Tải bản đầy đủ (.docx) (133 trang)

Văn hóa người hà nhì đen (nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở y tý, bát xát, lào cai, việt nam và nhóm ở má ga tý, kim bình, vân nam, trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.56 KB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

LA LIỆT Á (LUO LIEYA)

VĂN HÓA NGƢỜI HÀ NHÌ ĐEN
(Nghiên cứu so sánh nhóm cƣ trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào

Cai, Việt Nam và nhóm ở Má Ga Tý, Kim Bình, Vân Nam,
Trung Quốc)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC

Hà Nội - Năm 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

LA LIỆT Á (LUO LIEYA)

VĂN HÓA NGƯỜI HÀ NHÌ ĐEN
(Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào Cai,
Việt Nam và nhóm ở Má Ga Tý, Kim Bình, Vân Nam, Trung

Quốc)
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60220113

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN DUY THIỆU



Hà Nội - Năm 2020


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gừi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy hướng dẫn
PGS.TS Nguyễn Duy Thiệu, người định hướng chọn đề tài và tận tình hướng
dẫn để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy chủ nhiệm Đặng
Hoài Giang, cùng các thầy cô phòng Sau đại học và các thầy cô dạy cao học
trong suốt quá trình học tập.
Nhân dịp này tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới anh Bùi
Dũng trong công ty Nếp xưa Hà Nội, anh Dương Tuấn Nghĩa làm việc ở Sở
VHTTDL Lào Cai, cùng các ông bà anh em Hà Nhì Đen ở xã Y Tý và Hà Nhì
Lô Mê ở xã Má Ga Tý và các thầy cô của Học viện Hồng Hà từng giúp tôi và
gia đình tôi tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian hoàn thành
luận văn.

Hà Nội, tháng 11 năm 2019
Tác giả
La Liệt Á


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Duy Thiệu. Kết quả trong
đề tài này là trung thực, không sao chép từ bất kỳ công trình nào khác mà
không trích dẫn. Đề tài này chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này của mình.


Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2019
Học viên thực hiện

Đã ký

La Liệt Á


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI HÀ NHÌ ĐEN Ở Y TÝ, HUYỆN
BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI, VIỆT NAM VÀ MÁ GA TÝ, HUYỆN KIM
BÌNH, TỈNH VÂN NAM, TRUNG QUỐC
12
1.1 Những khái niệm cơ bản.........................................................................12
1.2 Ngƣời Hà Nhì Đen ở Y Tý, Bát Xát, Lào Cai, Việt Nam.....................21
1.3 Ngƣời Hà Nhì Lô Mê ở Má Ga Tý, Kim Bình, Vân Nam, Trung Quốc
28
Tiểu kết................................................................................................................................................ 35
Chƣơng 2. NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỀ văn hóa vật thể CỦA NGƢỜI
HÀ NHÌ ĐEN Ở Y TÝ, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI VÀ MÁ GA
TÝ, HUYỆN KIM BÌNH, TỈNH VÂN NAM, TRUNG QUỐC
37
2.1 văn hóa sinh kế........................................................................................37
2.2 Nhà ở.........................................................................................................41
2.3 Trang phục truyền thống........................................................................44
2.4 Ẩm thực....................................................................................................48
Tiểu kết................................................................................................................................................ 54

1



Chƣơng 3. NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỀ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
CỦA NGƢỜI HÀ NHÌ ĐEN Ở Y TÝ, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO
CAI, VIỆT NAM VÀ MÁ GA TÝ, HUYỆN KIM BÌNH, TỈNH VÂN
NAM, TRUNG QUỐC..................................................................................57
3.1 Ngôn ngữ và chữ viết...............................................................................57
3.2 Lễ hội........................................................................................................62
3.3 Phong tục..................................................................................................73
3.4 Tín ngƣỡng, tôn giáo...............................................................................83
3.5 Văn hóa nghệ thuật.................................................................................86
Tiểu kết................................................................................................................................................ 90
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 94
PHỤ LỤC.....................................................................................................100

2


MỞ ĐẦU
1.

Ý nghĩa khoa học
Từ xưa đến nay, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước sông liền sông, núi

liền núi, đặc biệt là giàu đặc sắc văn hóa tộc người gần biên giới là một đặc
điểm nổi bật ở chỗ biên giới hai nước. Biên giới không những là một cửa khẩu
để trao đổi hàng hóa, phát triển kinh tế mà còn là một cửa khẩu giao lưu bản
sắc văn hóa dân tộc, chứa đựng nhiều câu chuyện lịch sử hai nước nói chung,
và câu chuyện di cư dân tộc nói riêng để cho nhiều người đi khám phá, giao

