Tải bản đầy đủ (.docx) (152 trang)

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết rừng nauy của haruki murakami

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 152 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA VĂN HỌC

PHẠM THỊ HẠNH

KIỂU NHÂN VẬT KIẾM TÌM TRONG
TIỂU THUYẾT RỪNG NA-UY CỦA
HARUKI MURAKAMI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Hà Nội, 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN

KHOA VĂN HỌC

PHẠM THỊ HẠNH

KIỂU NHÂN VẬT KIẾM TÌM
TRONG TIỂU THUYẾT RỪNG NAUY CỦA HARUKI MURAKAMI
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60220245
Giáo viên hướng dẫn: GS.TS Nguyễn Đức Ninh


Hà Nội, 2012


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................................................3
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................5
1.

Lý do chọn đề tài......................................................................................................................5

2.

Mục đích nghiên cứu...............................................................................................................7

3.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề.......................................................................................................7

4.

Giới hạn vấn đề nghiên cứu và văn bản sử dụng................................................................. 11

5.

Phương pháp nghiên cứu....................................................................................................... 11

6.


Bố cục luận văn...................................................................................................................... 12

CHƯƠNG 1:................................................................................................................................... 13
NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO SỰ XUẤT HIỆN KIỂU NHÂN VẬT KIẾM TÌM TRONG SÁNG
TÁC CỦA HARUKI MURAKAMI............................................................................................. 13
1.1.

Tiền đề xã hội..................................................................................................................... 13

1.1.1.

Yếu tố hậu hiện đại nảy sinh trong lòng xã hội Nhật Bản...........................................13

1.1.2.

Tâm thức Nhật Bản sau chiến tranh............................................................................. 16

1.2.

Tiền đề mỹ học, triết học................................................................................................... 22

1.2.1.

Triết học hiện sinh.......................................................................................................... 22

1.2.2.

Phân tâm học.................................................................................................................. 31

1.3.


Chủ thể sáng tạo................................................................................................................ 37

1.3.1.

Thể loại tiểu thuyết trong sự nghiệp của Haruki Murakami......................................37

1.3.2.

Con người trong tư tưởng nghệ thuật của Haruki Murakami...................................40

CHƯƠNG 2:................................................................................................................................... 46
NHÂN VẬT KIẾM TÌM TRONG TIỂU THUYẾT.................................................................... 46
RỪNG NA-UY CỦA HARUKI MURAKAMI............................................................................. 46
2.1.

Nhân vật, kiểu nhân vật và kiểu nhân vật kiếm tìm nhìn từ góc độ lý thuyết...............46

2.1.1.

Nhân vật và kiểu nhân vật............................................................................................. 46

2.1.2.

Kiểu nhân vật kiếm tìm................................................................................................. 48

2.2.

Nhân vật tìm về hiện sinh là xu hướng kiếm tìm và xác lập lại bản ngã của con người


trong tiểu thuyết của Murakami.................................................................................................. 50
2.2.1.

Kiếm tìm bản ngã đích thực.......................................................................................... 50

2.2.2.

Hòa nhập cái “tôi” với cái “ta” và trở thành nhân vật trung tâm của thời đại.........59

2.3.

Đi tìm sự cứu rỗi trong tình yêu và những khát khao nhục thể..................................... 63

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

3


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

2.3.1.

Nhân vật đi tìm sự cứu rỗi trong tình yêu.................................................................... 63

2.3.2.

Kiếm tìm những khát khao nhục thể- thông điệp về sự giải thoát nỗi cô đơn...........68
Nhân vật tìm đến cái chết.................................................................................................. 75

2.4.


CHƯƠNG 3:................................................................................................................................... 83
NHÂN VẬT KIẾM TÌM............................................................................................................... 83
TRONG KHÔNG GIAN – THỜI GIAN NGHỆ THUẬT.......................................................... 83
Các cấp độ thời gian.......................................................................................................... 83

3.1.
3.1.1.

Về niên biểu của Rừng Na-uy........................................................................................ 83

3.1.2.

Trật tự niên biểu............................................................................................................. 86

3.1.3.

Tuổi của nhân vật - những chỉ dẫn về thời gian........................................................... 95
Đặt nhân vật trong không gian đa chiều của hiện thực.................................................. 99

3.2.
3.2.1.

Không gian vật thể....................................................................................................... 100

3.2.2.

Không gian tâm tưởng................................................................................................. 105

KẾT LUẬN.................................................................................................................................. 109

2.

Truyện ngắn chọn lọc........................................................................................................ 127

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 135
39.
40.

Thiên Lam, Văn học Việt Nam và Nhật Bản: Giao thoa để khởi sắc, baomoi.com............138
Trần Thị Tố Loan, Kawabata trong tiến trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản,

138
41.

Hoàng Long (2006), Truyện Ngắn Murakami (Nghiên Cứu Và Phê Bình), Nxb Tp Hồ Chí

Minh, HCM........................................................................................................................................ 138
80.

林林林, 村村村村村村村村村村村村村村村, .......................141

81.

林林林, 村村村村村村村村村村村村村村村, .......................141

106.

解解解解解解解解解解...................................................... 142

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.


4


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Từ thời điểm nhận giải thưởng “Nhà văn mới” Gunzo năm 1979, hơn
một phần tư thế kỉ hoạt động và viết lách, tên tuổi và sự nghiệp của Haruki
Murakami thu hút sự quan tâm, mến mộ của giới nghiên cứu và công chúng
tri thức toàn cầu. Mỗi trang viết dù về tiểu thuyết, truyện ngắn, du ký hay tiểu
luận đều gây nên những cuộc tranh luận làm sôi động đời sống văn hóa tinh
thần của độc giả cả trong và ngoài nước Nhật. Trong các tác phẩm của mình,
phần lớn cốt truyện được Haruki Murakami khai thác từ đời sống giới trẻ
Nhật những năm sáu mươi của thế kỷ XX. Nhưng nguồn cảm hứng trước tác
ấy đến nay vẫn giữ nguyên được tính chất hậu hiện đại: chúng đặt ra cho văn
học một loạt những vấn đề đầy hiệu năng, kích thích tinh thần tìm tòi, sáng
tạo, nhận thức và nhận thức lại không ngừng trong đời sống xã hội. Rừng Nauy sẽ là cuốn sách thanh xuân bất diệt bầu bạn với giới trẻ thế hệ này qua thế
hệ khác.
1.2. Văn học hậu hiện đại có những bước chuyển mình mạnh mẽ trong
mấy chục năm trở lại đây. Cùng với đó là sự xuất hiện của những thủ pháp
nghệ thuật mới mẻ: dòng ý thức, yếu tố trần thuật hậu hiện đại, điểm nhìn
trong văn chương nghệ thuật,… Nhưng tiểu thuyết của Haruki Murakami
cuốn hút người đọc không chỉ bởi tích chất hậu hiện đại: tính chất ấy không
thiếu gì ở các tác giả khác của thế kỷ XX (“sính” yếu tố hậu hiện đại đã trở
thành căn bệnh của văn chương). Nét độc đáo tạo nên cái “duyên ngầm” trong
sáng tác của Murakami chính là sự lan tỏa một sức hút mới từ văn học, văn
học phương Tây hòa quyện với mỹ học thiền và triết lý nhân sinh Nhật Bản
tạo nên nét đặc sắc vô cùng quyến rũ. “Murakami bằng cách này hay cách

