dụng séc ở Việt Nam. Theo Nghị định này thì
séc không còn là một công cụ chuyển khoản đơn thuần mà như một công cụ lưu
thông.
Séc được sử dụng thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ…
hoặc rút tiền mặt tại các chi nhánh ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài
khoản tại ngân hàng đều có thể sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn có hiệu lực
thanh toán séc được tính từ ngày ký phát hành séc đến ngày nộp séc vào ngân
hàng. Theo quy định thời hạn hiệu lực của séc là 15 ngày. Nếu thời hạn kết thúc
của séc vào ngày nghỉ, ngày lễ thì thời hạn lùi vào ngày làm việc tiếp theo sau
ngày nghỉ, ngày lễ đó. Trong trường hợp séc đã quá thời hạn thanh toán, người
thụ hưởng phải yêu cầu người phát hành mới đổi tờ séc đã quá hạn, thời hạn để
đổi séc quá hạn nói trên là 6 tháng kể từ ngày phát hành tờ séc đã quá hạn.
Séc chỉ đủ điều kiện thanh toán khi nó đảm bảo các yếu tố sau:
- Tờ séc phải có đủ các yếu tố theo quy định, không được tẩy xoá, sửa chữa,
số tiền bằng số và bằng chữ phải khớp nhau, ghi rõ ngày tháng năm lập séc
và ký tên.
- Được nộp trong thời hạn hiệu lực thanh toán.
- Không có lệnh đình chỉ thanh toán.
- Chữ ký và dấu (nếu có) của người phát hành séc phải khớp đúng với mẫu
đăng ký tại ngân hàng.
- Không ký phát hành séc vượt quá thẩm quyền quy định tại văn bản uỷ
quyền.
- Các chữ ký chuyển nhượng (đối với séc ký danh) phải liên tục.
- Tài khoản tiền gửi của chủ tài khoản đủ số dư để thanh toán.
Séc được hạch toán theo nguyên tắc “Nợ trước, có sau”. Các tờ séc sau
khi kiểm tra tính hợp lệ, có đủ tiền trên tài khoản tiền gửi thì ngân hàng phải ghi
nợ vào tài khoản người phát hành trước, ghi có vào tài khoản người thụ hưởng

sau.
3) Trách nhiệm của các bên tham gia sử dụng séc.
Tham gia sử dụng séc gồm 3 bên: người phát hành séc, ngân hàng thanh
toán séc, người thụ hưởng.
Đối với người phát hàng séc: Phải có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân
hàng (nơi thanh toán hộ mình). Người phát hành không được ký khống trên tờ
séc và chỉ được phát hành trong số dư tài khoản tiển gửi của mình hoặc số dư
của sổ séc định mức đã lưu ký tại ngân hàng. Nếu phát hành séc quá số dư lần
một thì nhắc nhở và phạt tiền, lần hai thì phạt tiền đình chỉ phát hành séc trong
vòng 6 tháng, lần ba thì sẽ tước quyền phát hành séc.
Mức phạt tiền như sau:
Người phát hành séc phải phạt tiền bằng 30% số tiền phát hành quá số dư.
Số tiền phạt chậm trả (kể từ ngày tờ séc quay về ngân hàng phục vụ người phát
hành séc cho đến ngày có đủ tiền thanh toán) bằng số tiền quá số dư lãi suất nợ
quá hạn loại cho vay cao nhất tại ngân hàng phục vụ người phát hành nhân với
số ngày chậm trả.
Tiền phạt chậm trả được chuyển cho người thụ hưởng, tiển phạt séc phát
hành quá số dư ghi vào thu nghiệp vụ ngân hàng.
Đối với ngân hàng thanh toán: Khi ngân hàng nhận được tờ séc, ngân hàng
phải kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của tờ séc và thanh toán kịp thời cho những tờ
séc đủ điều kiện thanh toán. Khi chủ tài khoản đã có thông báo về tờ séc bị mất thì
ngân hàng không được phép thanh toán, nếu ngân hàng thanh toán những tờ séc đã
mất thì ngân hàng phải đền bù thiệt hại cho người mất séc.
Đối với người thụ hưởng: Người thụ hưởng là người có tên trên séc để
lĩnh tiền hoặc người được chuyển nhượng quyền sử dụng séc. Trong vòng 15
ngày kể từ ngày phát séc người thụ hưởng sẽ mang tờ séc đến ngân hàng để
thanh toán. Trong trường hợp người thụ hưởng bị từ chối thanh toán thì người
thụ hưởng có quyền yêu cầu đơn vị thanh toán xác nhận bằng văn bản, nếu
người thụ hưởng làm mất séc phải báo ngay đến đơn vị thanh toán và người
phát hành séc. Người thông báo phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của