lưu văn hóa. Trong đó, xã Má Ga Tý, tỉnh Vân Nam Trung Quốc và xã Y Tý,
tỉnh Lào Cải Việt Nam là hai xã giáp nhau, tập trung nhiều tộc người như
người Hà Nhì, người Mông và người Dao, chủ yếu là tập trung người Hà Nhì.
Dân tộc Hà Nhì là một trong 13 dân tộc đối với Trung Quốc cư trú xuyên
biên giới Việt - Trung và 26 dân tộc đối với Việt Nam cư trú xuyên biên giới
Việt - Trung và giàu sắc thái tộc người. Họ di cư sang Việt Nam cũng có thể
tính được hơn 300 năm trước, bởi vì họ chưa có chữ viết riêng cho nên khó có
thể tìm được tài liệu ghi rõ lịch sử di cư nhưng mà theo cách đặt tên phụ tử
liên danh có thể cho chúng tôi biết được họ cư trú ở đây ở được bao lâu đời
mà tính. Chính do có lịch sử di cư sang Việt Nam cũng lâu, sinh sống ở hai
nước khác nhau, cũng chịu ảnh hưởng của nền văn hóa khác nhau, cho nên
diễn biến ra những sự khác biệt đáng khám phá, so sánh.
Cùng một nhóm của người Hà Nhì, người Hà Nhì Đen và người Hà Nhì

3


Lô Mê chia sẻ nhiều nét tương đồng trong cuộc sống hằng ngày dù sinh sống
ở hai nước khác nhau. Ngoài sự tương đồng lớn như trên trình bày lại cũng có
sự khác biệt bởi do sự diễn biến trong lịch sử hay chịu ảnh hưởng hai nước
Việt Nam - Trung Quốc, đó cũng là những điểm quan trọng để khám phá, so
sánh đối chiếu. Cuối cùng, dựa trên sự tương đồng và sự khác biệt chúng tôi
lại thử tìm hiểu nguyên nhân tạo ra sự khác biệt như vậy thì có thể nhận diện
được văn hóa người Hà Nhì Đen và người Hà Nhì Lô Mê xuyên biên giới nói
riêng và văn hóa tộc người cùng một nhóm nhưng sống khác nơi giữa hai
nước nói chung.
Xuất phát từ ý nghĩa trên, cho nên tôi chọn đề tài: “Văn hóa người Hà
Nhì Đen (Nghiên cứu so sánh nhóm cư trú ở Y Tý, Bát Xát, Lào Cai, Việt
Nam và nhóm ở Má Ga Tý, Kim Bình, Vân Nam, Trung Quốc)” để nghiên
cứu, so sánh để góp một cái nhìn cho lĩnh vực văn hóa dân tộc Việt - Trung

nói riêng và văn hóa dân tộc xuyên biên giới nói chung.
2.

Lịch sử nghiên cứu
Mặc dù kể cả vùng Tây Bắc Việt Nam, dân tộc Hà Nhì chiếm tỷ lệ không

cao lắm, chỉ chiếm tới 0.59% mà số liệu này lấy từ Phát triển du lịch sinh thái
bền vững ở Tây Bắc Việt Nam trên phương diện đánh giá điều kiện tự nhiên
(2011) do TS. Đỗ Trọng Dũng chủ biên, nhưng các công trình nghiên cứu về
tộc người Hà Nhì và văn hóa tộc người Hà Nhì ở Việt Nam lại tương đối
nhiều hơn và đặc biệt là những năm gần đây các bài khoa học nghiên cứu về

4


văn hóa truyền thống của người Hà Nhì càng ngày càng tỉ mỉ, đi sâu vào
nhiều góc độ trong việc nghiên cứu.


Việt Nam, từ năm 1978 Viện Dân tộc học Việt Nam và Ủy ban Khoa

học Xã hội Việt Nam tổ chức các nhà dân tộc học hoàn thành công trình
nghiên cứu Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), bài công
trình này là một bước đầu và làm nền tàng nghiên cứu cho các nhà nghiên cứu
nghiên cứu về cả tên gọi, văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể của các tộc
người phía Bắc Việt Nam, trong đó gồm người Hà Nhì thuộc nhóm ngôn ngữ
Tạng - Miến. Sau đó, vào năm 1985 và 1988, PGS. TS. Nguyễn Văn Huy trong
trước tác Văn hóa và nếp sống các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hà Nhì - Lô Lô v
Văn hóa truyền thống các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hà Nhì - Lô Lô còn đề cập
đến nghề thủ công, lò rèn của người Hà Nhì Đen ở Bát Xát. Trong tất cả tài

liệu nghiên cứu về người Hà Nhì ở Việt Nam, những quyển sách như Tìm hiểu
văn hóa dân tộc Hà Nhì ở Việt Nam (2004), Người Hà Nhì ở Việt Nam (2010),
Văn hóa dân gian dân tộc Hà Nhì (2009), Dân tộc Hà Nhì (2013) đều giới
thiệu khái quát về người Hà Nhì ở Việt Nam từ những góc độ nguồn gốc, điều
kiện tự nhiên sinh sống, phương thức kiếm sống, nghề thủ công truyền thống,
ngày tết truyền thống, ngôn ngữ dân tộc để trình bày và minh họa cho độc giả
hiểu thêm kiến thức của người Hà Nhì ở Việt Nam. Trong đó, nhiều quyển
sách cũng đề cập đến nghề thủ công của người Hà Nhì ngày càng mai một do
điều kiện tự nhiên khó khăn không thể trồng trọt bông và phương

