Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Vai trò của nhà nước đối với việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.62 KB, 107 trang )

ĐẠI

HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------o0o---------LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC
GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: triết học
Mã số: 602280

Học viên: Trương Thị Thanh Quý
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Ngọc Quang

Hµ Néi, 8-2011


CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBXH

Công bằng xã hội

CHNL

Chiếm hữu nô lệ

CNCS



Chủ nghĩa cộng sản

CNH

Công nghiệp hóa

HĐH

Hiện đại hóa

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

GS

Giáo sư

KTTT

Kinh tế thị trường


LLSX

Lực lượng sản xuất

Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó giáo sư

QHSX

Quan hệ sản xuất

TKQĐ

Thời kỳ quá độ



Trung ương

TS

Tiến sĩ

TSKH


Tiến sĩ khoa học

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

XHTB

Xã hội tư bản

1


MỤC LỤC
Tr.

Mở đầu

1

Chương 1. Nhà nước và kinh tế – một số vấn đề lý luận

9

1.1. Nhà nước và chức năng kinh tế của nhà nước


9

1.2. Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa

15

1.3. Vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế thị
trường

20

Kết luận chương 1

34

Chương 2. Thực trạng vai trò của nhà nước giữ vững định
hướng XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế
thị trường ở việt nam qua 25 năm đổi mới Nguyên
nhân và những vấn đề đang đặt ra

37

2.1. Thực trạng vai trò của nhà nước giữ vững định hướng
XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam qua 25 năm đổi mới

37


2.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra liên quan tới việc
phát huy vai trò của Nhà nước giữ vững định hướng
XHCN trong phát triển kinh tế thị trường

62

Kết luận chương 2

80

Chương 3. Một số giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của Nhà
nước đối với việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay
3.1. Hệ giải pháp tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân
để nó làm tốt hơn vai trò giữ vững định hướng XHCN

2

82

82


trong quá trình phát triển nền KTTT
3.2. Hệ giải pháp giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa Nhà
nước với thị trường và doanh nghiệp nhằm bảo đảm vai
trò của Nhà nước giữ vững định hướng XHCN trong
phát triển của KTTT

3.3. Hệ giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH để tạo cốt vật chất
cho Nhà nước giữ vững định hướng XHCN đối với sự
phát triển nền KTTT ở nước ta hiện nay
3.4. Hệ giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế, phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội - một nội dung quan trọng của định hướng
XHCN trong quá trình phát triển nền KTTT
3.5. Hệ giải pháp phát huy vai trò của chủ đạo của kinh tế
nhà nước

89

91

96

102

Kết luận chương 3

105

Kết luận

107

Danh mục tài liệu tham khảo

109


3


MỞ ĐẦU
1-TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một trong
những vấn đề căn bản của triết lý phát triển ở Việt Nam hiện nay. Không phải đợi khi khủng
hoảng tiền tệ xuất phát từ Mỹ năm 2008 và sự lan toả ra hầu khắp thế giới hiện nay cùng con
đường cơ bản mà các nước đang sử dụng với hy vọng ngăn ngừa những kết cục bi thảm về
mặt kinh tế - xã hội do khủng hoảng đó gây ra, chúng ta mới thấy tính phi lý của cái gọi là
“thị trường tự do”, của cái gọi là “bàn tay vô hình”. Từ rất sớm chúng ta đã khẳng định, nền
kinh tế mà chúng ta đang xây dựng phải có quản lý của Nhà nước. Kiên trì tư tưởng đó, tại
Đại hội XI của mình, Đảng ta đã nhấn mạnh sự cần thiết phải “Giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường” [21, tr.204]. Khi nêu lên nhiệm vụ của Chính phủ trong
nhiệm kỳ 2011-2016, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh rằng thị trường có
những mặt tiêu cực và tự nó không bảo đảm định hướng XHCN của sự phát triển.
Ở Việt Nam hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế không chỉ xuất phát từ yêu

cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn xuất phát từ tính đặc thù của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thị trường, kinh tế thị trường không phải là quan hệ giữa người và vật, nó là một kiểu
quan hệ giữa người với người trong sản xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên nó mang đậm dấu ấn
của quan hệ xã hội, quan hệ chính trị của thể chế mà nền kinh tế đó tồn tại. Việt Nam là một
nước đang phát triển theo định hướng XHCN. Với mức độ đáng kể, sự phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay bị chi phối và nhằm phục vụ cho định hướng đó. Đương nhiên,
nhân tố sâu xa bảo đảm định hướng chính trị đối với kinh tế là đường lối, quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng; song để đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng biến thành
hiện thực vận động của nền kinh tế, chúng phải được thể chế hoá thành hệ thống pháp luật,
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và được triển khai bằng Nhà nước, thông
qua Nhà nước, dưới sự quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Xét từ giác độ đó, Nhà nước

có tác động trực tiếp nhất tới việc định hướng sự vận động của kinh tế thị trường. Pháp luật,

4


chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước chỉ đúng, khi chúng phản ánh
chính xác yêu cầu phát triển khách quan của thị trường, lấy quy luật thị trường làm cơ sở. Xét
về mặt đó, chúng mang tính khách quan. Nhưng pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội của Nhà nước lại là sự thể chế hoá, cụ thể hoá mục tiêu chính trị của Đảng.
Cho nên, chúng có mặt chủ quan. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, định hướng chủ quan (ý chí của Đảng, của Nhà nước và nhân dân ta) là ở chỗ,
cùng với việc bảo đảm lợi ích hợp lý cuả nhà doanh nghiệp, thì việc ưu tiên bảo vệ lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động là một vấn đề có tính nguyên tắc. Nhà nước có cơ
chế, chính sách để bảo đảm sự ưu tiên đó.
Trong những năm đổi mới vừa qua, do nhận thức chưa thật đầy đủ về các vấn đề nêu
trên, nên bên cạnh những thành tựu đáng kể đã đạt được, chúng ta cũng có không ít hạn chế,
yếu kém và cả sai lầm. Liên quan tới chủ đề luận văn này, điểm rõ nhất là nhận thức về vai
trò của Nhà nước trong việc giữ vững định hướng XHCN đối với quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường: bên cạnh những bước tiến rất căn bản, cũng đang còn có nhiều điểm chưa
được làm sáng tỏ. Một trong những vấn đề như vậy là nhận thức về vai trò của Đại hội Đảng,
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng và thẩm quyền của Quốc hội với tư cách là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất cuả nhân dân trong hoạch định chiến lựơc phát triển kinh
tế (bao gồm chiến lược CNH, HĐH; cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế; định
hướng phát triển những vùng kinh tế trọng điểm; chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế...).
Cùng với việc phân định chưa rõ giữa vai trò của Đảng và vai trò cuả Nhà nước trong việc
giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường là việc nhận
thức còn có nhiều điểm khác nhau trực tiếp liên quan tới chức năng của Nhà nước trong việc
bảo đảm định hướng đó. Một số người cho rằng, yếu tố định hướng phát triển của kinh tế
phải là những nhân tố nội tại của kinh tế, vì “phát triển là quá trình tự thân vận động, tự thân
phát triển do những nhân tố nội tại cuả nó quy định”. Một số khác cho rằng, định hướng kinh