khác chính là hình vóc của văn chương thế kỷ XIX… Văn ông không thuộc

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

5


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

trường phái nào nhưng lại có tính chất gây nghiện của một lại văn chương
tuyệt hảo nhất”[20; tr.1]
1.3. Đối với con người, sống là một hành trình kiếm tìm và khám phá.
Càng đi sâu vào thế giới của trải nghiệm ấy thì con người càng tiến sâu vào
thế giới của những cảm xúc cá thế, tách biệt thậm chí đối lập với nhận thức và
thế giới thực tại. Trong tác phẩm của mình, Haruki Murakami cũng đưa nhân
vật của mình đi đến cái tột cùng của cuộc hành trình khám phá; buộc nhân vật
phải hướng đến sự tìm kiếm sự chân thực thuần khiết bên trong của cái tôi,
tình yêu, tìm thấy cảm xúc nhục thể hay lối thoát trong tiềm thức bằng mặc
cảm và cái chết,… Và ẩn sau lớp phủ ấy, tiểu thuyết Haruki Murakami phản
ánh những khát khao về một sự tồn tại đích thực, sự bình yên trong cuộc sống,
sự thăng hoa trong tình yêu hay sự đồng điệu giữa bản thể và tha nhân.
1.4 Do vậy, dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của
Haruki Murakami nhưng nó vẫn chưa đủ để tạo nên một cái nhìn hệ thống cho
thi pháp tiểu thuyết của nhà văn này. Để bổ sung vào đây, chúng tôi chọn đề
tài Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki
Murakami để xem xét nghiên cứu chuyên sâu hơn. Đó là cách lấy lý thuyết
của thi pháp học hiện đại soi rọi vào văn bản tác phẩm, cùng lúc lấy cái văn
bản tác phẩm rút ra cái hồn của xứ sở Phù Tang.
Việc đi sâu tìm hiểu các tác phẩm của một tác giả nổi tiếng hàng đẩu
trong nền văn học Nhật Bản như Haruki Murakami là cần thiết để có được

một cái nhìn toàn diện và sâu rộng hơn về nền văn học, văn hóa xứ Phù Tang,
khẳng định giá trị và vai trò của nhà văn trong tiến trình văn học Nhật Bản.
Vấn đề Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki
Murakami vừa có ý nghĩa khoa học phục vụ thiết thực cho công việc giảng
dạy bộ môn văn học Nhật Bản ngày càng được chú trọng trong các trường đại
học ở Việt Nam. Hơn thế nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra sôi

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

6


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

nổi những năm trở lại đây, khi mối quan hệ giao lưu của hai nước Việt Nam
và Nhật Bản ngày càng được mở rộng, thì việc đẩy mạnh nghiên cứu văn hóa,
văn học Nhật Bản ngày càng góp phần tăng cường, thúc đẩy tình hữu nghị,
hợp tác phát triển giữa hai dân tộc Việt-Nhật.

2.

Mục đích nghiên cứu.

Qua việc khảo sát một số Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng
Na-uy của Haruki Murakami, chỉ ra những đặc trưng của kiểu nhân vật này và
ý

nghĩa của nó trong việc thể hiện tâm thức Nhật Bản qua chân dung giới trẻ

hiện đại. Từ đó thấy được những quan niệm mới của nhà văn về cuộc sống và

về con người.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Sự xuất hiện mang đầy hơi thở thời đại của Haruki Murakami trên văn
đàn thế giới được xem là một hiện tượng của văn học. Các tác phẩm của ông
luôn được xem là một sự phá cách đầy táo bạo, là một thách thức cho các nhà
nghiên cứu không chỉ riêng ở Nhật Bản mà còn ở trên toàn thế giới. Tên tuổi
của Haruki Murakami dành được không ít lời khen ngợi trên những tờ tạp chí
danh tiếng như:
-

“Murakami, cách này hay cách khác, chính là hình vóc của văn
chương thế kỷ 21… Văn ông không thuộc trường phái nào, nhưng lại
có chất gây nghiện của loại văn chương tuyệt hảo nhất.” (New
Statesman)

-

“Khêu gợi, thú vị sexy và hài hước, nếu không Murakami đã chẳng là

một trong những nhà văn hay nhất.” (Time Out)
-

“Một câu chuyện xúc động đến ngạt thở… Không nghi ngờ gì,

Murakami là một trong những tiểu thuyết gia tinh tế nhất thế giới.” (Glasgow
Herald)

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

7



Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

-

“Murakami đã nắm bắt được nhịp đập của thời đại ông, lôi cuốn người

đọc hoàn toàn, khiến bạn đọc phải bật khóc khi câu chuyện đã xong.” (The
Baltimore Sun)
-

“Hai mươi năm nay, nó luôn nằm trong danh sách 10 tiểu thuyết được

giới trẻ Nhật Bản và Hàn Quốc tìm đọc nhiều nhất” (Publisher Weekly)
-

“Với hơn một triệu bản in, Rừng Na-uy trở thành một hiện tượng văn

hóa” (Giáo sư Lâm Thiếu Hoa, dịch giả Rừng Na-uy ở Trung Quốc)
-

Là mười cuốn sách văn học có ảnh hưởng lớn nhất tới Trung Quốc

trong thế kỷ XX” (Nhìn lại cuối thế kỷ, Giáo sư đại học Harvard Lê Âu Phạn)