5


thức tự cung tự cấp. Ngoài ra, còn bài nghiên cứu có nhan đề là Một số vấn đề
về thủ công gia đình của người Hà Nhì của Trần Bình trong tạp chí Dân tộc
học Viện Dân tộc học viện Khoa học Xã hội Việt Nam (số 4, 2005) đã trình
bày chi tiết về các sản phẩm thủ công gia đình của người Hà Nhì, gồm các
kích cỡ, nguyên vật liệu, rất tỉ mỉ. Nguyễn thị Minh Tú thực địa điều tra học
hỏi cho biết (2006), trong bài phát biểu Lễ cấm bản của người Hà Nhì Đen tại
Lào Cai “Gắt tu tu” lại diễn đạt cho chúng tôi biết một nghi lễ đặc biệt của
người dân Hà Nhì Đen, tức lễ cấm bản của họ ở Lào Cai. Các bài nghiên cứu
trên trình bày tỉ mỉ về cả người Hà Nhì và văn hóa môi trường và văn hóa xã
hội của người Hà Nhì ở Việt Nam và Trung Quốc, trong đó cũng nhiều thành
quả nghiên cứu như nghi lễ trong cả đời người Hà Nhì như bài nghiên cứu của
Trịnh Thị Lan (2016), luận án Tiến sĩ Nghi lễ của người Hà Nhì ở huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai hiện nay thì trình bày một cách kỹ lưỡng từ sinh ra, lớn lên,
kết hôn, những giai đoạn của cuộc đời một người để cho chúng tôi biết nghi lễ
trong cả cuộc đời của người Hà Nhì Đen, nhận diện được một hệ thống văn
hóa trưởng thành của một người dân Hà Nhì Đen. Còn công trình Tri thức
dân gian và nghi lễ truyền thống trong sản xuất nông nghiệp của người Hà

Nhì Đen ở thôn Lao Chải (Lào Cai) (2011) và Tri thức dân gian trong khai
thác và bảo vệ rừng của người Hà Nhì Đen ở huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai
(2017) của tác giả Dương Tuấn Nghĩa cho nghiên cứu người Hà Nhì Đen ở
Việt Nam càng thêm cụ thể hơn, nội dung sâu sắc về nghi lễ truyền thống liên
quan đến


6


tri thức dân gian của người Hà Nhì Đen ở Việt Nam.
Hai quyển sách Dân tộc Việt Nam và vấn đề dân tộc (1999), trước tác của
GS. Phạm Hồng Quí và Nghiên cứu dân tộc xuyên biên giới Trung - Việt (2015)
do GS. Phạm Hồng Quí và Lưu Chí Cường chủ biên, đã trình bày rằng chế độ
phụ hệ của dân tộc Hà Nhì ở Việt Nam, đặc biệt ở quyển Nghiên cứu dân tộc
xuyên biên giới Trung - Việt cho biết rằng sau khi người Hà Nhì từ Trung Quốc
di cư vào Việt Nam thì chia thành ba dân tộc Hà Nhì, Cống và Si La. Thông tin
này rất quan trọng cho chúng tôi định hướng nghiên cứu, hiểu biết thêm về dân
tộc Hà Nhì ở Việt Nam. Và trong các bài nghiên cứu được sưu tầm trong quyển
sách Văn hóa tộc người và văn minh sinh thái ở Lưu vực sông Hồng, do Trịnh
Hiểu Vân, Dương Chính Quyền chủ biên (2010), cũng lại cho chúng tôi nhận
diện được một hệ thống về việc quản lý rừng và sử dụng các tài nguyên động
thực vật của người Hà Nhì xung quanh núi Ai Lao Sơn. Bài nghiên cứu của tiến
sĩ Nguyễn thị Hiền vừa trình bày rằng vai trò của văn hóa làng xã hay nói là văn
hóa cộng đồng trong việc bảo vệ tài nguyên nước và rừng ở thượng du sông
Hồng vừa lại cho chúng tôi biết rằng mối quan hệ chặt chẽ giữa người dân vùng
núi và người dân đồng bằng ở Việt Nam. Về tác phẩm riêng nghiên cứu người
Hà Nhì ở Trung Quốc, Ca dao của tổ tiên (2016) do Bạch Cư Châu sưu tầm,
Vương Tăng Văn phiên dịch và Lịch sử văn học của người Hà Nhì do Sử Quân
Siêu trước tác để miêu tả, trình bày lịch sử, văn hóa, cuộc sống của người Hà