tế phải do các yếu tố bên ngoaì kinh tế, đó là chính trị, quyết định. Từ đó, họ tuyệt đối hoá vai
trò định hướng do Đảng, Nhà nước thực hiện. Từ thực tiễn đổi mới, cả hai quan điểm trên đây
đã dần được khắc phục. Một quan điểm toàn diện hơn như là sự “hợp đề” đã hình thành: Cả
nhân tố chính trị lẫn nhân tố kinh tế đều có vai trò quan trọng trong việc định hướng sự
5


phát triển của kinh tế. Trong nhân tố chính trị, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình
xây dựng nền KTTT có vị trí định hướng rất quan trọng, nhưng để biến sự định hướng của
Đảng thành hiện thực định hướng trong thực tiễn của đời sống kinh tế, phải qua Nhà nước.
Bởi lẽ, chính Nhà nước là thiết chế tổ chức thực hiện các quan điểm định hướng của Đảng.
Trong số các nhân tố kinh tế bảo đảm định hướng XHCN, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
có vị trí vô cùng quan trọng. Sự lớn mạnh của chúng khiến cho kinh tế nhà nước năm được
vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân sẽ tạo thành cơ sở vật chất nội tại quan trọng nhất bảo đảm sự phát triển của KTTT theo
định hướng XHCN. Liên quan nội taị với chủ đề luận văn này, nhận thức về vai trò cuả Nhà
nước với tư cách là một nhân tố chính trị trong việc giữ vững định hướng XHCN đối với sự
phát triển nền KTTT cũng không phải mọi điều đã được làm sáng tỏ. Nhà nước phaỉ chăng
chỉ làm nhiệm vụ định hướng mà không trực tiếp làm kinh tế? Các nhân tố kinh tế có vai trò
định hướng tự nó hình thành hay cũng phải có sự tác động và định hướng của Nhà nước? Sự
chưa sáng tỏ về nhận thức dẫn tới sự chưa thật khoa học trong hoạt động thực tiễn. Trong
những năm gần đây, mặc dù Nhà nước ngày càng ít trực tiếp can thiệp vào hoạt động sản xuất
kinh doanh cuả doanh nghiệp; nhưng đây đó, lúc này, lúc khác vẫn còn tình trạng Nhà nước
trực tiếp làm quá nhiều việc trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, còn trực tiếp đảm nhận nhiệm
vụ “chèo thuyền”, chưa thực sự đóng vai trò là người “cầm lái”. Điều đó đã gây cản trở lớn
tới việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp và nhân dân nói chung. Nhà nước
là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ cuả nhân dân. Do chưa nhận thức đầy đủ vai trò cuả Nhà
nước trong việc giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển nền KTTT, nên vai trò
làm chủ cuả nhân dân nói chung, trên lĩnh vực kinh tế nói riêng cũng bị kìm hãm. Đây là một
nguyên nhân hết sức quan trọng làm hạn chế hiệu quả quá trình phát triển kinh tế ở nước ta;

khiến cho những biểu hiện chệch hướng có nguy cơ gia tăng. Đề cập vấn đề này, Đại hội XI
chỉ ra: “Những yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường chưa
được chú ý đúng mức” [21, tr.166].
Để khắc phục những hạn chế đó nhằm làm cho Nhà nước ta thực hiện tốt hơn chức
năng là một nhân tố chính trị giữ vững đúng hướng XHCN trong quá trình phát triển nền
KTTT, chúng ta phải tiếp tục đổi mới nhận thức và nâng cao chất lượng vận dụng vấn đề này
6


vào thực tiễn. Với lý do đó, em chọn vấn đề: “Vai trò của Nhà nước đối với việc giữ vững
định hướng XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nam” làm đề tài luận văn cao học của mình với hy vọng góp một phần sức lực nhỏ bé vào
việc giải quyết nhiệm vụ nêu trên.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Trong những năm gần đây, liên quan tới luận văn này đã có một số đề tài, luận văn, luận
án đề cập, qua đó, đã mang lại cho chúng ta những nhận thức mới nhất định. Chẳng hạn:
“Định hướng XHCN ở Việt Nam, nội dung cơ bản và điều kiện chủ yếu để thực hiện” (Luận
án tiến sĩ khoa học Triết học, chuyên nghành CNCSKH của Nguyễn Văn Oánh, Hà Nội,
1994). “Định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam” (Đề tài khoa học
cấp nhà nước, mã số KX 04.07./ 06-10, PGS.TS Phạm Văn Dũng chủ nhiệm). “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” (Tô Xuân Dân, Hoàng Xuân Nghĩa. Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, số tháng 2-2003. Hà Nội). “Một số vấn đề định hướng XHCN” (TS
Nguyễn Đức Bách, Nxb Lao động, Hà Nội. 1998), “Một số quan điểm và giải pháp chuyển
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001). “Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta” (GS.TS. Chu Văn Cấp. Tạp chí Cộng sản, số 71-2004). “Những vấn đề lý
luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” (GS.TS Nguyễn Duy Quý chủ biên,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1998), “Về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” (GS.Nguyễn
Đức Bình chủ biên, Nxb TCQG, Hà Nội, 2003). “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (TS Đinh Văn Ân chủ biên, Nxb Thống Kê, Hà Nội,
2003). “Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (GS.TS
Vũ Đình Bách, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004). “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (TS.Đinh Văn Ân, TS. Lê Xuân Bá đồng
chủ biên, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2006). “Đặc trưng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (GS.TS Vũ Đình Bách, GS, TS Trần Minh Hạo
đồng chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006). “Sở hữu nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (PGS.