Đó là những đánh giá về sáng tác của Murakami một cách ngắn gọn nhất trên
ngôn luận và báo chí nước ngoài.
Bên cạnh đó hàng loạt các bài viết của các tác giả khác cũng đồng loạt
xuất hiện. Từ Katherine Knorr với Một tiểu thuyết gia Nhật Bản trong hành

trình tìm kiếm những lý tưởng đã mất đăng trên diễn đàn Người đưa tin quốc
tế đến Khoảng không gian tinh thần – Những điều kì lạ bên trong những thế
giới của Haruki Murakami đăng trên Báo thành phố Philadelphia, Mĩ, tháng
12/1999. Nhưng đáng kể nhất phải nói tới Haruki Murakami và Nhật Bản
ngày nay của Aoki Tamotsu xuất bản tại Xưởng in Đại học Hawaii,... Tất cả
đều hướng đến việc công nhận tài năng của Murakami.
Khoảng mười cuốn sách có giá trị viết về Haruki Murakami và tác phẩm
của ông tính đến thời điểm hiện nay. Từ Tiểu thuyết mới Nhật Bản: Văn hóa
đại chúng và văn học truyền thống trong sáng tác của Haruki Murakami và
Banana Yoshimoto của Giorgio Amitrano (Nxb Cheng & Tsui, 1/1996), Khiêu
vũ với cừu: Đi tìm sự đồng nhất trong tiểu thuyết của Haruki Murakami của
Matthew Carl Strecher (Trung tâm Nhật Bản, Đại học Michigan, 3/ 2002),
đến Haruki Murakami và âm nhạc của ngôn từ của Jay

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

8


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

Rubin (Nxb Vintage, 1/2005),… Ở những tác phẩm nghiên cứu trên, chúng tôi
đã thu nhận được những kiến giải, những phân tích về đặc trưng tác phẩm tiểu
thuyết Rừng Na-uy, thế giới nhân vật, cảm hứng nghệ thuật của nhà văn cũng
như chất mỹ học trong tác phẩm của Murakami.
Không có nhiều tác giả cùng thời mà tác phẩm lôi cuốn được giới độc giả
trẻ trực tiếp như thế, không chỉ trong nước ông mà còn khắp thế giới. Sách
của ông được dịch ra 29 thứ tiếng nước ngoài và là những cuốn sách có số bản
in lớn nhất và nằm trong danh mục sách bán chạy nhất thế giới (4 triệu bản
tiếng Nhật được bán ra). Có thể nói rằng, các giá trị trong tác phẩm của

Haruki Murakami mang tầm vóc quốc tế, vượt qua những quan tâm riêng của
dân tộc – quốc gia. Phải chăng đó là những giá trị “vượt ngưỡng”.


Việt Nam, Haruki Murakami và tác phẩm của ông được biết đến khá

muộn. Nhưng khi tác phẩm Rừng Na-uy được dịch sang tiếng Việt và xuất bản
lần đầu tiên vào năm 1996 (do Hạnh Liên và Hải Thanh thực hiện, Bùi Phụng
hiệu đính), rồi đến bản dịch của dịch giả Trinh Lữ, Nxb Hội Nhà Văn,
Hà Nội năm 2008 thì ngay lập tức thu hút sự quan tâm của độc giả cũng như
giới nghiên cứu, phê bình trên các diễn đàn văn chương. Tiếp đó là hàng loạt
các tác phẩm khác: Đom đóm (2006), Ngày đẹp trời để xem Kangaroo (2006),
Sau cơn động đất (2006),… cũng thu hút sự quan tâm rất lớn từ công chúng
đón nhận và khiến cho các nhà phê bình tốn không ít giấy mực.
Riêng về Rừng Na-uy, ta có thể kể đến một số bài viết: Rừng Na-uy, sex
thuần túy hay nghệ thuật đích thực của Phan Quý Bích đăng trên báo Văn
Nghệ số 34 (26/8/2006), Rừng Na-uy và dấu nối quá khứ với hiện tại của
Kiều Phong đăng trên Website . Ngày 17/3/2007, tại
Hà Nội đã diễn ra hội thảo về việc chuyển dịch và xuất bản các tác phẩm của
hai tác giả Nhật Bản với chủ đề “Thế giới của Haruki Murakami và Banana
Yoshimoto”. Tại đây, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số ý kiến rất tinh tế

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

9


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

và xác đáng khiến chúng ta phải suy ngẫm. Theo tác giả Nhật Chiêu “Khi

nhắc đến văn học Nhật Bản, người ta thường nghĩ đến Kimono và hoa anh
đào. Tuy nhiên, Murakami là nhà văn của thế kỉ 21 và ông viết những gì đang
diễn ra ở Nhật Bản. Tác phẩm của ông cũng thấm đẫm bản sắc Nhật Bản”[72;
tr.5]. Đồng tình với Nhật Chiêu, tác giả Trần Tiễn Cao Đăng cũng cho rằng:
“Nói đến văn học Nhật Bản, điều đầu tiên người ta nghĩ đến là võ sĩ đạo, trà
đạo, Kimono. Cũng như nói đến Việt Nam, người ta sẽ liên tưởng đến chiến
tranh Việt Nam. Các nhà văn Việt Nam nên lấy các tác phẩm của Murakami
làm tiền lệ để suy nghĩ xem bản sắc là cái gì là làm thế nào để có được một
tác phẩm lớn” [72; tr.7].
Cũng giống như các tiểu thuyết ăn khách khác, Rừng Na-uy đã được dựng
thành phim, được công chúng hồ hởi đón nhận, tên tuổi của đạo diễn Trần
Anh Hùng cũng được giới trẻ biết đến nhiều hơn. Đạo diễn Trần Anh Hùng đã
biến câu chuyện của nhà văn Haruki Murakami trở thành một tác phẩm điện
ảnh mang dấu ấn của riêng mình. Bộ phim Rừng Na-uy được báo giới ca ngợi
là - phiên bản hình ảnh đẹp của tiểu thuyết.
Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm và cụ thể là nhân vật trong tác phẩm đã
có một số công trình, bài viết bàn đến: Nhân vật cô đơn trong một số tiểu
thuyết của Banana Yoshimoto và Haruki Murakami của Hoàng Thị Hiền Lê,
Khóa luận tốt nghiệp Đại học năm 2008 và Nhân vật cô đơn trong tiểu thuyết
Rừng Na-uy của Haruki Murakami của Trần Thị Thoan, Khóa luận tốt nghiệp
Đại học năm 2010 đều của Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Đại
học Quốc gia Hà Nội,… Càng có nhiều sự quan tâm của độc giả càng chứng
tỏ Murakami đã nắm bắt được nhịp đập của thời đại.
Nhờ những công trình khai phá kể trên, bước đầu mở ra cánh cửa cho
chúng ta bước vào thế giới nghệ thuật mang đậm màu sắc hiện thực đa tầng và
sâu kín của Murakami. Tiếp thu những khám phá, những nhận định của