việc thông báo mất séc vì thông báo mất séc được coi là lệnh đình chỉ thanh
toán.
1.2.1.2. Các hình th ứ c thanh toán b ằ ng séc .
1) Séc bảo chi
Séc bảo chi là loại séc mà ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả bằng tiền
của người mua. Hay séc bảo chi do chủ tài khoản phát hành được ngân hàng
đảm bảo chi trả, lập theo mẫu chuyển khoản hoặc séc cá nhân. Người phát hành
séc phải lưu ký trước số tiền ghi trên tờ séc vào một tài khoản riêng để ngân
Người ký phát séc(Người mua)
Người thụ hưởng(Người bán)
Ngân hàng phục vụ người mua
Ngân hàng phục vụ người bán
(1)(7)
(2)
(6)(4)
(5)
hàng làm thủ tục bảo chi trước khi giao cho khách hàng. Các bên khi thực hiện
các giao dịch mua bán sử dụng hình thức thanh toán bằng séc bảo chi thường
không tín nhiệm nhau về khả năng chi trả hoặc người trả tiền đã có quyết định
xử phạt của ngân hàng về việc phát hành séc thanh toán chuyển khoản quá số
dư thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu người trả tiền sử dụng séc bảo chi để
thanh toán.
Thời hạn có hiệu lực tối đa của séc bảo chi là 15 ngày kể từ ngày bảo chi
séc. Phạm vi áp dụng séc bảo chi:
− Hai khách hàng có tiền gửi thanh toán tại cùng một chi nhánh ngân
hàng thương mại.
− Hai khách hàng có tài khoản tiền gửi tại hai chi nhánh NHTM cùng
địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp.
− Hai khách hàng có tài khoản tiền gửi tại 2 chi nhánh NHTM cùng
hệ thống, khác địa bàn.

• Quy trình thanh toán.
Tuỳ thuộc vào phạm vi thanh toán giữa các ngân hàng mà việc thanh toán
sẽ được thực hiện theo những quy trình nhất định.
Sơ đồ thanh toán séc bảo chi
(3)
- Trường hợp thanh toán séc bảo chi giữa các khách hàng có tài khoản trong
cùng một chi nhánh ngân hàng.
(1) Để có tờ séc bảo chi đi mua hàng, người mua (người ký phát) phải đến
ngân hàng xin bảo chi séc.
(2) Người bán giao hàng hoá, dịch vụ cho người mua.
(3) Người mua giao tờ séc đã được bảo chi cho người bán.
(4) Người bán lập bảng kê nộp Séc (BKNS) kèm tờ séc bảo chi đến tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ mình (đồng thời là đơn vị thanh toán)
xin thụ hưởng số tiền trên tờ Séc.
(5) Sau khi kiểm soát chứng từ và hạch toán, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán ghi nợ cho người ký phát séc.
(6) Báo có cho người thụ hưởng.
- Trường hợp thanh toán séc bảo chi tại các chi nhánh NHTM cùng địa bàn
có tham gia thanh toán bù trừ.
(1), (2), (3) tương tự như trên.
(4) Người bán lập Bảng kê nộp Séc kèm tờ séc bảo chi đến tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán phục vụ mình nhờ thu hộ số tiền trên tờ séc.
(5) Sau khi kiểm soát, đơn vị thu hộ ứng vốn thanh toán ngay cho người thụ
hưởng và gửi lệnh chuyển nợ tới đơn vị thanh toán cùng hệ thống.
(6) Báo có cho người thụ hưởng.
(7) Đơn vị thanh toán ghi Nợ và báo Nợ cho người ký phát séc.
- Trường hợp thanh toán séc bảo chi giữa các khách hàng có tài khoản tại
hai chi nhánh NHTM cùng hệ thống, khác địa bàn.
(1) Đơn vị mua làm thủ tục bảo chi séc.
(2) Ngân hàng đồng ý bảo chi séc, giao cho người mua tờ séc và giấy báo nợ.

(3) Người mua giao séc cho người bán.
(4) Người bán mang tờ séc và BKNS tới ngân hàng của mình.

×