7


TS.Nguyễn Cúc- PGS.TS. Kim Văn Chính đồng chủ biên. Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội,
2006). “Phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” (GS.TS. Nguyễn Đình Hương chủ biên, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
2006). “Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” (TS. Chử Văn Lâm chủ biên. Nxb CTQG, Hà Nội, 2006). “Nguồn lực và
động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”
(GS.TSKH. Lê Du Phong chủ biên, Nxb Lý luận chính trị. Hà Nội, 2006). “Quản lý nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (GS.TSKH.
Lương Xuân Quỳ chủ biên, Nxb Lý luận chính trị. Hà Nội, 2006). “Sự thống nhất và khác
biệt giữa C.Mác, V.I.Lênin và các trào lưu lý luận mác xít về vấn đề sử dụng kinh tế thị
trường trong thời kỳ quá độ lên CNXH và quá trình xây dựng CNXH: căn nguyên dẫn đến sự
khác biệt và hệ quả” (GS.TS. Chu Văn Cấp, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia: Các lý
thuyết kinh tế chính trong bối cảnh phát triển mới của thế giới và những vấn đề rút ra cho
Việt Nam, tháng 1-2010). “Kế thừa, phát triển tư tưởng, quan điểm, đường lối đổi mới của
Đảng để tiếp tục hoàn thiện mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở giai đoạn 20112020” (Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia: Các lý thuyết kinh tế chính trong bối cảnh phát
triển mới của thế giới và những vấn đề rút ra cho Việt Nam, tháng 1-2010)...
Các đề tài, công trình trên đây đã nêu lên được những nét cơ bản trong quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về CNXH và con đường đi lên
CNXH, về phát triển kinh tế thị trường và vai trò của kinh tế thị trường nói chung, trong sự
vận dụng vào điều kiện cụ thể ở nước ta nói riêng, nhưng chưa làm rõ vai trò của Nhà nước ta
trong việc giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế. Đó tuy là những kết quả rất

đáng trân trọng và cần đựơc đánh giá cao; song, một là, các công trình, đề tài đó mới dừng lại
ở nhận thức trong thời kỳ trước đây, chưa bao quát được những nhận thức mới đạt đựơc trong

vài năm gần đây; hai là, nhiều vấn đề về vai trò của Nhà nước định hướng và giữ vững định
hướng xây dựng kinh tế ở nước ta còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Các vấn đề này còn
phải nghiên cứu lâu dài trên cơ sở thực tiễn không ngừng biến đổi của thế giới và trong nước.
Luận văn này chỉ góp một phần nhỏ vào việc làm sáng tỏ, bổ sung, phát triển vài điểm trong
hệ vấn đề to lớn và quan trọng đó.
8


3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN

3.1- Mục đích
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
của nhà nước đối với sự phát triển xã hội nói chung, đối với phát triển kinh tế trong quá trình
xây dựng CNXH nói riêng, luận văn làm rõ thực trạng vai trò của Nhà nước cộng hòa XHCN
Việt Nam đối với việc giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế thị
trường những năm đổi mới vừa qua ở nước ta; đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả tác động cuả Nhà nước tới việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
trong giai đoạn hiện nay.
3.2- Nhiệm vụ
Để đạt mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, làm rõ quan niệm cuả chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
của nhà nước đối với kinh tế, quan điểm của Đảng về vai trò của Nhà nước ta đối với việc giữ
vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường.
Hai là, làm rõ thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc giữ vững định hướng CNXH
đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường qua 25 năm đổi mới ở nước ta.
Ba là, phát hiện ra tình huống có vấn đề đang nảy sinh, đề xuất một số giải pháp chủ
yếu để giải quyết các vấn đề đó nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc giữ

vững định hướng XHCN đối với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1- Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vai trò của Nhà nước đối với việc giữ vững định hướng XHCN trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường qua ở nước ta qua 25 năm đổi mới.
4.2- Phạm vi nghiên cứu

9


Xem xét vai trò của Nhà nước đối với việc giữ vững định hướng XHCN trong phát
triển kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô, mang tính tổng quát trên phạm vi cả nước.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

5.1- Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng ta về vai trò của nhà nước đối với kinh tế, đồng thời kế thừa và phát huy
những giá trị của các công trình khoa học đã nghiên cứu những phương diện khác nhau của
đề tài này.
5.2- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dùng phương pháp luận của CNDVBC và CNDVLS , phương pháp lịch sử và
lôgíc, phân tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể... nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ
mà đề tài đặt ra.
6. ĐÓNG GÓP KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN

6.1- Đóng góp về mặt khoa học
- Luận văn đã góp phần bổ sung, phát triển quan niệm về vai trò của Nhà nước đối với


việc giữ vững định hướng XHCN trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam.
- Luận văn đã đưa ra đựơc một số giải pháp có tính khả thi để nâng cao vai trò của Nhà
nước đối với việc giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam.
6.2- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn cuả luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn không chỉ góp phần hệ thống hóa những nhận thức đã đạt được, mà còn có sự
bổ sung, phát triển đối với việc nhận thức về vai trò của Nhà nước trong việc phát triển kinh
tế thị trường phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam; phát hiện ra tình huống có vấn đề ở
nước ta liên quan tới các vấn đề nêu trên, từ đó, đưa ra hệ giải pháp để giải quyết chúng.
- Ý nghĩa thực tiễn

10


Luận văn là một công trình khoa học nghiêm túc, có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình giảng dạy vấn đề nhà nước, một số chuyên đề của chủ nghĩa xã hội khoa
học trong chương trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin dành cho các trường đại học và cao đẳng ở nước ta.
7. KẾT CẤU TỔNG QUÁT CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.
Chương 1
NHÀ NƢỚC VÀ KINH TẾ- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. NHÀ NƢỚC VÀ CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƢỚC
1.1.1. Nhà nƣớc
1

Thực tiễn lịch sử chứng minh rằng, không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước .

Phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp kém, sự phân hóa giai cấp còn chưa bắt đầu, tổ chức
đầu tiên của xã hội trong xã hội cộng đồng nguyên thủy là thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các thị
tộc, bộ lạc là những tộc trưởng do nhân dân bầu ra. Quyền lực của người đứng đầu những cơ
quan quản lý xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín; không có đặc quyền, đặc lợi cá
nhân, không bắt nhân dân phải phục vụ cho lợi ích riêng. Họ hoàn toàn thực hiện vai trò của
mình theo ý chí và quyết định của nhân dân. Thể chế xã hội trong thời kỳ cộng sản nguyên
thủy là thể chế tự quản của nhân dân.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đưa tới sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dùng
và khát vọng muốn chiếm đoạt nó đã làm nảy sinh ở giới có thẩm quyền thói hám của. Họ sử
dụng mọi quyền lực có trong tay để thực hiện khát vọng đó. Do vậy, việc phân hóa xã hội
được tăng cường. Giai cấp xuất hiện. Quan hệ người áp bức người thay thế quan hệ bình
đẳng, hợp tác, tương trợ. Sự đối kháng giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột ngày càng sâu sắc.
Chiến tranh ăn cướp giữa các bộ lạc, thị tộc đã làm cho quyền lực của thủ lĩnh quân sự
được củng cố, họ ngày càng giàu có lên, địa vị thống trị và bóc lột của họ được tăng cường.
1 Với tư cách một danh từ chung hay tính từ, chữ “nhà nước” chúng tôi không viết hoa. Chỉ viết hoa, khi đó là khái niệm
dùng để chỉ nhà nước ta - Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam - một danh từ riêng.