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

10



Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

các tác giả nghiên cứu đi trước, chúng tôi sẽ tiếp cận vấn đề nhân vật trên cơ
sở ứng dụng lý thuyết thi pháp học hiện đại để làm rõ Kiểu nhân vật kiếm tìm
trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami và những vấn đề có liên
quan góp phần tìm hiểu, đánh giá những thành công mà Haruki Murakami đã
đóng góp cho văn chương nhân loại.
4. Giới hạn vấn đề nghiên cứu và văn bản sử dụng.
Xác định đối tượng nghiên cứu là tác phẩm của nhà văn Nhật Bản Haruki
Murakami - Rừng Na-uy (tiếng Nhật: 解解解解解解解, Noruwei no mori) được xuất
bản lần đầu năm 1987 tại Nhật Bản.
Cũng như nhiều kiệt tác văn chương khác, “giá trị càng lớn, càng nhiều,
càng độc đáo bao nhiêu thì hàng rào ngôn ngữ càng trở nên khó vượt qua bấy
nhiêu” [17; tr7]. Rất may là tác phẩm đã được nhiều dịch giả chuyễn ngữ sang
tiếng Việt (Tác phẩm được dịch sang tiếng Việt và xuất bản lần đầu tiên vào
năm 1997 do Hạnh Liên và Hải Thanh thực hiện, Bùi Phụng hiệu đính. Năm
2006 bản dịch mới của Trịnh Lữ được xuất bản). Trong luận văn này, chúng
tôi chủ yếu sử dụng bản dịch của dịch giả Trinh Lữ, Nxb Hội Nhà Văn, Hà
Nội năm 2008 làm văn bản gốc và các nguồn tư liệu quý báu của những bậc
tiền nhân (cả bản tiếng Việt và bản tiếng nước ngoài) để làm nổi bật vấn đề
quan tâm.
Vấn đề xem xét trong luận văn này là các Kiểu nhân vật kiếm tìm với
những biểu hiện cụ thể của nó ở việc tổ chức không thời gian nghệ thuật trong
tác phẩm Rừng Na-uy.

5.

Phương pháp nghiên cứu.


Để tìm hiểu kiểu nhân vật của một tác phẩm đỉnh cao trong văn học, đồng
thời cũng là biểu hiện của văn hóa, tư tưởng Nhật Bản, luận văn này chúng tôi

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

11


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

sử dụng hương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh đối chiếu, phương
pháp thi pháp học. Ngoài ra, chúng tôi còn tiếp tục sử dụng phương pháp
nghiên cứu liên ngành và đa ngành: tìm hiểu truyền thống tư tưởng, nghiên
cứu về tâm lý, phong tục tập quán của giới trẻ Nhật Bản,.. Nghiên cứu kiểu
nhân vật kiếm tìm dưới góc độ so sánh đối chiểu văn hóa và văn học trên cả
hai phương diện nội dung và hình thức tác phẩm.

6.

Bố cục luận văn.

Ngoài mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo luận văn được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Tiền đề cho sự xuất hiện kiểu nhân vật kiếm tìm trong
sáng tác của Haruki Murakami.
Chương 2: Những kiếm tìm khác nhau của kiểu nhân vật kiếm tìm
trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.
Chương 3: Nhân vật kiếm tìm trong không gian – thời gian nghệ
thuật.


Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

12


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

CHƯƠNG 1:
NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO SỰ XUẤT HIỆN KIỂU NHÂN VẬT KIẾM
TÌM TRONG SÁNG TÁC CỦA HARUKI MURAKAMI.
1.1. Tiền đề xã hội.
1.1.1.

Yếu tố hậu hiện đại nảy sinh trong lòng xã hội Nhật Bản.

Thời hậu hiện đại là thời đại của sự lựa chọn không ngừng. Đó là một
thời đại không có sự chính thống nào có thể được tiếp nhận mà không có sự tự
ý thức và châm biếm, bởi vì tất cả mọi truyền thống dường như đều có những
giá trị nhất định. Điều này phần nào là hệ quả của cái gọi là sự bùng nổ thông
tin, sự tiếp cận của những kiến thức được hệ thống hoá, hệ thống truyền thông
và điều khiển học toàn cầu. Đó là một thời đại không phải chỉ thuộc về những
người giàu có, những kẻ chỉ biết nhặt nhạnh, những kẻ du hành chiết với thật
nhiều khả năng lựa chọn, mà hầu như thuộc về mọi cư dân ở thành thị. Chủ
nghĩa đa nguyên, cái "chủ nghĩa" của thời đại chúng ta, vừa là một vấn đề lớn
vừa là một cơ hội lớn: nơi mỗi người đàn ông trở thành một công dân thế giới
và mỗi người đàn bà là một cá nhân được giải phóng; nơi sự lẫn lộn và lo âu
trở thành tâm thế chủ đạo và sự bắt chước trở thành một hình thức phổ thông
của nền văn hoá đại chúng.
Loài người đã bước sang một giai đoạn với sự phát triển như vũ bão về

khoa học kĩ thuật, thời kỳ hậu chiến tranh lạnh mở ra, xu hướng toàn cầu hóa
ngày càng rõ nét, con người không còn gặp trở ngại đáng kể về không gian,
song mặt khác, sự sợ hãi trở thành nô lệ cho máy móc và thời gian, nỗi ám
ảnh hạt nhân hủy diệt cùng hàng loạt các vấn đề khác đã làm nảy sinh một

