Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tiếng Việt Sài Gòn – tp. Hồ Chí Minh là một cực quy tụ và lan toả của tiếng Việt toàn dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.06 KB, 9 trang )

TIẾNG VIỆT SÀI GÒN – TP. HỒ CHÍ MINH
LÀ MỘT CỰC QUY TỤ VÀ LAN TOẢ CỦA TIẾNG VIỆT TOÀN DÂN
BÙI KHÁNH THẾ(*)

TÓM TẮT
Là một thành phần trong vùng “phương ngữ Nam được hình thành dần trong 05 thế kỷ gần đây”
(Hoàng Thị Châu, 1989 – Tiếng Việt trên các miền đất nước, NXBKHXH, Hà Nội) tiếng Sài Gòn
– TP. Hồ Chí Minh hiện nay đã trải qua một quá trình biến đổi và phát triển có những đặc điểm
đáng chú ý do hoàn cảnh lịch sử - xã hội của thành phố quy định. Hai đặc điểm quan trọng
trong số đó là lực quy tụ (convergence) và sức lan toả (pervasion) của sinh hoạt ngôn ngữ nơi
đây. Điều đó cùng với tiếng Hà Nội là trung tâm của vùng phương ngữ bắc, tiếng nói của Sài
Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh góp phần có hiệu quả vào việc nâng cao tính thống nhất của
tiếng Việt toàn dân và làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú.
ABSTRACT
Being a part of the Southern dialects founded gradually over the past 5 centuries (Hoang Thi
Chau_Vietnamese Language in parts of the country, Social Science Publishing House, Hanoi),
Saigon – Hochiminh city language has been going through a remarkable changing and
developing process defined by the city’s historical and social contexts, in which the two most
important features are the convergence and pervasion of the regional linguistic activities.
Together with Hanoi language, the center of the Northern dialects and the language of the
capital city, it has contributed effectively in improving the unity of the general Vietnamese
language and gradually enriching the language.
1. Trong sách Ngữ pháp tiếng Việt (1965) Laurence C.Thompson khi bàn về các phương ngữ của
tiếng Việt có nhắc đến ý kiến của Henri Maspéro (1912) chia tiếng Việt thành hai biến thể địa
phương: nhóm tiếng miền Trung (ông gọi là nhóm Thượng An Nam: Haut Annam group) và
nhóm tiếng Bắc bộ - Nam bộ (ông gọi là nhóm Bắc kì - Nam kì: Tonkinese – Cochinchinese).
Xung quanh chủ đề này, từ một thế kỉ qua đã có những ý kiến thảo luận trong các sách nghiên
cứu chung về tiếng Việt hoặc những bài viết bàn riêng về phương ngữ, thường là bàn về tiêu chí
làm căn cứ cho sự phân chia này. Đến năm 1989 tác giả Hoàng Thị Châu trong một công trình
chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu về phương ngữ tiếng Việt trên cơ sở một tập hợp đặc trưng về
ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng ngữ nghĩa đã nói rõ quan điểm của mình về vấn đề từng được bàn


luận hơn ba phần tư thế kỉ. Tác giả viết “Nếu tạm gác những nét dị biệt không căn bản ở những
địa phương hẹp chúng ta có thể phân chia tiếng Việt thành 3 vùng: Phương ngữ Bắc
(PNB)…Phương ngữ Trung (PNT)…Phương ngữ Nam (PNN)”. “Phương ngữ Nam trải dài từ
đèo Hải Vân đến miền cực nam của đất nước là một phương ngữ mới, được hình thành dần dần
trong vòng 05 thế kỷ gần đây” (Hoàng T.C., 1989, tr.90). Riêng về PNN, ngoài các đặc điểm
chung, chuyên luận này còn ghi rõ “PNN cũng có thể chia thành 3 vùng nhỏ hơn:
a) Phương ngữ Quảng Nam – Quảng Ngãi khác các nơi khác ở sự biến động đa dạng của âm a và
ă trong kết hợp với các chung âm khác nhau.
b) Dải phương ngữ từ Qui Nhơn đến Thuận Hải mang những đặc trưng chung nhất của PNN.
c) Phương ngữ Nam bộ đồng nhất các vần
-in, -it với –inh, -ich
-un, -ut với –ung, -uc

(*)

TS, Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh


Có khuynh hướng lẫn lộn s/x và tr/ch như PNB, nhưng trong ngôn ngữ thông tin đại chúng, trong
hoạt động văn hóa, giáo dục sự phân biệt các phụ âm trên được duy trì rất có ý thức” (sđd, tr.95).
2. Trong “3 vùng nhỏ hơn” của PNN tiếng Việt ở Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh thuộc phương ngữ
Nam bộ.
Bên cạnh các đặc điểm về khu vực địa lí, về ngôn ngữ, còn có những đặc điểm đáng chú ý không
kém khiến cho tiếng Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh giữ một vị trí đặc thù không chỉ về mặt ngôn
ngữ học, mà cả về mặt lịch sử - văn hóa – xã hội, trong sự tác động qua lại không chỉ với PNN
mà cả với toàn bộ tiếng Việt nói chung như một thực thể thống nhất hữu cơ.
2.1. Tiếng Sài Gòn đối với PNN trong diễn trình
Khi xác định vùng phân bố của PNN trong tiếng Việt về mặt cấu trúc địa lí, tác giả của Tiếng
Việt trên các miền đất nước dựa vào kết quả khảo sát toàn diện hiện trạng của tiếng Việt vào
những thập niên cuối thế kỷ XX, tức là theo cách tiếp cận đồng đại. Nếu theo cách tiếp cận lịch