11


Họ trở thành lực lượng đối lập với nhân dân.
Những biến đổi trên đây đã làm cho cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần dần thoát
khỏi gốc rễ của nó trong nhân dân. Từ chỗ là công cụ của nhân dân, các tổ chức đó trở thành
cơ quan đối lập, thống trị và áp bức nhân dân.
Hậu quả là cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng lần đầu tiên xuất hiện trong lịch
sử xã hội - chủ nô và nô lệ - gay gắt tới mức dẫn tới nguy cơ chẳng những các giai cấp đó tiêu
diệt lẫn nhau mà tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền
lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước.
Qua đó cho thấy, nhà nước không phải là cơ quan để điều hòa mâu thuẫn giai cấp.
Ngược lại, nó ra đời do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc, không thể điều hòa.

Trên cơ sở của tính tất yếu kinh tế - xã hội nói trên, lực lượng lập ra và sử dụng bộ máy
nhà nước chính là giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Nói cách khác,
nhà nước là một tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện
hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
Nhờ có nhà nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và, do đó,
có thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức. Bản chất của nhà
nước, do đó, "chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp
khác" [37, tr.280-281].
Xét dưới giác độ tổng quát, mọi nhà nước đều phải thực hiện chức năng thống trị chính
trị của giai cấp (chức năng giai cấp) và chức năng xã hội (chức năng công quyền).
- Chức năng thống trị chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp) của nhà nước
Quyền lực chính trị do quyền lực kinh tế quyết định. Do vậy, để củng cố, tăng cường sự
thống trị chính trị của mình, nhà nước phải xác lập, củng cố nền tảng kinh tế mà giai cấp cầm
quyền là người đại diện cho quan hệ sản xuất thống trị. Nền kinh tế đó càng hùng mạnh bao
nhiêu, quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền càng có khả năng vững vàng bấy nhiêu.
Cùng với xác lập nền tảng kinh tế đó, để chức năng thống trị chính trị của nhà nước được
thực hiện, nó cũng phải xác lập, củng cố, tăng cường ảnh hưởng của hệ tư tưởng phản ánh
nhu cầu, lợi ích căn bản của giai cấp cầm quyền (hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền), làm
12


cho hệ tư tưởng đó chi phối đời sống tinh thần của xã hội. Hơn nữa, việc thực hiện chức năng
thống trị chính trị của giai cấp còn đòi hỏi nhà nước phải sẵn sàng trấn áp sự phản kháng của
mọi thế lực trong và ngoài nước. Bằng việc thực hiện có hiệu quả ba nội dung cơ bản đó,
chức năng giai cấp của nhà nước được củng cố và tăng cường.
- Chức năng xã hội (chức năng công quyền) của nhà nước
Nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Song, bất kỳ nhà nước nào cũng
phải đảm trách một số công việc nhằm đáp ứng nhu cầu chung của cộng đồng: xây dựng một
số công trình kinh tế, văn hoá - xã hội để phục vụ cho toàn xã hội về học tập, vui chơi, chăm
sóc sức khoẻ (có hay không có thu phí); bảo đảm trật tự - an toàn xã hội trong đi lại, sinh

hoạt, lao động; khắc phục những dịch bệnh hiểm nghèo, những tệ nạn xã hội...
Xét dưới giác độ chi tiết hơn và xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu, phương pháp tiếp cận
khác nhau, người ta có thể phân chia các chức năng cuả nhà nước thành chức năng kinh tế,
chức năng chính trị, chức năng văn hoá - xã hội; cũng có thể phân ra chức năng tổ chức - xây
dựng, chức năng bạo lực - trấn áp hay chức năng đối nội, chức năng đối ngoại....Song, cần
lưu ý rằng, dù phân chia như thế nào thì chức năng chính trị - giai cấp và chức năng xã hội công quyền cũng thâm nhập vào các chức năng của mọi sự phân chia đó. Tuỳ mục tiêu
nghiên cứu, người ta có thể áp dụng cách phân chia này hay cách phân chia khác. Do định
hướng của luận văn này, chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về chức năng kinh tế cuả nhà nước.
1.1.2. Chức năng kinh tế của nhà nƣớc

13


Lịch sử phát triển loài người kể từ khi xuất hiện giai cấp và nhà nước đến nay cho thấy,
dù trực tiếp hay gián tiếp, nhà nước đều tác động đến kinh tế theo các chiều hướng khác
nhau. Tổng kết thực tiễn đó, Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "tác động ngược trở lại của quyền
lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại. Nó có thể tác động theo cùng
hướng - khi ấy sự phát triển sẽ nhanh hơn; nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế,
khi ấy thì hiện nay, ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc
là nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở
những hướng khác. Trong trường hợp này rốt cuộc dẫn đến một trong hai trường hợp trên"
[38, tr. 678].
Vì sao nhà nước lại có thể tác động đến kinh tế? Vì sao sự tác động của nhà nước lại có
thể khiến sự phát triển của kinh tế diễn ra theo nhiều chiều hướng khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau như vậy?
Nhà nước ra đời từ sự phát triển của kinh tế, do sự phát triển của kinh tế quy định. Sau
khi ra đời "lực lượng mới có tính độc lập này tác động trở lại những điều kiện và quá trình sản
xuất nhờ tính độc lập vốn có của mình" [38, tr. 677]. Nhà nước là sản phẩm phát triển của sản
xuất, của kinh tế; nó ra đời nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế và toàn bộ các lợi ích khác của giai cấp
thống trị trên lĩnh vực kinh tế. Cho nên, nhà nước không chỉ do kinh tế, mà còn là, và chủ yếu là

vì kinh tế. Từ đó có thể nói, sự tác động lại của nhà nước tới kinh tế cũng mang tính tất yếu khách
quan không kém gì tính tất yếu kinh tế dẫn tới sự ra đời của nhà nước.