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

13


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

tâm thế mới. Tâm thế đó đã, đang diễn ra mạnh mẽ ở xã hội Phương tây và
đang lan rộng toàn thế giới.
Xã hội xuất hiện những khái niệm “chủ nghĩa hậu hiện đại”,tâm thức hậu
hiện đại”, “hoàn cảnh hậu hiện đại” vào những năm 60 của thế kỷ XX với các
đại diện tiêu biểu là: Derrida, Grands resats, Foucault, J.F.Lyotard,
P.Anderson, T.Eagleton,… như là một sự phản ứng lại chủ nghĩa hiện đại,
phản ứng lại những gì là cố hữu và định sẵn. Chủ nghĩa hậu hiện đại, là một
từ ngữ phức tạp bao hàm một hệ thống tư tưởng được giới nghiên cứu đại học
tiếp nhận. Rất khó có một định nghĩa thật chính xác và hàm súc về chủ nghĩa
hậu hiện đại, vì khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện trên nhiều lĩnh
vực nghiên cứu khác nhau, bao gồm nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc, phim ảnh,
văn chương, chính trị, xã hội, truyền thông, khoa học kỹ thuật và ngay cả thời
trang. Từ những khái niệm mới mẻ này, xuất hiện những chuyển biến mới mẻ
trong xã hội hiện đại, nhất là về mặt cảm quan tư tưởng. Các triết gia hậu hiện
đại tố cáo liên minh quyền lực – tri thức mang tính đàn áp (Foucault); bác bỏ
các đại tự sự (Grands resats) một kiểu nô dịch tinh thần (Lyotard); phơi bày
tính chất áp đặt trong chiều sâu ý nghĩa ngôn ngữ (Derrida). Con người trong
thời hậu hiện đại bị phân rã hoàn toàn dưới sức ép của hàng ngàn thế lực đến

từ xã hội hậu công nghiệp, vì thế, nó mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại nhiều bản
ngã trong một bản ngã. Đó là những chủ thể phi trung tâm hóa.
Quan điểm mỹ học hậu hiện đại mang những đặc điểm như: xoá nhoà
ranh giới giữa nghệ thuật và đời sống thường ngày; phá bỏ những giai tầng
văn hoá quý phái và văn hoá đại chúng; phủ nhận tính chất nguyên thuỷ của
một tác phẩm nghệ thuật và cho rằng nghệ thuật cũng chỉ là một hiện tượng
lập lại; nhấn mạnh đến phong cách trộn lẫn giữa nhân vật và sự can thiệp của
chính tác giả vào tác phẩm; tính chất kết dính nhiều mảng kết cấu khác nhau

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

14


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

trong cùng một tác phẩm, tựa như một bức tranh khảm có nhiều chất liệu dị
biệt, là điều khá phổ biến trong các tác phẩm hậu hiện đại. Nghệ thuật hậu
hiện đại cũng có nhiều điểm tương đồng với quan niệm mỹ học hiện đại, như
sự soi rọi nội tâm, ý thức bản ngã, cách đoạn và không liên tục, tính đồng
diễn… Nhưng ngược lại, thái độ của chủ nghĩa hậu hiện đại trong mỹ học là
phi cấu trúc, phi tâm hoá và từ chối vai trò chủ thể của con người, một sự tiếp
nhận, mô tả hiện tượng không suy diễn, không chú ý đến chiều sâu, không
diễn dịch bản chất sự vật theo chủ quan tác giả; thay vào đó, tác giả cũng
tham gia vào một trò chơi ngoại biểu, tạo ra những đối kháng có tính chất mỉa
mai và châm biếm để người đọc tự tìm thấy trong tác phẩm và nếu cần tác giả
sẽ chủ động lôi kéo người đọc vào trò chơi đó.
Văn học lấy hiện thực cuộc sống làm chất liệu, làm đối tượng phản ánh
thì đứng trước những chuyển biến lớn lao to lớn đó tất yếu phải có những thao
tác làm mới mình trên tất cả mọi phương diện từ chủ đề, đề tài, nhân vật đến

cốt truyện,… đặc biệt trên phương diện thủ pháp nghệ thuật. Những cách tân
trên đã cho phép các nhà văn hậu hiện đại thể hiện sâu sắc sự đổ vỡ, sợ hãi,
mất thăng bằng của con người. Nhiều tác phẩm đi vào khám phá thế giới vô
thức ẩn phía sau lớp “mặt nạ nhân cách” mà xã hội trao cho. Sự cắt lớp, phân
tách những hiện tượng tinh thần phức tạp của con người theo chiều sâu tâm lý
ngày càng trở thành đề tài thú vị cho các nhà văn. Chính trong hoàn cảnh ấy,
những vấn đề tính dục, tha hóa, vấn đề hiện sinh hay kiểu nhân vật kiếm tìm
về với những giá trị nhân bản trở thành những hiện tượng văn học hấp dẫn và
độc đáo. Với văn học hậu hiện đại, lần đầu tiên, con người nhận ra mình một
cách chân chính nhất, trung thực nhất.
Haruki Murakami với những giải thưởng danh giá mà ông dành được
như: Giải thưởng Franz Kafka năm 2006 với tiểu thuyết Kafka bên bờ biển
(Murakami là người thứ 6 giành giải này), giải mà trước đó đã trao cho hai

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

15


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

nhà văn Nobel: Harold Pinter và Elfriede Jelinek. Năm 2007, ông vinh dự
được nhận giải thưởng Kiriyama dành cho Tiểu thuyết với tập truyện ngắn
Cây liễu mù, Người đàn bà ngủ,… giải thưởng này đã đưa ông trở thành nhà
văn đương đại Nhật Bản được đọc nhiều nhất trên thế giới hiện nay. Bởi “các
câu chuyện của ông đã tới lui thật dễ dàng giữa bề mặt hiện thực cuộc sống
vật chất của những cô cậu trẻ tuổi mang hoài bão và những nỗi kinh hoàng
của một trí tưởng tượng nhạy cảm. Đồ nghề của ông là một loại văn xuôi hiện
thực thẳng băng và cái mà anh có thể gọi là một thứ siêu hình học tâm lý”[20;
tr.2]

Steven Moore - The Washington Post khi bàn về nhà văn xứ sở Phù Tang
này đã nhận định rằng:“Ông đã làm ra những tiểu thuyết kỳ lạ, đậm chất triết
học và hậu hiện đại, khiến người ta đọc thì thích thú…”[20; tr.4]. Và thực sự,
qua hàng loạt các sáng tác của ông, người ta có thể chỉ ra rất nhiều yếu tố hậu
hiện đại trên các phương diện khác nhau kể cả về nội dung tư tưởng lẫn giá trị
thẩm mỹ. Con người mà Murakami theo đuổi trên từng trang sách, không gì
khác là con người của thời đại này, xuất hiện không hình hài nhưng với chiều
sâu bản thể xuất phát từ quan niệm của một nhà văn hậu hiện đại. Đọc
Murakami để trải qua cái kinh nghiệm lo ngại, lạc hướng, khiến anh cảm thấy
trống rỗng không thể tả nổi.
1.1.2.