Nhì, có thể nói là từ một góc độ văn

7


học để nhận diện văn hóa của người Hà Nhì. Bên cạnh đó, còn những cuốn
sách địa phương chuyên viết về văn hóa người Hà Nhì như Phong tục dân tộc
Hà Nhì Kim Bình (2004) và Âm nhạc dân gian của dân tộc Hà Nhì Kim Bình
(2007) của tác giả Quách Cấp đã sưu tầm và hệ thống hóa lại phong tục dân
gian, âm nhạc, nhạc cụ và điệu múa của 8 nhóm người Hà Nhì gồm Hà Nhì
Lô Mê ở Má Ga Tý cư trú ở Kim Bình Vân Nam, Trung Quốc, có thể nói là
trước tác viết về văn hóa phi vật thể, nhất là âm nhạc của người Hà Nhì cư trú


Kim Bình cụ thể nhất, chi tiết nhất.
Tất cả các bài nghiên cứu trên đều ít nhiều liên quan đến một mặt văn

hóa hay trình bày khái quát về văn hóa môi trường và văn hóa xã hội của
người Hà Nhì ở Việt Nam hay Trung Quốc, có thành quả nghiên cứu trình bày
sự thay đổi của văn hóa ngày xưa và hiện nay để so sánh nhưng vẫn ít thấy so
sánh văn hóa người Hà Nhì nói chung và văn hóa của người Hà Nhì Đen nói
riêng giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Cho nên chúng tôi tập trung
nghiên cứu vào văn hóa người Hà Nhì Đen ở Y Tý, Bát Xát, Lào Cai, Việt
Nam và nhóm ở Má Ga Tý, Kim Bình, Vân Nam, Trung Quốc và so sánh, đối
chiếu để nhận diện sự thay đổi, sự tương đồng và khác biệt của văn hóa người
Hà Nhì Đen ở hai nước.
3.

Mục đích, kết quả đạt đƣợc và sự giới hạn trong nghiên cứu
Mục đích cùng kết quả đạt được của bài luận văn như sau:


- Nhận diện hiện trạng văn hóa của người Hà Nhì, đặc biệt là văn hóa

8


người Hà Nhì Đen (người Hà Nhì Lô Mê, người Hà Nhì tự xưng mình ở xã
Má Ga Tý, Trung Quốc) ở xã Má Ga Tý, huyện Kim Bình, tỉnh Vân Nam
Trung Quốc và xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
-

So sánh và đối chiếu sự tương đồng và sự khác biệt của văn hóa Hà Nhì

Đen (hay còn gọi là Hà Nhì Lô Mê, Hà Nhì La Môn) từ góc độ văn hóa sinh
kế, văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể giữa hai vùng này.
-Do khả năng của người viết và thời gian nghiên cứu có hạn mà văn hóa
của một tộc người hết sức phong phú, đa dạng, cho nên kết quả đạt được của
bài luận văn này cũng giới hạn trong những biểu tượng, văn hóa tiêu biểu
mang đặc điểm nổi bật của người Hà Nhì Đen ở Y Tý và người Hà Nhì Lô Mê
ở Má Ga Tý.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Văn hóa của người Hà Nhì Lô Mê (người Hà Nhì Đen nhưng mà cách

gọi khác nhau) trong vùng xã Má Ga Tý, huyện Kim Bình, tỉnh Vân Nam
Trung Quốc và văn hóa người Hà Nhì Đen trong vùng xã Y Tý, huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai Việt Nam, gồm cả văn hóa sinh kế, văn hóa vật thể và văn
hóa phi vật thể như cảnh quan văn hóa, nhà ở, ẩm thực và tín ngưỡng, nghi lễ
v.v...

Dân tộc Hà Nhì là một dân tộc tụ cư xuyên biên giới. Ở Trung Quốc,
theo điều tra dân số lần thứ sáu toàn quốc năm 2010, người Hà Nhì có khoảng
1.63 triệu người, và có thể nói là tất cả người Hà Nhì tụ cư ở tỉnh Vân Nam,

9


đặc biệt tập trung ở châu Hồng Hà, chủ yếu tập trung ở lưu vực sông Hồng,
nói một cách cụ thể là phía Đông dưới khu Ai Lao sơn, phía Nam sông Hồng.
Theo tổng điều tra dân số năm 2009, người Hà Nhì ở Việt Nam có khoảng
22.000 người, cư trú ở 32 tỉnh và thành phố ở Việt Nam. Tuy nhiên, địa bàn
cư trú truyền thống của họ là Lai Châu, tỉnh Lào Cai và Điện Biên. Ở tỉnh Lào
Cai thì chủ yếu tập trung ở huyện Bát Xát, xã A Lù và xã Y Tý, hai xã tụ cư
người Hà Nhì Đen (gọi theo màu nền của y phục). Ở xã Y Tý, chiếm đến 60%
dân số là người Hà Nhì.
Trong bài nghiên cứu này, người viết chủ yếu mỗi một xã chọn 3 thôn
bản tập trung người Hà Nhì và nổi bật văn hóa Hà Nhì để khảo sát nghiên cứu,
cho nên địa bản khảo sát cụ thể là thôn Lao Chải khu 1, thôn Choản thèn và
thôn Mò Phú Chải ở xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai Việt Nam và thôn
Phổ Mã, thôn Tiêu Thủy Nham và thôn Hoang Điền ở xã Má Ga Tý, huyện
Kim Bình, tỉnh Vân Nam Trung Quốc.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ đạo được sử dụng là:
-