Khi đề cập tới sự tác động của nhà nước đến kinh tế trong thời kỳ cổ đại,
Ph.Ăngghen cho rằng nhờ có sự ra đời của nhà nước mà ở Aten thời cổ đại cũng như ở nhiều
nơi khác trên thế giới, tất cả các ngành sản xuất của xã hội như thương nghiệp, công nghiệp
và của cải xã hội mau chóng phát triển.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất xã hội, các yếu tố cấu thành nó
cũng ngày càng nhiều lên, mối quan hệ giữa các yếu tố đó ngày càng phức tạp hơn. Tương
ứng với mỗi trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội mà giữa các yếu tố cấu thành có
những quan hệ tỷ lệ nhất định để tạo ra được sự phù hợp của QHSX với LLSX; để đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển được ổn định, thăng bằng, cân đối. Các quan hệ tỷ lệ hình thành

14


trong nền kinh tế luôn có xu hướng bị phá vỡ do sự phát triển không ngừng của LLSX, do sự
tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. Điều đó ảnh hưởng đến sự phát triển bình
thường, đến quy mô và nhịp điệu phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, yêu cầu tạo sự cân đối
giữa các yếu tố cấu thành nền sản xuất xã hội, tạo sự phù hợp của QHSX với trình độ phát
triển của LLSX trong sự phát triển của nền kinh tế là nguyên nhân sâu xa quy định vai trò
kinh tế của nhà nước.
Trong nền kinh tế hàng hóa, KTTT, cơ sở khách quan này được thể hiện ở những
mặt sau:
- Trong nền sản xuất hàng hóa, sự sản xuất diễn ra dưới tác động của cơ chế thị
trường - một cơ chế tinh vi, phối hợp một cách không tự giác các chủ thể của nền kinh tế
thông qua hệ thống giá cả trên thị trường, một cơ chế mà điều kiện cần thiết cho sự phát triển
của nó là một trật tự kinh tế. Nhưng chính trong bản chất của cơ chế thị trường, sự vận động
của nó luôn đẻ ra những nhân tố, những mâu thuẫn làm rối loạn trật tự kinh tế. Trong cơ chế
thị trường, mỗi cá nhân tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh với nhu cầu, lợi ích riêng

của mình và đều tìm kiếm những phương thức hoạt động nhằm tối ưu hóa nhu cầu, lợi ích đó.
Vì mỗi cá nhân trong hoạt động chỉ chú ý đến lợi ích riêng của mình, lợi ích của người này
nhiều khi đối lập với lợi ích của người khác; do đó, lợi ích của cá nhân, bộ phận này được
thực hiện có thể làm thiệt hại đến lợi ích của cá nhân, bộ phận khác trong xã hội. Biểu hiện về
mặt kinh tế - xã hội của tình trạng đó là các hoạt động kinh tế chồng chéo, cản trở hoặc triệt
tiêu lẫn nhau; sự phân bổ nguồn lực không hợp lý; cơ cấu kinh tế bị đảo lộn; phân hóa giàu
nghèo gia tăng; tăng cường lạm phát, thất nghiệp, bất bình đẳng, tham nhũng, hối lộ; tàn phá
thiên nhiên, môi trường sống.
Muốn khắc phục hiện tượng này cần có bàn tay của nhà nước. Bởi lẽ, trong xã hội có
nhà nước, chỉ có nhà nước với thực lực kinh tế và quyền lực chính trị của mình mới có khả
năng điều chỉnh việc phân bố sản xuất và lao động giữa các ngành, các vùng để hình thành cơ
cấu kinh tế hợp lý, tối ưu; mới thúc đẩy được các ngành kinh tế trọng tâm, mũi nhọn; mới
phát triển được các ngành có ý nghĩa thúc đẩy sự tiến bộ khoa học và công nghệ trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Chỉ có nhà nước mới tạo được nguồn tích lũy tập trung quy mô lớn

15


để tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết những mục
tiêu kinh tế vĩ mô khác mà bản thân cơ chế thị trường không thể thực hiện được.
- Để mỗi nền kinh tế có thể tồn tại và hoạt động bình thường, cần có khu vực hàng

hóa và dịch vụ công cộng, như giáo dục, y tế, kết cấu hạ tầng, thông tin, các hoạt động an
ninh - quốc phòng, bảo vệ môi trường. Nhưng, trong cơ chế thị trường, xuất phát từ lợi ích cá
nhân mà hàng loạt các hoạt động tạo ra hàng hóa và dịch vụ công cộng - những hoạt động
thường đem lại một phần lợi nhuận không lớn hoặc chậm thu hồi vốn cho nhà sản xuất kinh
doanh, không được chú ý tới. Để khắc phục tình trạng đó, với tư cách chủ thể nền kinh tế
quốc dân và để điều chỉnh mục tiêu kinh tế vi mô, nhà nước phải nắm và đảm bảo cho xã hội
những loại hàng hóa và dịch vụ công cộng cũng như những hàng hóa mà nếu nằm trong tay
tư nhân sẽ làm thiệt hại đến lợi ích toàn xã hội.

- Nền kinh tế chỉ phát triển được khi có môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định,

lành mạnh. Tự kinh tế thị trường không tạo ra được môi trường như vậy, cần có vai trò cuả
nhà nước. Hiệu quả quản lý cuả nhà nước, khả năng phát hiện kịp thời những bất hài hoà
trong cuộc sống và có những giải pháp thích hợp cho phép khắc phục chúng là nhân tố bảo
đảm sự ổn định của môi trường kinh tế. Nhà nước với hệ thống thiết chế, thể chế và lực lượng
vật chất kinh tế và phi kinh tế của mình chính là nhân tố có khả năng đảm nhiệm chức năng
này.
Sự tác động của nhà nước đến kinh tế; mức độ nông, sâu của sự tác động đó còn phụ
thuộc phần lớn vào vị thế của giai cấp cầm quyền - giai cấp thống trị trong xã hội.
1.2. KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VÀ KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA

16


1.2.1. Khái lƣợc về “kinh tế thị trƣờng”
1.2.1.1. Sự hình thành, phát triển của kinh tế thị trường
Trong thời kỳ nguyên thủy, do lực lượng sản xuất quá thấp kém, để tồn tại được, con
người sống thành bầy đàn, dựa vào săn bắn và hái lượm, làm chung, ăn chung; chưa có trao
đổi sản phẩm.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, sản phẩm thặng dư xuất hiện, quan hệ trao đổi
giữa các công xã, bộ tộc, bộ lạc bắt đầu hình thành; sản xuất hàng hóa bắt đầu manh nha từ
đó. Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa ở thời kỳ này hết sức sơ khai, mang tính ngẫu nhiên. Cùng
với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ hàng hóa - tiền tệ cũng ngày càng phát triển
cả về quy mô và trình độ; đến một mức nào đó, toàn bộ “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất
đều thông qua thị trường thì kinh tế thị trường xuất hiện.
Từ cách tiếp cận lịch sử, có thể khái quát kinh tế thị trường là hệ thống các quan hệ
kinh tế được quy định bởi trình độ xã hội hóa sản xuất; là kiểu tổ chức xã hội về lao động,
trong đó các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” đều là hàng hóa; các thể chể kinh tế độc lập và lệ