Tâm thức Nhật Bản sau chiến tranh.

Là một quốc gia hải đảo hình vòng cung, nằm xoải theo bên sườn phía
đông lục địa Á châu, nhắc đến Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến những cái
tên diễm lệ như “đất nước mặt trời mọc”, “xứ sở hoa anh đào”, “đất nước hoa
cúc” hay “xứ sở Phù Tang”. Và song hành với nó là một dân tộc có nền văn
hóa đa dạng, phong phú và đặc sắc nhất là với Trà đạo (Chodò ), Kimono,
nghệ thuật vườn cảnh (Bonsai), kịch No hay Geisha,… Lịch sử Nhật Bản trải

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

16


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

qua các thời kỳ Nara, Heian, Ashikaga, Kamakura, Tokugawa, Minh Trị và
đến Nhật Bản hiện đại cũng như rất nhiều quốc gia khác, đều trải qua những

thời kỳ lịch sử đầy biến động, thăng trầm và mang đầy tâm thức dân tộc. Nhật
Bản còn được thế giới biết đến với tư cách là quốc gia dẫn đầu thế giới về
khoa học công nghệ và là một trong những nền kinh tế dẫn đầu toàn cầu.
Những bước chuyển mình thần kỳ từ cuộc duy tân đất nước theo hướng hiện
đại hóa từ thời Minh Trị (1867-1912) đã đưa Nhật Bản lên hàng những cường
quốc trên thế giới. Chính những thắng lợi ấy đã đưa đến những bất lợi trong
tâm trí người Nhật. Nó khắc sâu sự tự tin thái quá, niềm kiêu ngạo và coi
thường đối với những nước yếu hơn.
Việc đánh giá sai lầm về ý chí chiến đấu chống lại ngoại xâm của các dân
tộc khác cộng với lòng tin thái quá vào tinh thần bản địa của người Nhật;
những bài thuyết giảng về trật tự đạo đức mới ở Đông Á và một vùng rộng
lớn; chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa phát xít,… đã đưa đến sự bành
trướng của thuyết “Khu vực thịnh vượng chung đại Đông Á” ra toàn thế giới.
Bằng chứng cho điều này là sự can thiệp quân sự vào Trung Quốc năm 1931
đến cuộc chiến tranh Thái Bình Dương là thời của chủ nghĩa quân phiệt và
chủ nghĩa sô-vanh quyết liệt. Nhật Bản ra khỏi Hội quốc liên năm 1933 và rút
khỏi Hiệp định hạn chế hải quân năm 1934 và 1936. Trở thành đồng minh của
nước Đức Nazi và nước Ý phát xít năm 1940; tiếp theo là cuộc tấn công và
Trân Châu Cảng năm 1941,... Sự kết hợp ý nghĩa chính trị của một vị hoàng
đế được thần thành hóa, một hệ thống luật pháp cố kết với bộ luật “Duy trì trật
tự công cộng và cảnh sát chính trị” đã trấn áp có hiệu quả phải ly khai cấp tiến
thông qua việc bắt giam những người Macxit, những người cánh tả và sau này
là những người theo phái tự do, buộc những người không bị bắt giam phải bó
tay ngồi im và bóp nghẹt tự do ngôn luận.

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

17



Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

Tất cả đã đổ sụp khi chủ nghĩa phát xít vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ
của lực lượng Đồng Minh. Ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, hai quả bom đã
được Hoa Kỳ thả xuống Hiroshima và Nagasaki. Quân đội Liên Xô sau khi
kết thúc chiến tranh ở Đức đã tuyên bố chiến tranh với Nhật, và sau khi Mỹ
thả bom nguyên tử xuống Hiroshima đã tấn công Đạo quân Quan Đông của
Nhật đang đóng ở Mãn Châu ngày 9 tháng 8. Thấy rõ không thể cứu vãn
được, ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng không điều kiện.
Sáu năm và một ngày sau khi cuộc thế chiến bắt đầu, nước Nhật hiện đại đã
phải chứng kiến những ngày mà cả dân tộc rơi vào tình trạng buồn thảm của
một dân tộc bại trận. Đất nước bị tàn phá, xã hội tràn ngập tâm trạng thất vọng
và hoài nghi.
Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, bằng những chính sách phù hợp, một lý
trí đáng khâm phục người Nhật Bản đã từ những đống tro tàn để lại sau cuộc
chiến vươn lên thành cường quốc, trở thành bài học về ý chí và phẩm chất con
người. Tướng Douglas Mac Athur – tư lệnh tối cao của lực lượng Đồng Minh
tại tây nam Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ hai đã phải thốt
lên trong bài phát biểu của mình như sau: “Kể từ khi chiến tranh, nhân dân
Nhật Bản đã trải qua một cuộc cải tổ lớn lao nhất được ghi trong lịch sử hiện
đại. Bằng một lí trí đáng phục, sự hăng say học hỏi, khả năng hiểu biết đáng
ghi nhận, họ đã từ đống tro tàn để lại sau cuộc chiến vươn lên thành những
dinh thự đại diện cho sự siêu đẳng của tự do cá nhân và phẩm chất của con
người…” Thậm chí đến tận ngày nay, ở cái năm 2012 của thế kỷ XXI này, sau
thảm họa kép kinh hoàng do động đất và sóng thần gây ra, người ta vẫn nhìn
thấy một ý chí Nhật mạnh mẽ và quật cường gồng mình đứng dậy sau thảm
họa. Lại một lần nữa những bông hoa anh đào vẫn khoe sắc.

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.