đại, ta có thể xem xét PNN về mặt quá trình hình thành, tức là trong diễn trình. Diễn trình ấy
khởi đầu từ năm 1471, khi biên giới Việt Nam thời bấy giờ mở rộng về phía nam qua đèo Hải
Vân, không chỉ cho đến thế kỉ XVIII (1780) khi vùng đất Hà Tiên quy thuộc về Việt Nam2, mà
vẫn tiếp diễn đến tận ngày nay. Và ngay cả tiếng Sài Gòn cũng nên được tiếp cận theo diễn trình.
Từ khi chúa Nguyễn đặt “đồn thu thuế” (1623) cho đến thời điểm đặt phủ sở Gia Định (1698)
cũng trải qua đến ba phần tư thế kỷ XVII. Và trong vòng 75 năm ấy lại có những biến cố lịch sử
diễn ra: năm 1658 có biến cố Mô Xoài (tức Bà Rịa)3, biến cố Nặc Ông Nộn (1674)4 v.v. Mà biến
cố lịch sử - xã hội thì luôn luôn có quan hệ với cư dân, gắn với tiếng nói là công cụ giao tiếp của
cư dân. Vì vậy, câu hỏi tất yếu nảy sinh từ đây là hoạt động giao tiếp ngôn ngữ diễn ra ở Sài Gòn
đang hình thành vào bước khởi đầu đó như thế nào. Nhìn trên bản đồ mở rộng lãnh thổ Việt
Nam, PNN của tiếng Việt lúc bấy giờ chưa hoàn chỉnh vì vùng đất Hà Tiên ở giai đoạn này vẫn
đang trên quá trình quy thuộc vào Việt Nam. Nếu về mặt lịch sử giai đoạn 1623 -1098 ”có thể
mệnh danh là giai đoạn hình thành Sài Gòn” (Nguyễn Đình Đầu, sđd) thì về mặt ngôn ngữ, đó là
giai đoạn tích tụ đầu tiên của tiếng Sài Gòn. Đối với PNN giai đoạn tích tụ này của tiếng Sài Gòn
đồng thời vừa là sự mở rộng phạm vi hoạt động về mặt địa lí, vừa là sự khởi đầu cho một loại
biến thể khác – biến thể xã hội/phương ngữ đô thị – trong PNN.
2.2. Đặc điểm của cư dân Sài Gòn trong cộng đồng cư dân của PNN. Sự kiện một sở thu thuế
được thiết lập vào năm 1923 gồm 2 đồn thu thuế nhỏ ở xóm Bến Nghé và xóm Sài Gòn là dấu
chỉ về sự cư trú và hoạt động kinh tế đã khá ổn định của những nhóm lưu dân Việt Nam trong
vùng. Để sinh sống yên ổn, làm ăn có hiệu quả, dĩ nhiên họ đã hòa nhập, giao lưu với người bản
địa vốn từng là cư dân thuộc các tiểu quốc Mạ, Stiêng (Xương Tinh) của vùng đất tiếp giáp với
Sài Gòn hoặc vượt qua Sài Gòn hướng về phía Tây. Những người Khmer trong doanh trại và gia
thần của phó vương Nặc Ông Nộn đặt ở Sài Gòn trong khoảng từ 1674 đến 1690 – không rõ số
lượng là bao nhiêu – cũng có thể kể là một thành phần cư dân nơi đây vào thời kỳ lịch sử ấy.
Một bộ phận cư dân khác cũng quy tụ quanh đây là những quân binh và gia nhân của các nhóm
Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Định – những di thần nhà Minh không quy phục nhà Thanh,
bỏ xứ ra đi, xin làm dân đất Việt. Họ được chúa Hiền thu nhận, “cho người đưa vào sinh sống
quanh vùng Sài Gòn”, ”đa số thường tập trung vào phố chợ Mỹ Tho, Nông Nại để buôn bán”
(Nguyễn Đình Đầu, sđd, tr.217). Đến năm 1698 khi Lễ thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh được chúa
Nguyễn cử vào kinh lược ”lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định..lập xứ Sài Gòn làm huyện

Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn; mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị” (theo
Trịnh Hoài Đức, trong Gia Định thành thông chí, tập trung, tr.12), thì Phủ Gia Định đã có đến
bốn vạn hộ dân. Miêu tả thành phần cư dân của Sài Gòn – Gia Định thủa ấy Gia Định thành