thuộc nhau, cạnh tranh và hợp tác với nhau vì mục tiêu giá trị gia tăng.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó các hoạt động kinh tế
gắn chặt với nhau thông qua thị trường. LLSX xã hội ngày càng phát triển, trình độ phân
công lao động xã hội ngày càng cao, thì các quan hệ thị trường cũng ngày càng được mở rộng
và trở nên phức tạp. Hệ thống thị trường quốc gia trở nên thống nhất, thông suốt và gắn kết
chặt chẽ hơn với thị trường thế giới. Các doanh nghiệp và các nền kinh tế lệ thuộc vào nhau
chặt chẽ hơn cả đầu vào và đầu ra và, nhìn chung, cả người sản xuất và người tiêu dùng đều
được hưởng lợi từ sự lệ thuộc đó. Vì thế, mặc dù trong lịch sử đã từng xuất hiện những lực
lượng xã hội chống đối kinh tế thị trường, nhưng với tư cách là quy luật phát triển tất yếu,
kinh tế thị trường đã cuốn trôi, gạt bỏ mọi sự ngáng trở để phát triển và phổ biến trên phạm vi
toàn thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế vận hành theo cơ chế, nguyên tắc
riêng, gọi là cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản
của nền kinh tế, vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường, trong môi trường
17


cạnh tranh; mục tiêu của các hoạt động kinh tế là giá trị, lợi nhuận; sự tương tác giữa các chủ
thể kinh tế thực hiện thông qua quan hệ cung cầu; tín hiệu thể hiện của các quy luật thị trường
là giá cả.
1.2.1.2. Kinh tế thị trường TBCN
Xét về mặt lịch sử, KTTT là sản phẩm tất yếu của sản xuất hàng hóa, của sự phát
triển của LLSX xã hội. Tuy nhiên, trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ và phương
thức sản xuất phong kiến, mặc dù lực lượng sản xuất từng bước phát triển, nhưng vẫn chưa
thể có kinh tế thị trường. Ở đó, mục đích của sản xuất vẫn là để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp
của người sản xuất; sản xuất mang tính khép kín. Đến CNTB, lực lượng sản xuất phát triển
hết sức nhanh chóng; mục đích của sản xuất là cho “người khác”, cho xã hội; hoạt động sản
xuất mang tính “mở” trên phạm vi địa phương, khu vực và quốc gia, nền kinh tế thị trường
mới xuất hiện và ngày càng phát triển. Kinh tế thị trường với đúng nghĩa của nó là sản phẩm
trực tiếp của quá trình xã hội hóa sản xuất- xã hội hóa cả LLSX và cả QHSX trong CNTB.

Trình độ phát triển của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với
các giai đoạn xã hội hóa sản xuất. Tương ứng với các giai đoạn xã hội hóa sản xuất là các
trình độ phát triển của nền sản xuất hàng hóa - từ kinh tế thị trường tự do đến kinh tế thị
trường hiện đại.
Sản xuất hàng hóa giản đơn xuất hiện khi phân công lao động đạt đến trình độ nhất
định và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất tương đối phổ biến; các chủ thể kinh tế (cá nhân, tập
thể...) lao động không phải chỉ cho mình, mà còn cho xã hội. Tuy nhiên, do lực lượng sản
xuất còn kém phát triển, ít hàng hóa để trao đổi, nên quan hệ hàng hoá còn mang tính ngẫu
nhiên.
Kinh tế thị trường tự do là sự phát triển tất yếu của sản xuất hàng hóa giản đơn - khi
lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy hơi nước, năng suất lao động xã
hội và của cải lao động xã hội tăng lên đặc biệt nhanh chóng. Đây là tiền đề vật chất quyết
định việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm. Nhờ sản phẩm hàng hóa tăng lên nhanh chóng,
mọi nhu cầu của con người đều có thể được thỏa mãn thông qua thị trường, nên người sản
xuất có thể sản xuất ra cả những sản phẩm mà họ không có nhu cầu tiêu dùng; họ bán tất cả

18


những gì được sản xuất ra. Các yếu tố đầu vào như vốn, đất đai và sức lao động cũng trở
thành hàng hóa và người sản xuất hoàn toàn có thể mua được trên thị trường. Khi đó, kinh tế
thị trường tự do thay thế cho sản xuất hàng hóa giản đơn.
Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, ở các nước phương Tây, chủ thể quan trọng nhất
của nền kinh tế là các doamh nghiệp tư nhân. Cơ chế thị trường trở thành cơ chế vận hành
chủ yếu của nền kinh tế. Với cơ chế này, toàn bộ hoạt động của nền kinh tế do thị trường
quyết định và chủ yếu chịu sự chi phối của bàn tay vô hình. Trong giai đoạn này, lý thuyết
“bàn tay vô hình” của A. Smith giữ vai trò thống trị. Nhìn chung, nhà nước không can thiệp
vào nền kinh tế, chỉ làm hai việc: bảo vệ chế độ tư hữu; chống tội phạm, chống thù trong giặc
ngoài.
Trong nền kinh tế thị trường tự do, các doanh nghiệp đã hoàn toàn tự chủ trong sản

xuất kinh doanh, tự do cạnh tranh, ít bị chính sách nhà nước tác động. Trong giai đoạn này,
nhà nước chủ yếu cung cấp dịch vụ công cộng- quan trọng nhất là quốc phòng và an ninh
cũng như quy định về thể chế cho phép các thị trường phát triển mạnh mẽ. Trong điều kiện
như vậy, các hoạt động kinh tế hầu như hoàn toàn được quyết định bởi thị trường và hệ thống
doanh nghiệp TBCN. Về cơ bản, nhà nước tồn tại không phải với tư cách chủ thể kinh doanh.
Quy mô khu vực kinh tế nhà nước còn rất nhỏ bé nên tác động của nó đến kinh tế quốc dân
không đáng kể.
1.2.1.3. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng
XHCN
Đến nay, chưa ở đâu có CNXH chín muồi, do vậy, cũng chưa có nền kinh tế thị trường
XHCN với đúng nghĩa cuả nó. Trung Quốc cũng mới chỉ đang xây dựng nền KTTT XHCN.
Cho nên, một số điểm nêu ở đây chỉ mang tính dự báo.
CNXH là một giai đoạn của phương thức sản xuất CSCN, là một xã hội mới thoát thai
từ xã hội TBCN, về mọi phương diện, từ kinh tế đến đạo đức tinh thần...còn mang những dấu
vết của xã hội cũ. Bởi vậy, nền KTTT XHCN có những đặc trưng riêng: Sở hữu tư liệu sản
xuất chủ yếu tồn tại dưới hai hình thức toàn dân và tập thể; phân phối tư liệu tiêu dùng theo
lao động...