Điền dã dân tộc học: quan sát, phỏng vấn, tham gia. Tôi đã đi đến ở và

cùng tham gia vào các hoạt động trong đời sống hàng ngày với người dân địa

phương. Quá trình điền dã được tiến hành làm nhiều đợt khác nhau. Trong
quá trình này tham gia trực tiếp vào hoạt động cuộc sống hàng ngày của họ,
lắng nghe những quan tâm của họ cho chúng tôi những hiểu biết kĩ càng hơn

10


mà trong vai trò như người quan sát bên ngoài sẽ khó mà hiểu được.
-

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: các nguồn tư liệu thứ cấp như các báo

cáo, bài nghiên cứu, thông tin từ các trang website của các cơ quan liên
quan.
-

Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu. Tôi phân tích các nguồn tài

liệu thu được từ điều tra thực địa, so sánh và đối chiếu, trong đó còn sử dụng
những phương pháp liên ngành liên quan đến dân tộc học, ngôn ngữ học, văn
hóa học.
6.

Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm 3

chương trình như sau:
Chương 1 Tổng quan về người Hà Nhì Đen ở Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào
Cai, Việt Nam và Má Ga Tý, huyện Kim Bình, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc
Chương 2 Nghiên cứu so sánh về văn hóa vật thể của người Hà Nhì Đen ở Y

Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai và Má Ga Tý, huyện Kim Bình, tỉnh Vân
Nam, Trung Quốc
Chương 3 Nghiên cứu so sánh về văn hóa phi vật thể của người Hà Nhì Đen ở
Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Việt Nam và Má Ga Tý, huyện Kim Bình,
tỉnh Vân Nam, Trung Quốc

11


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI HÀ NHÌ ĐEN Ở Y TÝ, HUYỆN BÁT
XÁT, TỈNH LÀO CAI, VIỆT NAM VÀ MÁ GA TÝ, HUYỆN KIM BÌNH,
TỈNH VÂN NAM, TRUNG QUỐC
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Người Hà Nhì
Người Hà Nhì là một trong những tộc người thiểu số có lịch sử lâu đời
nhất ở biên cương Tây Nam của Trung Quốc. Trong bài ghi chép cổ tịch của
Trung Quốc mang tên là “Thượng thư·Vũ cống” có ghi là dân tộc Tây Nam
“Hòa Di”, là một nhóm nam thiên của người Khương thời cổ xưa trong đó
gồm có tổ tiên của người Hà Nhì. Trong bài ca dao cổ của người Hà Nhì kể về
quê nhà của người Hà Nhì nằm ở một nơi được gọi là “Nò mà a mế” (có nghĩa
là quê hương tốt đẹp), vậy thì có học giả suy đoán “Nò mà a mế” là phía nam
sông Đại Độ Tứ Xuyên. Bởi vì theo sử sách ghi chép, vào thế kỷ thứ 3 TCN,
“Hòa Di” đã phân bố ở đó và vùng đai đầm lầy phía Đông sông Nhã Lung
gồm vùng Liên Tam Hải cũng như lưu vực sông A Nê (một chi nhánh bắt
nguồn từ Liên Tam Hải). Do nhiều nguyên nhân như chiến tranh, dân số gia
tăng, thiên tai, họ bắt đầu từ phía bắc di cư xuống phía nam, cuối cùng chủ
yếu tập trung ở vùng giữa của núi Ai Lao Sơn và núi Mông Lạc Sơn. Đến thời
Đường tổ tiên của người Hà Nhì đã di cư đến vùng giữa Nhĩ Hải và Điên Trì
cũng như Điên Nam, được gọi là “Hòa Man” phân hóa từ Ô Man và Bạch
Man (thời Tùy, thời Đường, dân tộc Hoa Hạ gọi chung các dân tộc cư trú ở