thông chí ghi nhận: “Người tụ ở đủ cả tứ phương…người Tàu và người ta ở chung lộn”. Và Đại
Nam nhất thống chí viết: “Người Hán, người thổ ở chung lộn..” Ta có thể hiểu người Thổ chính
là cư dân bản địa thuộc các sắc dân Mạ, Stiêng…trong ngữ hệ Nam Á.
Tiếp theo đó, sau khi phủ Gia Định được thiết lập “những dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, các
phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Qui Nhơn được chiêu mộ và cho dời tới đây phát chặt mở mang, hết
thảy bằng phẳng, đất nước màu mỡ, cho dân tự chiếm, trồng cau và làm nhà cửa. Lại thu con trai,
con gái người Mọi ở các đầu nguồn đem bán làm nô tì…cho tự lấy nhau, nuôi nấng thành người
cày ruộng và làm nghề nghiệp, do đó mà thóc rất nhiều…Hàng năm đến tháng một, tháng chạp,
giã lúa thành gạo, bán lấy tiền để ăn Tết chạp…Bình thời thì bán ra Phú Xuân để đổi lấy hàng
Bắc, như lụa, lãnh, trừu, đoạn, áo quần tốt đẹp, ít dùng vải bô” (Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục,
dẫn theo Nguyễn Đình Đầu). Còn một thành phần cư dân khác cần được kể đến là những người
Phú Lãng Sa (Pháp), Hồng Mao (Anh), Ma Cao (Bồ Đào Nha), Đồ Bà (Java) đến Kiều ngụ đông
đảo, giao tiếp chan hòa (Trịnh Hoài Đức, Tập hạ, tr.6) khi Sài Gòn trở thành một trung tâm
thương mại có nhiều lúa gạo, hàng hóa khác để xuất cảng.
Xem xét đặc điểm cư dân Sài Gòn vào giai đoạn này, đặc biệt là sau khi có phủ Gia Định, lập xứ
Sài Gòn ta thấy có ba nét nổi bật. Một là sự quy tụ cư dân không phải ở hình thái tự phát, mà là
có chủ tâm, quy củ, có mục đích (thu nhận con trai, con gái ở các đầu nguồn nuôi nấng thành
người cày ruộng, làm nghề nghiệp, chiêu mộ những dân có vật lực để mở mang, khai thác đất
đai…). Hai là sự khởi đầu quy tụ cư dân ngoại quốc – có thể vẫn chưa nhiều – do sức thu hút của
tài nguyên, kinh tế. Và ba là bắt đầu có sự phân chia cư dân theo nhóm nghề nghiệp (làm ra sản
phẩm có tính hàng hóa và trao đổi, buôn bán sản phẩm). Nét mới thứ ba này sẽ ngày càng phát
triển dần để tạo thành sự phân biệt cư dân đô thị và cư dân nông thôn.
2.3. Tiếp xúc giữa các thành phần cư dân (Việt, Khme, Chăm Pa, người đến từ các phương ngữ
của Trung Hoa, từ Đông Nam Á, từ một số nước phương Tây) đồng thời cũng là sự tiếp xúc
ngôn ngữ. Trạng thái pha trộn tiếng nói mà Trịnh Hoài Đức miêu tả (Bùi Khánh Thế, 1998,

tr.218-224) rõ ràng đã góp phần đáng kể vào giai đoạn hoàn tất quá trình hình thành PNN từ cuối
TK XV đến cuối TK XVIII.
Đáng chú ý là từ khi dinh phiên trấn được thiết lập và Sài Gòn trở thành huyện Tân Bình, có hai
mốc sự kiện làm tăng vị trí của Sài Gòn trong miền đất mới và do đó ảnh hưởng đến sinh hoạt
ngôn ngữ của Sài Gòn. Sự kiện thứ nhất là năm 1731, chúa Túc Tông cho lập dinh Điều khiển,
đặt chức Điều khiển để thống suất quan binh tất cả các dinh ở Gia Định. Sự kiện thứ hai là Thiên
chính Hầu Nguyễn Cư Trinh dẫn binh năm dinh (Bình Khương – tức Khánh Hòa ngày nay, Bình
Thuận, Trấn Biên – tức Biên Hòa, Bà Rịa, Phiên Trấn – tức Gia Định, Long Hồ - tức Mỹ Tho,
Vĩnh Long ngày nay) đến tựu tại Bến Nghé “lập dinh trại, kén sĩ tốt, trừ bị cho nhiều để làm kế
khai thác lâu dài” và bảo vệ toàn vùng đất mới mở mang. Nơi này về sau gọi là Đồn dinh. Các
hoạt động xung quanh hai sự kiện này khẳng định một vai trò trung tâm quân sự và mặt khác địa
vị quan trọng của Sài Gòn trong sự kết hợp các hoạt động quân sự với hoạt động kinh tế.
Cùng với tầm quan trọng về quân sự, chính trị, kinh tế tăng lên, vai trò trung tâm văn hóa của Sài
Gòn cũng nhanh chóng được khẳng định. Trung tâm này có sức thu hút mạnh những nhà văn
hóa, những gia đình có truyền thống học hành. Họ dừng chân ở cửa ngõ phía Bắc Sài Gòn, trên
đất Bình Dương, địa đầu Gia Định để tạo lập vốn liếng văn hóa (trước tác, hình thành các thị xã,
Sơn hội), mở trường dạy học (trường hợp Võ Trường Toản) đào tạo lớp trí thức cho Sài Gòn,
cũng là cho miền đất mới mở và cho cả nước trong thời kì nhà Nguyễn khởi dựng cơ nghiệp
(như Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh).


Để xây dựng, sửa sang nhà cửa, mở mang công lộ, quy hoạch xây gạch hay cẩn đá các bờ kênh
rạch, lực lượng lao động nghề nghiệp lớn mạnh dần. Vì vậy, bên cạnh các xóm lúp xúp của cư
dân, có thành Gia Định, có cơ thủy trại, có “phường thợ”, có các xóm buôn bán…Tóm lại, ở nơi
trung tâm chuyển dần thành phố thị này có biểu hiện như nhà nghiên cứu đã nhận xét: Sài Gòn
lúc bấy giờ bao gồm hai thành phố: Chợ Lớn và Bến Nghé, mỗi cái đều rộng lớn bằng Kinh đô
nước Xiêm La (Filayson). Như vậy, Sài Gòn vào cuối thế kỷ XVIII, khi PNN ở vào giai đoạn
hoàn tất (1780) đã là một thành phố khá trù phú, sầm uất. Một thành phố ắt phải có sinh hoạt
ngôn ngữ của thành phố và thành tiếng nói của cư dân5 thành phố. Tiếng nói ấy là biến thể của
tiếng Việt, ngôn ngữ toàn dân, đó là tiếng Việt ở Sài Gòn – vận hành (functioning) như một ngôn