19


Trung Quốc đang xây dựng nền KTTT XHCN với các đặc trưng:
Thứ nhất, chế độ công hữu là chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển.
Thứ hai, thị trường đóng vai trò cơ sở rõ rệt trong việc phân bổ tài nguyên.
Thứ ba, hệ thống điều hành vĩ mô chủ yếu là áp dụng biện pháp kinh tế, pháp luật. Vai
trò điều hành vĩ mô của nhà nước và cơ chế thị trường đều là các yêu cầu bản chất của thể
chế KTTT XHCN, hai mặt trên gắn bó với nhau, bổ trợ cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Thứ tư, chế độ phân phối lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình thức phân
phối cùng tồn tại.
Thứ năm, cái khung của hệ thống đảm bảo xã hội thích ứng với trình độ phát triển kinh

tế. Hệ thống bảo đảm xã hội của Trung Quốc bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội, phúc
lợi xã hội, ưu đãi, chăm sóc người có công, tương trợ xã hội.
Thứ sáu, cục diện mở cửa với bên ngoài, đa phương hóa nhiều tầng nấc, lĩnh vực rộng.
Mở với bên ngoài là quốc sách lâu dài, cơ bản của Trung Quốc, cũng là con đường tất yếu
trong tiến trình đẩy nhanh HĐH XHCN. Xây dựng thể chế KTTT XHCN phải kiên trì mở cửa
với bên ngoài.
Chúng ta đang phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế được đặt
dưới sự kiểm soát của nhân dân, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân.
2

Ngoài các đặc trưng chung của kinh tế thị trường , kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của
kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của CNXH; vì thế, nó mang
trên mình những nét đặc thù sau đây:
- Mục tiêu của nền KTTT định hướng XHCN là thống nhất độc lập dân tộc và CNXH;

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Là nền kinh tế hỗn hợp dựa trên sở hữu nhà nước, tập thể, tư nhân; từ đó, hình thành:

Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân; trong đó, kinh tế nhà nước từng bước vươn
2 Các chủ thể kinh tế được tự chủ, tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh theo pháp luật; thị trường là cơ sở trực tiếp, quan
trọng để phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế; cạnh tranh trên tính tất yếu kinh tế là động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội; ...

20


lên nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế
quốc dân.
- Kết hợp nhiều hình thức phân phối: phân phối theo lao động, theo vốn và các nguồn


lực khác cho sản xuất - kinh doanh, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, phân phối
theo lao động là chính.
- Kết hợp tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá với thực hiện tiến bộ, công bằng xã

hội ngay trong từng chính sách, từng bước phát triển kinh tế; giảm bớt khoảng cách chênh
lệch giàu - nghèo.
- Thực hiện tốt các chính sách xã hội: Chính sách lao động và việc làm; chính sách xoá

đói giảm nghèo; chính sách an sinh xã hội; chính sách phòng, chống các tệ nạn xã hội...
- Là nền kinh tế mở, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.
- Nền kinh tế đặt dưới sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì

dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.3. VAI TRÕ CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG
1.3.1. Vai trò của nhà nƣớc đối với sự phát triển kinh tế thị trƣờng trong CNTB

1.3.1.1. Nhà nước tư bản với sự phát triển kinh tế thị trường tự do
Như đã biết, sự tác động của nhà nước đến kinh tế diễn ra trong suốt chiều dài lịch
sử, kể từ khi có nhà nước đến nay. Tuy nhiên, trong nền kinh tế tự nhiên và nền kinh tế hàng
hóa giản đơn (thường gắn với giai đoạn CHNL, phong kiến), vấn đề điều tiết, quản lý nền
kinh tế trên phạm vi toàn xã hội chưa trở nên cấp bách. Vì thế, học thuyết nghiên cứu về kinh
tế, đặc biệt những quan hệ kinh tế - chính trị còn hết sức lẻ tẻ. Khi nền kinh tế hàng hóa phát
triển lên trình độ cao, KTTT với tính chất phức tạp của nó đã đặt ra nhu cầu có hệ thống tri
thức đầy đủ, hoàn chỉnh về các quan hệ kinh tế - chính trị để chỉ đạo hoạt động kinh tế và là
cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, pháp luật của nhà nước tư sản. Khi ấy, hàng
loạt các quan điểm, học thuyết kinh tế - chính trị của các giai cấp, các lực lượng cơ bản trong
xã hội đã ra đời.


21


Gắn liền với giai đoạn quá độ từ xã hội phong kiến sang XHTB, chuyển từ kinh tế
hàng hóa giản đơn sang KTTT, tương ứng với thời kỳ tích lũy nguyên thủy, chủ nghĩa trọng
thương đã ra đời. Nó là cơ sở lý luận cho việc tạo lập một trong hai điều kiện cơ bản cho sự
hình thành phương thức sản xuất TBCN: tập trung khối lượng tiền tệ cần thiết cho quá trình
sản xuất, kinh doanh TBCN. Theo các nhà trọng thương, sự giàu có của mỗi quốc gia được
đánh giá không phải bằng lượng của cải vật chất, lượng sản phẩm hàng hóa, mà là lượng tiền
tệ của họ. Để làm giàu cho đất nước, để tích lũy được nhiều tiền tệ, chủ nghĩa trọng thương
cho rằng cần chú trọng hoạt động ngoại thương, vì theo họ, chỉ có lưu thông mua bán, trao
đổi mới sinh ra lợi nhuận.
Việc tích lũy tiền tệ của mỗi quốc gia, theo các nhà trọng thương, chỉ có thể thực
hiện được nhờ bàn tay "bà đỡ" của nhà nước. Chỉ có nhà nước, thông qua và bằng hệ thống
pháp luật, chính sách, thậm chí cả sức mạnh bạo lực, mới có khả năng hướng dẫn, điều tiết
lưu thông tiền tệ trong phạm vi quốc gia, cấm xuất khẩu vàng bạc; thu hút và cướp bóc vàng
bạc từ bên ngoài về.
Sang thế kỷ XVIII, sự phát triển chóng mặt của phương thức sản xuất TBCN sau khi
đã cởi bỏ được những khuôn khổ chật hẹp của phương thức sản xuất phong kiến, của chế độ
phong kiến, đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Sự
thay thế QHSX phong kiến bằng QHSX TBCN đã làm đảo lộn tính chất của những quan hệ
xã hội, trong đó, cơ bản nhất là quan hệ kinh tế - chính trị, kinh tế - nhà nước. Thực tế đó đòi
hỏi phải có những học thuyết mới chỉ đạo sản xuất, kinh doanh của nhà tư bản, làm cơ sở cho
chính sách của nhà nước tư sản. Mở đầu cho hàng loạt học thuyết bàn về vai trò của nhà nước
trong nền kinh tế TBCN là học thuyết của trường phái cổ điển với đại biểu xuất sắc như
Adam Xmith (1723 - 1790). Adam Smith đã dựa trên thực tiễn sinh động của phương thức
sản xuất TBCN thế kỷ XVIII để đưa ra lý thuyết "bàn tay vô hình" và nguyên lý "Nhà nước
không can thiệp vào hoạt động kinh tế". Adam Smith cho rằng tổ chức nền sản xuất hàng hóa
cần diễn ra theo nguyên tắc tự do, vì hoạt động của nền kinh tế do chính hệ thống các quy
luật kinh tế khách quan (ông gọi là "trật tự tự nhiên") chi phối. Theo ông, cái chi phối quan hệ

giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và trao đổi là lợi ích cá nhân. Mỗi