12


Tây Nam, nhưng lại phân chia trình độ văn hóa phát triển gần đồng bằng thì
gọi là Bạch Man, trình độ phát triển còn thấp hơn gọi là Ô Man). Đến thời
Nam Chiếu, tổ tiên của người Hà Nhì tiếp tục thiên di, chủ yếu phân bố ở khu
vực Điên Nam. Đên thời Nguyên, dân tộc Hà Nhì được gọi là Oát Nê và Hòa
Nê, họ đã hoàn toàn ách rời ra Ô Man, trở thành cộng đồng dân tộc khác phân
bố ở vùng núi phía nam Vân Nam giữa hạ lưu sông Hồng và sông Lan
Thương (đoạn sông Mê Kông tại Trung Quốc). Đến thời Minh Thanh, truyền
thuyết của người Hà Nhì cư trú tập trung ở Mặc Giang, Hồng Hà, Nguyên
Dương, Lục Xuân trong khu núi Ai Lao Sơn cho rằng tổ tiên của họ du mục ở
đồng bằng “Nò mà a mế” ở bờ sông phía bắc xa xưa, sau đó dần dần di cư
xuống phía nam. Cho nên về “Nò mà a mế” là đâu, đến nay còn nhiều tranh
luận trong lĩnh vực học thuật. [35, tr.19] Hiện nay ngoài đa số người Hà Nhì
tập trung cư trú ở phía Tây Nam Trung Quốc, họ còn di cư sang các nước
Đông Nam Á như Mianma, Thái Lan, Lào và Việt Nam, trải qua lịch sử diễn
biến lâu đời, trở thành tộc người xuyên biên giới năm nước này. Theo thống
kê không chính thức, hiện nay dân số người Hà Nhì (những nhóm người Hà
Nhì còn gọi là A Khà) trên thế giới khoảng hơn 1.86 triệu người. Theo Điều
tra thống kê dân số năm 2010 Trung Quốc, người Hà Nhì ở Trung Quốc có
1.439.673 người, tập trung cư trú ở các huyện như Hồng Hà, Lục Xuân,
Nguyên Dương, Kim Bình và các huyện tự trị khác của châu tự trị Hồng Hà
gần biên giới Việt Nam cũng như các huyện như Cảnh Hồng, Mường Hải của

13


Tây Song Bản Nạp và các huyện thị như Cảnh Đông, Nguyên Giang, Phổ Nhĩ,

Tân Bình, Giang Thành. Và ở Trung Quốc, người Hà Nhì có nhiều nhóm khác
nhau, tên gọi cũng rất nhiều như Hà Nhì, Hào Nhì, Ái Nhì, Hòa Nhì v.v...
Theo Thống kê dân số và nhà ở năm 2009 của Việt Nam, có 21.725 người Hà
Nhì sinh sống ở Việt Nam, chủ yếu phân bố ở huyện Mường Tè, Phong Thổ,
Sín Hồ của tỉnh Lai Châu và huyện Bát Xát của tỉnh Lào Cai. Ở Việt Nam,
người Hà Nhì được chia ra 3 nhóm theo ngôn ngữ, trang phục, phong tục tập
quán và ý thức dân tộc: người Hà Nhì Cồ Chồ, người Hà Nhì Lạ Mí và người
Hà Nhì Đen.
1.1.2. Văn hóa vật thể
Đầu tiên, về mặt văn hóa, định nghĩa thời xưa và hiện nay, phương Đông,
phương Tây, đều có giải thích gần giống và nét khác. Trong bài nghiên cứu
này sẽ giới thiệu một số quan điểm tiêu biểu. Trong tiếng Trung, định nghĩa
văn hóa có thể kể từ thời Tây Chu (khoảng năm 1046 TCN). Theo ghi chép
của Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ “Văn” và “Hóa”: Xem dáng vẻ con người, lấy
đó mà giáo hóa thiên hạ. Thời Tây Hán Lưu Hướng lấy văn hóa có nghĩa là
văn trị giáo hóa để dùng đối lập với vũ lực, có lẽ đó là sử dụng từ văn hóa sớm
nhất ở Trung Quốc. Theo cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam của PGS. VS Trần
Ngọc Thêm, từ văn hóa trong tiếng Việt được dùng theo nghĩa thông dụng để
chỉ học thức trình độ văn hóa, lối sống (nếp sống văn hóa), theo nghĩa chuyên
biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn như văn hóa

14


Đông Sơn... Còn ở phương Tây, từ văn hóa lấy chung gốc chữ La-tinh là chữ
cultus animi mang ý nghĩa là trồng trọt tinh thần. Theo trình độ phát triển và
thời điểm khác nhau, những học giả phương Tây thì đưa ra định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Đến nay, định nghĩa văn hóa được công nhận phổ biến là do
UNESCO đưa ra: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng
biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã

hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và
văn chương, những lối sống, những quyển cơ bản của con người, những hệ
thống các gia trị, những tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho
con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân
một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được
bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét
những thành tựu của bản thân, tìm tỏi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ
và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”. Đó là theo nghĩa
rộng của văn hóa.
Tiếp, về văn hóa vật thể, theo cuốn sách Cơ sở văn hóa Việt Nam (Trần
Quốc Vượng chủ biên), theo quan niệm của UNESCO có một trong 2 loại di
sản văn hóa là những di sản văn hóa hữu thể (Tangible) như đình, đền, chùa,
miếu, lăng, mộ, nhà sàn v.v... Chủ nghĩa Mác-Lê-nin không coi văn hóa vật
thể là sự tập hợp những sự vật linh tinh, ngẫu nhiên, mà dạy rằng mỗi một xã