ngữ thành phố. Đặc điểm của tiếng Việt ở Sài Gòn từ đây có thể được xác định về hai phương
diện. Một mặt đó là một bộ phận – một trong ba trung tâm của phần cực nam thuộc PNN (PN
Nam Bộ, theo cách gọi của Hoàng Thị Châu – sđd, tr.91) của biến thể địa lí, trong tương quan
với tiếng Việt thống nhất toàn quốc. Mặt khác, tiếng Sài Gòn với tư cách là ngôn ngữ của một
trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự đang hình thành lại bao gồm các biến thể xã hội, tạm gọi là
các biến thể thứ cấp, có những nét khu biệt lẫn nhau giữa kiểu thức nói năng của các nhóm cộng
đồng có cương vị xã hội khác nhau do kết quả của sự phân tầng cư dân đô thị (Bùi Khánh Thế,
2005, tr.30). Đây là hạt nhân đầu tiên của ngôn ngữ đô thị - một phương ngữ đô thị - tức phương
ngữ xã hội ở đô thị trong lòng PNN. Phương ngữ đô thị mới ở giai đoạn khởi đầu này phát triển
liên tục để đáp ứng cho nhu cầu giao tiếp của một trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội không
ngừng biến đổi nhanh chóng từ cuối thế kỷ XVIII cho đến nay.
2.4. Trong 12 năm cuối thế kỷ XVIII (1776-1788) là giai đoạn chúa Nguyễn với Tây Sơn tranh
chấp nhau để làm chủ đất Sài Gòn. Tình hình xã hội không ổn định, quân binh của mỗi bên đến
rồi lại rút đi, chưa kịp thi hành một đường lối chủ trương gì về mặt dân sự - Nguyễn Huệ là
người có tầm nhìn xa rộng thì 3 lần đầu vào Nam cũng chỉ để giải quyết nhiệm vụ quân sự, lần
thứ tư là để phá tan mưu đồ xâm lược của quân Xiêm tại Rạch Gầm – Xoài Mút. Lúc bấy giờ
Nguyễn Huệ - Quang Trung đang tập trung vào các biến cố ở phía bắc của đất nước, từ các vấn
đề của triều Lê đến nhiệm vụ chống quân Thanh ngoại xâm. Vì thế vị lãnh tụ tài ba này không
kịp thời gian thi hành một chính sách nào đối với miền nam và đối với Sài Gòn nói riêng. Trong
bối cảnh chung đó thành phần cư dân của Sài Gòn giai đoạn này chắc hẳn không có gì thay đổi
lớn. Có chăng chỉ có những chuyển di nhỏ của người Minh Hương hoặc cư dân người Việt
quanh vùng đến Sài Gòn do ảnh hưởng của chiến trận. Do vậy, ta không thể nói gì nhiều về sự
thay đổi sinh hoạt ngôn ngữ của Sài Gòn vào giai đoạn này so với giai đoạn trước đó.
2.5. Từ khi Quang Trung băng hà, lực lượng Tây Sơn ngày một suy yếu rồi chấm dứt một giai
đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng huy hoàng, Nguyễn Ánh dần dần tạo thế đứng vững chắc trên đất
Sài Gòn. Ông ra sức xây dựng và củng cố Sài Gòn thành căn cứ để mở rộng quyền lực trên toàn
quốc. Qua các hoạt động để thực thi đường lối đó, Sài Gòn trở thành điểm thu hút cư dân rất
mạnh. Đó là hoàn cảnh lịch sử xã hội để người Sài Gòn nâng cao vai trò của địa phương này với
tư cách là một thành phố. Vai trò ấy dần dần được củng cố bởi chính cộng đồng cư dân là người
chủ đích thực của miền đất sinh sống này ngay cả khi Nguyễn Ánh rút về Huế, dỡ phá một số

công thự ở Gia Định kinh đưa ra xây dựng cung thất ở kinh đô Huế. Vẫn là một trung tâm quân
sự, chính trị, kinh tế của nhà Nguyễn, Sài Gòn trong Gia Định kinh ngày càng vươn lên trong vị
thế một thành phố. Thực tế đó có tác dụng làm cho tiếng nói Sài Gòn phong phú dần lên. Hai
nhân tố có ảnh hưởng nhiều hơn cả đến diện mạo ngôn ngữ Việt ở Sài Gòn trong tư cách tiếng
nói của thành phố là xã hội và văn hóa. Vào giai đoạn lịch sử này ở Sài Gòn xuất hiện một hình
thức tổ chức và tập trung lực lượng lao động là nậu và các xưởng chu sư. Nậu nói chung được
dùng để chỉ một nhóm người, nhưng cũng được dùng để chỉ một tập thể, một tổ chức làm công.
Đại Nam Quốc âm tự vị , SG, 1895, của Huỳnh Tịnh Của ghi: Đầu nậu – kẻ làm đầu trong một
bọn làm công (tr.73, Tom II). Còn Xưởng Chu Sư là xưởng đóng thuyền. Những người làm công
ở các tổ chức này không thuộc lớp dân cư sản xuất nông nghiệp hoặc buôn bán. Họ khai thác tài