22


người chỉ biết tư lợi, chỉ thấy tư lợi và làm theo tư lợi. Do đó, cần có "bàn tay vô hình" để
buộc con người thực hiện nhiệm vụ không nằm trong dự kiến là đáp ứng lợi ích xã hội và,
thậm chí, đáp ứng lợi ích xã hội tốt hơn ngay cả khi họ có ý định làm điều đó. Từ đó, ông cho
rằng nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, không nên phá vỡ cái "trật tự tự nhiên" của
kinh tế.
Mặc dù gạt bỏ vai trò kinh tế của nhà nước, nhưng Adam Smith cũng phải thừa nhận
rằng đôi khi nhà nước cũng phải đảm nhiệm những nhiệm vụ kinh tế nhất định, như chăm lo
tới việc đào sông, đắp đường, duy trì ngọn hải đăng trên biển...- tức là tham gia xây dựng kết
cấu hạ tầng cho nền kinh tế, giải quyết các công việc mà tự mỗi cá nhân các nhà sản xuất
kinh doanh không thể đảm đương được [11, tr. 62-63].
Lý thuyết "bàn tay vô hình" của Adam Smith là sự tổng kết thực tiễn của ông. Sau
khi ra đời, nó đã được ủng hộ nhiệt liệt của giới sản xuất kinh doanh tư bản. Nền KTTT TB
được "tự do" vận động. Nhưng, sự vận động "tự do" đó đã dẫn đến một kết quả mang tính hai
mặt: một mặt, đã làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hóa
ngày càng cao, kích thích cải tiến kỹ thuật, công nghệ, làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy
LLSX phát triển; mặt khác, do tính tự phát, nền kinh tế đã lâm vào tình trạng khủng hoảng,
suy thoái.
1.3.1.2. Nhà nước tư bản với sự phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước
Sang thế kỷ XIX, sự khủng hoảng của CNTB ngày càng tăng dẫn đến mâu thuẫn giai
cấp giữa tư sản và vô sản ngày càng gay gắt. Quá trình chuyển CNTB tự do cạnh tranh sang
CNTB độc quyền nảy sinh những hoạt động kinh tế - xã hội mới. Trường phái kinh tế - chính
trị tư sản cổ điển tỏ ra bất lực trong việc bảo vệ CNTB và các trường phái kinh tế học chính
trị tư sản mới đã xuất hiện để phân tích nền KTTT, trong đó có trường phái kinh tế học cổ
điển mới ở Áo, Anh, Mỹ; và, đặc biệt, ở Thụy Sĩ, lý thuyết Cân bằng tổng quát của

L.Wanlras đã ra đời.
Thoạt đầu, trường phái cổ điển mới ủng hộ quan điểm của trường phái cổ điển về vai
trò của nhà nước trong nền KTTT. Nhưng, đến cuối thế kỷ XIX, sang đầu thế kỷ XX, cạnh

23


tranh đã dẫn đến độc quyền, CNTB rơi vào khủng hoảng mới, trầm trọng, sâu sắc hơn. Khi
CNXH ra đời với xu hướng nêu cao vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế, các nhà
kinh tế - chính trị học cổ điển mới cho rằng nhà nước cần phải can thiệp vào nền kinh tế trên
tầm vĩ mô. Họ cho rằng trong điều kiện độc quyền, thông qua các chính sách dưới hình thức
luật, nhà nước tác động đến kinh tế nhằm tăng phúc lợi kinh tế, tăng thu nhập quốc dân.
Vào những năm 1929 - 1933, khủng hoảng kinh tế của CNTB diễn ra rất trầm trọng.
Nó chứng tỏ học thuyết cổ điển và cổ điển mới có nhiều điểm thiếu chính xác. Lý thuyết "bàn
tay vô hình" của Adam Smit và "cân bằng tổng quát" của L.Wanlras không thể đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển lành mạnh. Sự phát triển nhanh chóng của CNTB độc quyền lên độc
quyền nhà nước đòi hỏi cần phải có sự can thiệp ngày càng tăng của nhà nước vào kinh tế,
đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế - chính trị mới. Kết quả là, lý thuyết về nền kinh tế TBCN có
sự điều tiết của nhà nước đã ra đời. Người sáng lập của nó là J.M.Keynes (1884 - 1946) - nhà
kinh tế chính trị học người Anh.
Theo J.M.Keynes, tính chất không ổn định của nền kinh tế, khối lượng thất nghiệp
ngày càng tăng trong xã hội tư bản không phải là vốn có, mà do các chính sách kinh doanh
lỗi thời, bảo thủ, thiếu sự can thiệp của nhà nước. J.M.Keynes không đồng ý với trường phái
kinh tế - chính trị học cổ điển và cổ điển mới về sự tự điều chỉnh, tự cân bằng của nền kinh
tế. Ông cho rằng để định hướng nền kinh tế phát triển cân đối, hài hòa, nhà nước phải can
thiệp vào thị trường, phải trực tiếp đứng trong guồng máy kinh tế và phải điều tiết từ bên
trong bằng các công cụ tài chính - tín dụng, lưu thông tiền tệ... cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Ở
tầm vĩ mô, nhà nước sử dụng các công cụ lãi suất, tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, chống
lạm phát, thuế bảo hiểm, trợ cấp, đầu tư phát triển. Ở tầm vi mô, nhà nước trực tiếp phát triển
các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công cộng để giải quyết việc làm và góp

phần ổn định nền kinh tế.
Trong bối cảnh bất ổn định của nền kinh tế tư nhân TBCN lúc bấy giờ, học thuyết
của Keynes được xem như một cứu cánh. Các nước tư bản đã vận dụng học thuyết này vào
thực tiễn kinh tế của mình với hy vọng bằng sự can thiệp của nhà nước, sẽ khắc phục được
khủng hoảng, thất nghiệp, tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội. Song, những chấn

24


×