18


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

Trở lại với Nhật Bản của những thập niên trước, đất nước Nhật Bản - cái
thân xác bề ngoài đã hoàn toàn tái sinh và trở lên rạng rỡ như ánh sáng của
mặt trời mọc. Thế nhưng, dân tộc Nhật Bản – cái phần hồn sâu thẳm kia, liệu
có thực sự hồi sinh? Sự thật là sau những bước dài trong lịch sử phát triển, trở
thành niềm ngưỡng mộ, là ước mơ cho những quốc gia khác, nhưng bên trong
cái quốc gia ấy, vẫn còn những nỗi đau âm ỉ không nguôi. Không còn nữa
những Samurai oai hùng, một thời trở thành niềm tự hào hay nói đúng hơn là
niềm kiêu ngạo của người dân Nhật Bản. Thay vào đó là hình ảnh ngày một
nhiều những thanh niên Nhật thực dụng, sùng bái vật chất, chối bỏ quá khứ.
Bên cạnh sự tự mãn, những chấn thương tâm lý xuất hiện, cả nước Nhật phổ
biến một tâm trạng vỡ mộng, chia cắt và hoang mang.
Như đã nói ở trên, xu hướng toàn cầu hóa ngày càng rõ nét, con người
không còn gặp trở ngại đáng kể về không gian, song mặt khác, sự sợ hãi trở
thành nô lệ cho máy móc và thời gian, nỗi ám ảnh hạt nhân hủy diệt cùng
hàng loạt các vấn đề khác đã làm nảy sinh một tâm thế mới. Tâm thế đó đã,
đang diễn ra mạnh mẽ ở xã hội Phương tây và đang lan rộng toàn thế giới.
Một nước Nhật mới với những chuyển biến trên tất cả các phương diện, Nhật
Bản cũng cuốn mình mạnh mẽ trong sự tiếp thu văn hóa Tây Âu. Xứ sở anh
đào cũng rộng lòng đón nhận văn hóa Tây phương một cách hồ hởi. Trong
một thời gian dài, người ta quên đi một Nhật Bản diễm lệ của trà đạo, Geisha
lao mình vào những vòng xoáy điên cuồng của đồng tiền, của Tây hóa,… Đến
lúc nào đó, người Nhật bừng tỉnh và thấy mình xa lạ với chính mình, chơi vơi
trong tâm thức. Những truyền thống xưa cũ không đủ sức hấp dẫn để níu chân
giới trẻ . Những vòng xoáy hiện đại lại trở nên quá ư hời hợt và vô nghĩa.

Tính thương mại có nghĩa là chấp nhận những giá trị bảo thủ đại chúng
cùng với tính duy cảm. Xã hội có quản lý, với việc tuyệt đối ưa chuộng sự

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

19


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

phồn thịnh kinh tế - đặc biệt là công nghiệp, đã thu hút sự chú ý của một số
nhà văn. Tâm thức ấy đi vào văn chương và như một sự tiếp nối sáng tạo nghệ
thuật. Các tác giả hướng vào các cá nhân bị cô độc, các nhóm thiểu số người
và tạo nên sự hoài nghi, phê phán toàn xã hội. Thái độ của các nhà văn này là
sự hoài niệm những ngày xưa cũ, mong tìm thấy một người Nhật thực sự sống
trong bầu không khí Nhật thực sự. Đó là thế giới của cố đô xưa với Trà đạo,
Geisha, kịch No hay thể thơ Haiku truyền thống.
Là một nhà văn, từ tiểu thuyết Sự thú tội của một chiếc mặt nạ (1949) đến
Kinkakuji (1956), Mishima không chỉ quan tâm đến việc làm cho tác phẩm
của mình bán chạy. Ý thức của ông về các giá trị, hoặc mỹ học hoặc chính trị,
không phải là ý thức của quần chúng trong một xã hội tăng trưởng cao. Để
hấp dẫn vài trăm ngàn độc giả, giá trị của tiểu thuyết phải được đồng nhất với
giá trị của quần chúng hay ít nhất phải gây cho quần chúng ấn tượng đó.
Nakazato Kaizan, Osaragi Jirò và Yoshikawa Eiji tất cả đều đã thực hiện điều
kiện này trong từng thời kỳ riêng của mình. Trong thời kỳ mở rộng kinh tế,
chính Shiba Ryòtarò (1923-) là người làm việc đó. Các nhân vật của Shiba
không còn là những kiếm khách dũng cảm ngày xưa nữa mà là các nhân vật
trí thức có thật trong đời sống xã hội với những khát khao kiếm tìm lý tưởng.
Người đọc học được một ít lịch sử qua những cuốn sách này.
Hoài niệm về những ngày trước đây được thể hiện một cách rõ ràng như

một phần của sự phê phán hệ thống xã hội. Các tiểu thuyết của Abe Kòbò
(1924- ) như Người đàn bà trong cồn cát, Khuôn mặt người khác,... thể hiện
nhất quán cái nhìn vê tình cảnh bị bỏ rơi của cá nhân nhân vật khi anh ta bị
dính líu và cuốn hút vào tổ chức, và cảm giác bất lực khi anh ta tìm cách
chống lại nó. Đây là hình ảnh của một con côn trùng bất lực đang rơi vào
chiếc bẫy. Ông miêu tả những khung cảnh kỳ ảo theo lối gần như phóng dụ,
với nỗi sợ hãi kỳ bí gợi nhớ đến Kafka.

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

20


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

Nhà văn đoạt giải Nobel văn học đầu tiên của Nhật Bản Y.Kawabata cũng
đã từng thoảng thốt rằng: “từ bây giờ tôi chỉ viết bi ca”, hay “Trong những lời
này có thể nhận thấy tư tưởng của Nhật Bản, hay đúng hơn của phương Đông
về Hư vô, Không tồn. Và trong những tác phẩm của tôi các nhà phê bình
cũng tìm thấy cái Hư vô đó. Nhưng cái Hư vô này hoàn toàn không phải là
cái mà người ta thường hiểu ở chủ chủ nghĩa hư vô (nihilism)” [75; tr. 975].
Trong tác phẩm của mình, Y.Kawabata đã xây dựng hình ảnh những lữ khách
kiếm tìm cái đẹp và chân lý của cuộc sống, của số phận con người. Theo chân
những cuộc hành trình ấy, người đọc luôn thấy các nhân vật của ông tìm đến
với những giá trị truyền thống của những cố đô xinh đẹp, những mĩ nữ geisha
duyên dáng trong bộ trang phục kimono với những vẻ đẹp trong sáng và đầy
bí ẩn… Có thể nói, Y.Kawabata đã vận dụng cả tài năng và trí tuệ của mình
trong việc phục sinh những nét truyền thống văn hóa Nhật Bản.
Theo sự tiếp nối của dòng chảy văn học, Haruki Murakami cũng xây
dựng cho mình một cuộc hành trình đầy thú vị và đa dạng thức của các nhân