nguyên thiên nhiên và làm ra sản vật, hàng năm nộp thuế cho chính quyền. Theo Trịnh Hoài
Đức, các Xưởng Chu Sư được lập từ Sông Tân Bình đến Sông Bình Trị (tức khoảng rạch Thị
Nghè giáp với sông Sài Gòn bây giờ) dài hơn 3 dặm thì các thợ thuyền “chuyên đóng rất nhiều
thuyền đủ hạng, nhất là chiến thuyền. Có cuộc chế tạo là nơi nhóm họp của bách công chế tạo,
trường thuốc súng chế tạo thuốc súng”, (Gia Định thành thông chí, tập hạ, tr.74-75). Xem thế thì
lực lượng lao động thủ công, thợ thuyền ở Sài Gòn lúc bấy giờ hẳn phải chiếm một tỉ lệ rất đáng
kể trong khoảng 28.000 ngạch hộ đinh ở tỉnh Gia Định thời Gia Long.
Do vị thế của kinh dinh nên Sài Gòn cũng là nơi quy tụ đông đúc dần lớp người có học thức từ
các miền xung quanh và sinh hoạt văn hóa của Sài Gòn ngày càng trở nên rộn rịp. Năm 1791
ngay Khoa thi đầu tiên đã có 12 người trúng cách. Các khoa thi sau đó số người trúng cách ngày
một tăng. Riêng khoa thi Bính Thìn (1796) đã trúng cách đến 279 người. Như vậy, đến giai đoạn
cuối thế kỷ XVIII, Sài Gòn đã có mặt và hoạt động của các nhà văn hóa nổi tiếng như Võ
Trường Toản, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu; có trường học với ảnh hưởng lớn về mặt văn
hóa – xã hội được mở ở vùng Chí Hòa – Hòa Hưng ngày nay. Tóm lại trong cộng đồng cư dân
Sài Gòn từ thời ấy đã hình thành một lớp cư dân có học thức cao – tầng lớp kẻ sĩ, tức trí thức.
Với sự hình thành các tầng lớp xã hội mới ấy, Sài Gòn vào cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX đã
có một cấu trúc cư dân thường được xem là tiêu biểu cho một thành phố: giới buôn bán, dân
nghèo tự do, người lao động thủ công, thợ thuyền và trí thức và dĩ nhiên là cả giới lao động nông

nghiệp, những nông dân đã có mặt sớm nhất ở Sài Gòn – Bến Nghé. Cấu trúc cư dân ấy nhìn đại
thể là không thay đổi về thành phần, tuy vẫn có sự biến động về dân số cụ thể trong từng thành
phần và tương quan về tỷ lệ giữa các thành phần cư dân thành phố. Trong suốt thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX, nhất là từ khi thực dân Pháp xác lập quyền lực của họ ở Sài Gòn, dân số của
thành phố tăng nhanh để thỏa mãn các nhu cầu xây dựng và khai thác thuộc địa, biến Sài Gòn
thành nơi đầu não của chế độ thuộc địa, tạo những cơ sở đầu tiên của một thành phố hiện đại.
Lúc này trong sinh hoạt ngôn ngữ của thành phố cũng xuất hiện một tình hình mới: tiếng Pháp
và chữ Pháp, thay cho chữ Hán, được dùng trong công sở, trong các cơ quan hành chính, và với
chủ đích tạo một phương tiện giao tiếp cầu nối để tiến tới hoàn toàn dùng tiếng Pháp làm ngôn
ngữ chính thức ở Việt Nam (John de Francis), chữ quốc ngữ la tinh có ưu thế tăng dần. Tình hình
đó tạo nên sự tiếp xúc trên quy mô xã hội giữa tiếng Việt và tiếng Pháp, cũng như sự chuyển đổi
trên quy mô xã hội hệ thống chữ viết của ngôn ngữ văn hóa dân tộc Việt Nam từ loại văn tự hình
vuông sang loại văn tự ghi âm (Bùi Khánh Thế, 1998, sđd, tr.236).
2.6. Chữ quốc ngữ La tinh nhờ có được những thuận lợi khách quan nên qua báo chí trở thành
một kênh giao tiếp phổ biến trong dân chúng. Các nhà trí thức có tinh thần dân tộc lợi dụng
những quy định có liên quan đến báo chí ở một xứ thuộc địa Pháp đã nâng báo chí lên thành một
hoạt động trí thức có tính quần chúng. Điều kiện khách quan ấy đã thu hút nhiều cây bút từ cả ba
miền Bắc, Trung, Nam đến góp mặt trong làng báo Sài Gòn. Một trong những kết quả khách
quan của hoạt động báo chí ở Sài Gòn là sự quy tụ một số đặc điểm từ các vùng phương ngữ vào
phương ngữ đô thị Sài Gòn và góp phần làm hình thành một phong cách ngôn ngữ viết tiếng Việt
qua chữ quốc ngữ trên báo chí mang sắc thái Sài Gòn. Điều này càng thể hiện rõ hơn khi báo chí
Sài Gòn vào giai đoạn đầu cũng là nơi đăng tải các truyện ngắn, tiểu thuyết, các chuyện nôm
chuyển sang chữ quốc ngữ hay các bản dịch chuyện Tàu.
Tiếng Việt ở Sài Gòn trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp nửa đầu thế kỷ XX còn hành
chức bằng hình thức ngôn ngữ nói với những cuộc vận động quần chúng; cổ vũ cho phong trào
chính trị - xã hội. Điển hình là hoạt động của Nguyễn An Ninh – người đã một thời đi xe đạp,
dạo bán sách báo, các cuộc diễn thuyết của chính Nguyễn An Ninh, của Trần Huy Liệu, Hòa
Sanh trước đông đảo dân chúng tại mộ Phan Châu Trinh nhân ngày giỗ đầu của nhà ái quốc này
v.v.