15


hội đều tạo nên những của cải vật chất đặc biệt của mình, vì những của cải ấy
lệ thuộc vào những công cụ lao động nhất định đánh dấu những đặc điểm của
một thời đại nhất định và của một xã hội nhất định. Trong quan điểm dân tộc
học, theo tác giả Hoàng Lương, văn hóa vật thể được giải thích gồm các lĩnh
vực sinh hoạt vật chất như nhà cửa, trang phục, đồ ăn thức uống, phương tiện
đi lại, vận chuyển và hệ thống công cụ sản xuất. Tất cả các lĩnh vực văn hóa
vật thể đều thể hiện cách ứng xử khéo léo, phù hợp với thực tế, điều kiện môi
trường tự nhiên sinh thái và hoàn cảnh xã hội cụ thể của từng tộc người.
Tóm lại, văn hóa vật thể là những của cải vật chất xung quanh nhóm
người mà được sáng tạo từ bàn tay con người, là kết tinh của sinh hoạt nhóm
người đó. văn hóa vật thể có thể phản ánh diện mạo cuộc sống, gia đình, lịch

sử của nhóm người đó, mang ý nghĩa lao động đậm đặc. Cho nên, trong
chương 2 người viết định hướng nghiên cứu các thành tố văn hóa sinh kế,
phương tiện đi lại, vận chuyển, nhà cửa, trang phục và ẩm thực trong văn hóa
vật thể của người Hà Nhì Đen và người Hà Nhì Lô Mê.
1.1.3. Văn hóa phi vật thể
Như trên đã nêu, trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam (Trần Quốc Vượng
chủ biên) theo quan niệm của UNESCO có một trong 2 loại di sản văn hóa
nữa là những di sản văn hóa vô hình (Intangible) bao gồm các biểu hiện tượng
trưng và “không sờ thấy được” của văn hóa được lưu truyền và biến đổi qua
thời gian, với một số quá trình tái tạo, “trùng tu” của cộng đồng rộng rãi...

16


Những di sản văn hóa tạm gọi là vô hình này theo UNESCO bao gồm cả âm
nhạc, múa, truyền thống, văn chương truyền miệng, ngôn ngữ, huyền thoại, tư
thế (tư thái), nghi thức, phong tục, tập quán, y dược cổ truyền, việc nấu ăn và
các món ăn, lễ hội, bí quyết và quy trình công nghệ của các nghề truyền
thống... Theo cuốn Bản chất của văn hóa, Những thành tựu của triết học, khoa
học, nghệ thuật và văn học hợp thành lĩnh vực văn hóa phi vật thể của xã hội.
Nhưng khái niệm văn hóa phi vật thể còn bao gồm cả đạo đức hay luân lý nữa.
Trong quan điểm dân tộc học, theo tác giả Hoàng Lương, mỗi dân tộc thể hiện
các hoạt động văn hóa phi vật thể của mình mỗi vẻ khác nhau, nhưng đều bao
gồm các lĩnh vực như ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo, văn học, nghệ thuật dân
gian (folklore), lễ hội truyền thống, tri thức dân gian và các phong tục, tập
quán liên quan đến chu kỳ đời người... Văn hóa phi vật thể bắt nguồn từ hiện
thực cuộc sống lại vượt lên trên cuộc sống thực, có sức sống bền bỉ, mãnh liệt
và lâu dài.
Tóm lại, văn hóa phi vật thể là những sự vật vô hình sức mạnh qua biểu
hiện của con người. Văn hóa phi vật thể có thể phản ứng sự tương tác giữa

con người và môi trường xung quanh gồm môi trường xã hội, môi trường tự
nhiên, là những quan niệm truyền dạy từ đời này sang đời khác. Từ văn hóa
phi vật thể có thể học được một nhóm người đối xử thế giới vật chất (thế giới
bên ngoài) như thế nào từ thế giới tinh thần (thế giới bên trong). Trong các
thành tố phong phú như trên đã kể, người viết định hướng nghiên cứu các

17


thành tố ngôn ngữ và chữ viết, lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo và văn
hóa nghệ thuật. Trong bài luận văn này người viết vừa trình bày nội dung các
thành tố vừa so sánh văn hóa người Hà Nhì Đen với văn hóa người Hà Nhì Lô
Mê.
1.1.4. Cơ sở lý thuyết
Trước khi dựa vào cơ sở lý thuyết về văn hóa để hiểu nguyên nhân sau
sự tương đồng và sự khác biệt thì phải có một tiền đề lớn là ý thức tự giác tộc
người của người Hà Nhì Đen và người Hà Nhì Lô Mê. Như tác giả Trần Long
đã đề cập trong bài “Văn hóa tộc người”, việc giữ gìn tộc người trước hết là
giữ gìn tộc danh và ý thức về tộc người, tức là những yếu tố thuộc lĩnh vực
văn hóa, dân tộc chứ chưa phải lĩnh vực nhà nước. Và bản sắc văn hóa là
những yếu tố ổn định, ít biến đổi trong một nền văn hóa. Vậy thì có thể hiểu
được những hình thái văn hóa nói chung và thành tố văn hóa nói riêng, bất cứ
sự ảnh hưởng về văn hóa của cộng đồng khác như sao cũng mang nhiều nét
tương đồng nhau giữa người Hà Nhì Đen và người Hà Nhì Lô Mê. Xét theo
chiều đồng đại và lịch đại, theo người viết là sự phân bố các nhóm và quá
trình di cư của tộc người, văn hóa tộc người được “lan tỏa”, “thiên di”, thậm
chí là “sáng tạo” trong không gian nhất định. Dựa trên cơ sở ý thức về tộc
người, bên trong nhóm người Hà Nhì, người viết cho thấy thuyết loại hình
kinh tế - văn hóa (trên cơ sở thuyết vùng văn hóa), cùng với không gian địa văn hóa lại có thể lý giải được nguyên nhân. Lý thuyết loại hình kinh tế - văn


18


hóa (trên cơ sở thuyết vùng văn hóa) và không gian địa - văn hóa ở một mức
độ nào nhấn mạnh vai trò của sự phát triển kinh tế và hoàn cảnh địa lý tự
nhiên trong sự biến đổi văn hóa của người Hà Nhì Đen và người Hà Nhì Lô
Mê.
Trên cơ sở lý thuyết về sự lan tỏa và thuyết loại hình kinh tế - văn hóa
(trên cơ sở thuyết vùng văn hóa), từ mặt không gian địa lý khẳng định sự
tương đồng về văn hóa sinh kế, chất liệu xây nhà, ẩm thực giữa người Hà Nhì
Đen và người Hà Nhì Lô Mê. Người Hà Nhì Đen và người Hà Nhì Lô Mê
xuất phát từ cùng một gốc, nên thấy được sự tương đồng giữa hai bên, nhất là
các thành tố văn hóa vật thể phụ thuộc vào môi trường tự nhiên. Bên cạnh đó,
dân tộc Hà Nhì là nhóm dân tộc mang tính cộng đồng khá cao. Trong nội bộ
nhóm tộc người, văn hóa riêng biệt của họ luôn được truyền miệng từ đời này
sang đời khác, đặc biệt là các thành tố văn hóa phi vật thể như ngôn ngữ, tín
ngưỡng, lễ hội truyền thống, phong tục và văn nghệ dân gian. Đặc biệt những
phép truyền thống, riêng biệt trong cộng đồng này về mặt cấu trúc đến mặt
chức năng đều giữ lại trọn vẹn, cho nên có thể từ từng nội dung lễ hội, phong
tục dễ thấy được sự tương đồng.
Như giáo sư Trần Quốc Vượng trong cuốn sách Cơ sở văn hóa Việt Nam
đã viết, sự biến đổi của bản sắc văn hóa dân tộc chịu sự chi phối của nhiều
nhân tố, cơ sở kinh tế là nhân tố quyết định.[18, tr.51] Về khía cạnh này, sự
phát triển kinh tế không những là một nguyên nhân lý giải sự tương đồng về

19


mặt hiện trạng văn hóa vật chất giữa người Hà Nhì Đen và người Hà Nhì Lô
Mê mà còn là nguyên nhân tạo ra sự khác biệt hiện trạng văn hóa xưa nay.

Trong quá trình phát triển, sự phát triển kinh tế thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa
người Hà Nhì với các tộc người khác. Cuối cùng, văn hóa người Hà Nhì Đen
chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi văn hóa Việt Nam, ví dụ như ẩm thực, chữ viết
sáng tạo, người Hà Nhì Lô Mê lại chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc,
đặc biệt lễ tết ngoại lai của người Hà Nhì Lô Mê, vì vậy, tạo nên sự khác biệt
giữa hai bên. Khái niệm acculturation, được hiểu là sự giao thoa văn hóa, tiếp
(xúc) và biến (đổi) văn hóa, trong quá trình phát triển, văn hóa không phải
nhất thành bất biến, cùng với không gian, thời gian và sự vận động các yếu tố
văn hóa bất biến và khả biến. Những yếu tố văn hóa khả biến luôn luôn là
những yếu tố được quyết định bởi sự phát triển kinh tế, trái lại, những yếu tố
liên quan đến văn hóa phi vật thể , cho dù thể hiện ở chỗ văn hóa vật thể thì
vẫn bất biến trong lịch sử quá trình phát triển. Từ đó thì dễ lý giải được sự
khác biệt giữa hai bên.
Nói chung, người viết cho thấy, xuất phát từ ý thức tự giác tộc người và
lý thuyết về sự lan tỏa, loại hình kinh tế - văn hóa thì có thể lý giải rằng sự
tương đồng trong văn hóa của người Hà Nhì Đen và người Hà Nhì Lô Mê
được giữ lại. Ngược lại, xuất phát từ sự biến đổi văn hóa trong lịch sử phát
triển thì mới lý giải được sự khác biệt trong văn hóa của người Hà Nhì Đen và
người Hà Nhì Lô Mê. Có thể nói là sự khác biệt giữa hai bên nhiều phần chịu

20


×