3. Mấy nét lớn về tiếng Sài Gòn từ 1623 đến 1945
3.1. Sinh hoạt ngôn ngữ (SHNN) ở Sài Gòn qua hơn 3 thế kỷ kể từ 1623 (xem 2.1) đến 1945
phản ánh quy luật chung trong quá trình hình thành và phát triển của tiếng Việt. Quy luật đó là
lực quy tụ (convergence) và sức lan toả (pervasion) của SHNN. Ở giai đoạn này hình thành sinh
hoạt ngôn ngữ ở Sài Gòn phản ánh sự tiếp xúc và quy tụ tiếng nói của cư dân các dân tộc thiểu
số sinh tụ tại chỗ với các nhóm di dân người Việt đến từ miền Bắc và miền Trung. Ban đầu có
thể chỉ là những nhóm người đi làm ăn lẻ tẻ, nhưng càng về sau càng có quy mô hơn và được tổ
chức theo một định hướng cụ thể là nhằm tăng sức người cho việc khai thác vùng đất mới. Khi
định hình dần với tiềm năng phát triển kinh tế, văn hóa của mình, Sài Gòn cũng trở thành nơi thu
hút các khách nước ngoài. Họ đến thoạt tiên là tìm hiểu rồi tiến tới định cư vì phát hiện cơ hội
thuận lợi để sinh sống và làm ăn ở đây. Tiếp cận theo quan điểm về chất lượng của SHNN, quan
trọng nhất, theo tôi, là sự quy tụ dần dần một bộ phận trí thức của cả nước để hợp sức nhau trong
hoạt động văn hóa, đặc biệt là hoạt động báo chí bằng chữ quốc ngữ rất sôi nổi vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX. Sự quy tụ này trước hết là quy tụ về trí tuệ, về kinh nghiệm nghề nghiệp, và
một hệ quả khách quan của tình hình đó là SHNN ở Sài Gòn dần dần có sự thay đổi không chỉ về
lượng mà cả về chất. Tiếng Sài Gòn trong tiến trình hành chức của mình không chỉ là bộ phận
của phương ngữ Nam, mà còn tạo nên một trạng huống SHNN mới: trạng huống sinh hoạt của
một hợp thể phương ngữ mà thành tố là kiểu thức nói năng của các tầng lớp khác nhau thuộc
cộng đồng cư dân Sài Gòn (Bùi Khánh Thế, 2005, trong Một số vấn đề phương ngữ xã hội,
Nguyễn Kiện Trường, chủ biên, tr.11-39).
Nhờ quá trình quy tụ ngôn ngữ và trạng huống SHNN đa dạng như vậy nên tiếng Sài Gòn có
tiềm năng tác động đến ngôn từ của các vùng miền xung quanh. Và khi lớp thanh niên trí thức
được học hành ở Sài Gòn rồi về làm việc tại nhiều nơi, khi kênh báo chí từ Sài Gòn phổ biến
rộng ra toàn miền thì sức lan tỏa hiện thực của tiếng Sài Gòn càng trở nên rõ rệt và trực tiếp
trong phương ngữ Nam.
3.2. Tiếng Việt trong quá trình hành chức tại Sài Gòn và cả miền Gia Định, sức mạnh quy tụ và
lan tỏa của tiếng Việt tại đây ngày một tăng, thì tiếng Sài Gòn dần dần nổi lên như trung tâm của
phương ngữ Nam. Do có lợi thế về nhiều mặt – kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v. nên Sài Gòn ngày
càng có sức thu hút mạnh nguồn nhân lực từ các vùng miền khác nhau trong cả nước. Lợi thế ấy

vẫn giữ được vượt qua các biến cố xã hội, trải qua các giai đoạn lịch sử và còn kéo dài sang
nhiều năm sau.
Các biến cố lịch sử cuối năm 1945 – Cách mạng tháng 8 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà – được phản ánh trong đời sống ngôn ngữ hết sức sôi động của Sài Gòn. Tiếng
Việt ở Sài Gòn thời ấy hơn lúc nào hết biểu hiện sức mạnh chiến đấu của mình qua các buổi diễn
thuyết, qua những cuộc tập hợp đông đảo quần chúng, dù trong rạp chiếu bóng, rạp hát hay giữa
Vườn Ông Thượng. Phát biểu trên diễn đàn là các diễn giả thuộc giới bình dân, giới trí thức từng
du học trở về hay học tập trong nước, tiếp thu được và ứng dụng rất thành công nghệ thuật hùng
biện trong sinh hoạt ngôn ngữ truyền thống của các xã hội phương Tây. Về mặt này, lịch sử từng
nhắc đến những buổi họp mặt “tuyên thệ” của Thanh niên tiền phong mà người tổ chức là những
trí thức như Phạm Ngọc Thạnh, Ngô Tấn Nhơn, Kha Vạn Cân, Huỳnh Văn Tiễng,v.v. Lịch sử
cũng ghi dấu son lớn về cuộc biểu tình vũ trang khổng lồ ngày 25/8/1945 đến trước dinh đốc lí
nghe Phạm Ngọc Thạch tuyên đọc danh sách Uỷ ban hành chánh lâm thời Nam bộ và cuộc mít
tinh ngày 2.9 sau đó, hơn một triệu người đến từ các tỉnh lân cận (Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tân
An) để cùng nhân dân Sài Gòn hoà nhịp với không khí hân hoan của Hà Nội, Huế và các nơi
khác trong cả nước chào đón ngày lễ Độc lập 2/9. Rừng người sục sôi khí thế đấu tranh khi nghe
người chiến sĩ cách mạng Trần Văn Giàu, Chủ tịch Uỷ ban hành chánh lâm thời Nam Bộ, đứng


ra kêu gọi nhân dân siết chặt hàng ngũ xung quanh chính phủ Hồ Chí Minh sẵn sàng chiến đấu
để bảo vệ độc lập tự do.
Rồi tiếp theo những năm sau đó trải qua hai cuộc kháng chiến từ 1946-1954 và từ 1954-1975 các
cuộc chu chuyển cư dân giữa Sài Gòn và những tỉnh thành khác đã có ảnh hưởng trực tiếp đến
diện mạo ngôn ngữ không chỉ của Sài Gòn mà của các vùng PNN. Một phần quan trọng của tri
thức và các thành phần xã hội khác vốn là người Sài Gòn rời thành phố vào bưng biền tham gia
kháng chiến; cư dân một số nơi của vùng PNN do chiến tranh ác liệt nhất là từ 1954 đến 1975
nên phải chuyển vào Sài Gòn. Trong số đồng bào miền Bắc di cư vào miền Nam sau 1954 cũng
có một số định cư tại Sài Gòn. Thực tế đó đánh dấu một giai đoạn mới của tình hình lan toả và
quy tụ của tiếng Sài Gòn trong PNN vào thời kỳ 20 năm chiến tranh.
4. Từ tiếng Sài Gòn đến tiếng Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh

4.1. Sau chiến thắng 1975 và các tiến trình pháp lý hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước,
Sài Gòn có danh xưng mới là Thành phố Hồ Chí Minh. Từ thời điểm lịch sử này, để tương hợp
với danh xưng mới của thành phố, tiếng Việt ở đây được gọi chung là tiếng Sài Gòn – Tp. Hồ
Chí Minh. Tiếng Sài Gòn – Tp. Hồ Chí Minh bước vào một giai đoạn phát triển mới. Đặc điểm
có ảnh hưởng đến sinh hoạt ngôn ngữ trong xã hội vào bước ngoặt lịch sử này là dân số cơ học
của thành phố tăng ngày càng nhanh. Trong giai đoạn đầu số người bổ sung vào đây phần lớn là
lực lượng cán bộ, viên chức từ miền Bắc chi viện để đáp ứng nhu cầu tiếp quản các cơ sở giáo
dục, văn hoá xã hội, kinh tế và hành chính sự nghiệp. Lực lượng này gồm những người từ miền
Nam tập kết, các thanh niên học sinh miền Nam được đào tạo ở miền Bắc trở về và cả những cán
bộ, viên chức vốn quê ở các tỉnh miền Bắc được chi viện cho nhu cầu ổn định và khôi phục
thành phố sau chiến tranh.
Giữa những năm 80 của thế kỷ trước, khi có đường lối đổi mới, mở cửa trong kinh tế, lực lượng
lao động trí óc, học sinh, sinh viên, người thuộc các ngành nghề khác nhau và cả lao động giản
đơn, từ hầu hết các tỉnh thành trong cả nước đều đến bổ sung nguồn nhân lực cho thành phố 6.
Tham gia hoạt động giao tiếp ở thành phố hiện nay ta dễ dàng bắt gặp những người nói các
phương ngữ Miền Trung, phương ngữ Miền Bắc, thậm chí cả một số tiểu vùng trong các phương
ngữ ấy. Thực tế đó cho phép ta xem sinh hoạt ngôn ngữ của Tp.HCM hiện nay là một bộ phận
của quá trình quy tụ các phương ngữ của cả nước. Điều này không chỉ được thể hiện trong ngôn
ngữ nói mà cả trong phong cách ngôn ngữ viết trên báo chí, trong ấn phẩm của các nhà xuất bản
tại Tp.HCM.
4.2. Do vị trí của một trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, xã hội mạnh Tp.HCM có ảnh hưởng
về nhiều mặt đến những vùng miền khác trong cả nước. Nhờ quan hệ giao lưu thuận hiện nay
nên qua các kênh trao đổi kinh tế, văn hoá, du lịch – nhất là kênh sách báo – ngôn từ và các kiểu
thức nói năng của người Sài Gòn – Tp.HCM cũng có những ảnh hưởng đến cách nói năng của
các vùng miền khác. Tạo ảnh hưởng không nhỏ về mặt này là kênh báo chí. Những tờ báo, tạp
chí, ấn phẩm của Tp.HCM hoặc phát hành từ Tp.HCM, kênh truyền hình, truyền thanh của
Tp.HCM có phạm vi phổ biến rộng trong cả nước đang làm cho tiếng Sài Gòn – Tp.HCM không
có gì cách biệt với sắc thái ngôn từ của các nơi khác, ngược lại về một số mặt, tiếng Sài Gòn –
Tp.HCM còn gần với tiếng thủ đô Hà Nội do ảnh hưởng qua lại về tiếng nói của hai trung tâm
lớn của cả nước.

5. Theo quy luật các tiếng nói, dù đó là những ngôn ngữ khác nhau, hay những phương ngữ của
cùng một ngôn ngữ tiếp xúc nhau qua sinh hoạt ngôn ngữ tất yếu sẽ ảnh hưởng lẫn nhau do mô
phỏng, giao thoa và cuối cùng là quy tụ 7. Những nghiên cứu về SHNN ở Sài Gòn – Tp. HCM
trong thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI cho thấy quá trình quy tụ thể hiện rất rõ (ban


đầu là quy tụ vùng PNN và dần dần về sau là quy tụ cả các vùng phương ngữ khác trong cả
nước) mà cùng với quá trình quy tụ tiếng Sài Gòn – Tp.HCM cũng tạo tác dụng lan toả đến vùng
PNN và đến cả nước. Trước thực tế đó hoàn toàn có thể xem tiếng Sài Gòn – Tp. Hồ Chí Minh là
một cực quy tụ và lan toả, cùng với thủ đô Hà Nội góp phần có hiệu quả vào việc nâng cao tính
thống nhất và phong phú của tiếng Việt toàn dân.
CHÚ THÍCH
1. Chúng tôi dùng cách gọi vắn tắt Tiếng Sài Gòn – Tp. Hồ Chí Minh hoặc Tiếng Việt ở Sài Gòn
– Thành phố Hồ Chí Minh để chỉ trạng huống tiếng Việt ở đơn vị hành chính này từ giữa những
năm 70 thế kỉ XX, tức trong quá trình thống nhất đất nước về mặt pháp lý (tổ chức Quốc hội
thống nhất, có quyết định về danh xưng mới của đất nước và danh xưng mới của Sài Gòn). Như
vậy, tên gọi Sài Gòn được dùng trong bài viết này khi đề cập đến thời kỳ trước khi có tên gọi
thành phố Hồ Chí Minh được quy định về mặt pháp lí.
2. Mạc Cửu, nguyên quán ở Lôi Châu (Trung Hoa) vì không phục nhà Thanh nên đem gia quyến
sang ở đất Chân Lạp vào khoảng đầu thế kỷ XVIII, là người có công khai phá đất đai phủ Sài
Mạt, chiêu mộ lưu dân lập ra 7 xã, thành đất Hà Tiên. Năm Giáp ngọ (1714) Mạc Cửu dâng đất
Hà Tiên cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh, giữ đất Hà Tiên.
Đến năm Bính Thìn (1736) Mạc Cửu mất, giao cơ đồ lại cho con là Mạc Thiên Tích. Mạc Thiên
Tích là người đã lập ra Chiêu anh Các, là tác giả của Hà Tiên thập vịnh tập. (Theo Nguyễn
Huyền Anh, trong Việt Nam danh nhân từ điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, tr.226-228).
3. Về sự kiện Mô Xoài, tác giả Gia Định thành thông chí chép việc năm 1658 nhân Cao Miên
“phạm biên cảnh”, chúa Nguyễn sai Nguyễn Phước Yến (Vũ Yến Hầu) đem 3000 quân đi tuần
đến Mô Xoài.
4. Biến cố Nặc Ông Nộn (1674). Nặc Ông Nộn thời kỳ ấy là vua xứ Cao Miên, bị Nặc Ông Đài
đuổi nên chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm làm thống suất

đem quân tiến thảo, phá vỡ luôn 3 lũy Sài Gòn, Gò Bích và Nam Vang. Nặc Ông Đài thua chạy
và tử trận. Chúa Nguyễn phong Nặc Ông Thu làm vua xứ Cao Miên ngự trị ở thành Oudong,
Nặc Ông Nộn làm phó vương ngự trị ở Sài Gòn.
5. “Dân thành thị gồm phần lớn là quan lại, binh lính, học trò, thương nhân, dân phu chuyên chở
và một số thợ thủ công phục dịch nông nghiệp hay chế biến lúa gạo…”, “đa số là người Việt,
một số đáng kể là Minh hương, một số ít người Khme, người Chăm, người Tây dương đến giảng
đạo hay mở thương điếm” (Nguyễn Đình Đầu, sđd, tr.237).
6. Dĩ nhiên, nhận xét sơ bộ chỉ dựa vào những thông tin lấy trên sách vở báo chí này cần được
chứng minh bằng các số liệu chính xác, nếu có một nghiên cứu ngôn ngữ xã hội học về quê gốc
của nguồn nhân lực mới này.
7. Trong lời tựa cho sách của U.Weinreich, 1951 – Languages in contact, A.Martinet viết: “tiếp
xúc tạo ra sự mô phỏng và mô phỏng dẫn đến sự quy tụ ngôn ngữ”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Khánh Thế (1998), Quá trình phát triển tiếng Việt ở Sài Gòn (trong Địa chí văn hóa
TP.HCM, Tập II) (tr.209-263), Nxb. TP.HCM.
2. Bùi Khánh Thế (chủ biên) (2001), Mấy vấn đề về tiếng Việt hiện đại, Nxb. Đại học quốc gia
TP.HCM, tr.14-37.
3. Bùi Khánh Thế (2005), Lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam
(Trường hợp Tp.Hồ Chí Minh), (trong Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, Nguyễn Kiên Trường (chủ
biên)), Nxb. KHXH.
4. Trần Thị Ngọc Lang (chủ biên), Phương ngữ xã hội và vấn đề phương ngữ xã hội ở Việt
Nam, (trong Một số vấn đề về phương ngữ xã hội), Nxb. KHXH.


5. Cao Xuân Hạo, Lê Minh Trí (2005), Tiếng Sài Gòn và cách phát âm của các phát thanh viên
HTV, (trong Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, Nguyễn Kiên Trường (chủ biên)), Nxb. KHXH – Hà
Nội.
6. Đinh Lê Thư, Nguyễn Văn Huệ (1998), Cơ cấu ngữ âm tiếng Việt, NXB Giáo dục.
7. Đoàn Thiện Thuật (1997), Ngữ âm tiếng Việt, NXB. ĐH & THCN, Hà Nội.
8. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước (Phương ngữ học), NXB KHXH

- Hà Nội.
9. Maspero, Henri (1912), Etudes sur la phonetique historique de la langue annamite: les
initiales, BEFEO 12:1.1 – 127.
10. Raven I.Mc David, Jr (1964), Dialect differences and social differences in an urban society.
In Sociolinguistics (Proceeding of the UCLA Socialinguistics Conference, 1964, edited by
William Bright). The Hague – Paris, 1966. Bài viết của BKT sử dụng bản dịch tiếng Nga, trong
sách Những vẫn đề mới trong ngôn ngữ học, T.VII, 1975, tr.363-381.
11. Nguyễn Đình Đầu (1998), Lược sử thành phố Hồ Chí Minh từ thế kỷ XVII đến khi Pháp xâm
chiếm (1859), (trong Địa chí văn hóa Tp.Hồ Chí Minh), in lần 2, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, tr.195267.
12. Thompson, C.Laurence, 1965, A Vietnamese Grammar. University of Washington Press –
Seattle.
13. Trần Thị Ngọc Lang (1986), Sự tiếp xúc giữa các phương ngữ ở TP.HCM, (trong Những vấn
đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông (Báo cáo của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam
tại Hội nghị IV giữa các nước XHCN về ngôn ngữ phương Đông)), Viện ngôn ngữ học, Hà Nội,
tr.345-346.
14. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ - những khác biệt về từ vựng – ngữ nghĩa
so với phương ngữ Bắc Bộ, Nxb. KHXH, Hà Nội.
15. Weinreich, Uriel (1953), Languages in Contact: Findings and Problems, New York
(Reprinted 1968. The Hague. Mouton).
16. Danny J. Whitfield (1976), Historical and cultural Dictionary of Vietnam, The Scarecrow
Press, Jnc. Metuchen, N.J.



×