vật những lữ khách. Nhưng điều khác biệt là các nhân vật Murakami không
phải là những lữ khách phiêu lẵng kiếm tìm vẻ đẹp tâm hồn trong văn hóa
truyền thống. Ngược lại họ dấn thân vào hành trình kiếm tìm bản thể trong cái
đa thể cô đơn, trong tâm trạng khát khao yêu đương trong những mối quan hệ
chằng chịt, khát khao nhục thể trong cuộc sống tình dục thác loạn và đi tìm sự
cứu rỗi trong tình yêu. Murakami trong một bài phỏng vấn đã thừa nhận rằng:
“Hồi tôi còn bé, nước Nhật còn nghèo, nhưng rất giàu lý tưởng. Điều đó bắt
đầu thay đổi vào thập niên 1960; một số người phất lên và quên ngay lý
tưởng của mình, trong khi những người khác đấu tranh để bảo vệ lý tưởng.
Nhiều người trong thế hệ tôi hồi đó rất quan tâm đến chính trị, và có một lúc
mọi thứ dường như đang thực sự thay đổi; người ta hứa hẹn, người ta lạc
quan. Thế rồi, rất nhanh chóng, tất cả đều tiêu biến. Những cuộc nổi dậy bị

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

21


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

cảnh sát đập tan; quần chúng trở nên bạc nhược. Toàn bộ cảm quan về một
cuộc nổi dậy phản văn hóa dường như đã cáo chung” [20; tr.550]. Vậy là
những con người đã từng dào dạt nhựa sống không biết bám víu vào đâu. Tinh
thần lý tưởng của mọi người đã bị mua đứt. Con người luôn cô đơn; mọi hàng
hóa tiêu thụ mà họ có không làm họ hạnh phúc, một nỗi buồn nhớ mênh mang
về những thập niên trước. Một nhân vật cô đơn trong cái xã hội to lớn, phức
tạp – xã hội thông tin và kim tiền. Đã đến lúc người ta cảm thấy một chiếc
Mercedes và một cái máy tính mới không làm họ hạnh phúc. Mọi người rút
vào yếm thế và đạo đức giả. Khi đó, sự kiếm tìm xuất hiện, người ta tìm
những gì người ta thiếu. Đó là tình yêu, bản ngã, tính dục, tình dục hay thậm

chí là cái chết để xác lập cảm giác xác thực về sự tồn tại,… Đấy mới thực sự
là là tâm thức của giới trẻ Nhật Bản luôn luôn kiếm tìm. Haruki Murakami đã
nắm bắt được “sự đau đớn phổ biến của trái tim và khối óc con người
đương thời” (Jay McInerney).
1.2. Tiền đề mỹ học, triết học.
1.2.1.

Triết học hiện sinh.

a. Sự hình thành chủ nghĩa hiện sinh.
Chủ nghĩa hiện sinh (Existentialism) là từ dùng để nói về nghiên cứu của
một nhóm các triết gia cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, những người mà tuy
khác nhau về học thuyết nhưng có chung niềm tin rằng tư duy triết học xuất
phát từ chủ thể con người - không chỉ là chủ thể tư duy, mà là cá thể sống,
cảm xúc, và hoạt động. Trong chủ nghĩa hiện sinh, xuất phát điểm của cá nhân
được đặc tả bởi cái từng được gọi là "thái độ hiện sinh" (the existential
attitude), hay một tình trạng mất định hướng và bối rối khi đứng trước một thế
giới có vẻ như vô nghĩa và phi lý. Nhiều nhà hiện sinh cũng đã coi triết học
hàn lâm hoặc triết học hệ thống truyền thống, ở cả phong cách cũng như nội
dung, là quá trừu tượng và tách biệt khỏi trải nghiệm cụ thể của con

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

22


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

người. Các triết gia hiện sinh khi dùng từ hiện sinh là họ muốn nói tới sự hiện
tồn của con người. Họ không quan tâm gì đến sự tồn tại của thế giới vật chất.

Khi đề cập đến sự hiện tồn của con người là họ muốn nói đến sự hiện hữu của
từng cá thể đặc thù, chứ không phải tất cả loài người. Vấn đề của con người,
trong cái nhìn của họ, là phải trở nên có ý thức đầy đủ về bản ngã chân thực
của mình trong hoàn cảnh đặc thù mà anh ta tìm thấy chính mình đang ở trong
đó. Vấn đề cơ bản này không thể giải quyết bằng tư duy thuần lý và những ý
tưởng trừu tượng về bản chất con người. Những qui luật phổ quát và những
khái niệm chung chung không thể minh giải nổi vấn đề của con người hoàn
toàn độc đáo, cụ thể, đặc thù. Không có những tiền lệ hay cẩm nang hướng
dẫn chúng ta trên con đường khó nhọc và đầy lo âu là trở thành chính mình.
Các nhà tư tưởng hiện sinh cho rằng thông qua “công trình” này, con người có
thể có được sự nhận thức sâu xa và chắc chắn về thực tại - cái mà các triết gia
truyền thống gọi là “hữu thể” - hơn bất kỳ phân tích lý lẽ trừu tượng, riêng lẻ
nào có thể mang lại. Chân lý chỉ có thể chiếm hữu được trong hoàn cảnh cá
nhân của hắn, chứ không bởi tư duy khách quan tách rời với cuộc hiện sinh
của nhà tư tưởng. Sứ mệnh trở thành bản ngã của chính mình đòi hỏi sự quyết
định, cam kết, “dấn thân”. Chính nhờ quyết định mà con người đạt tới sự hiện
hữu tự thức, chứ không đơn thuần nhờ những lý tưởng cao vời hay những ý
định tốt đẹp.
Thế kỉ 20 chứng kiến sự bùng nổ tri thức với sự phát triển siêu tốc của
các ngành khoa học, sức sản xuất cao hơn cả 19 thế kỉ trước cộng lại. Thế kỉ
20

cũng chứng kiến những biến động xã hội dữ dội nhất: Cuộc khủng hoảng

của CNTB và CNĐQ gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc, dẫn tới
tình trạng khủng hoảng tinh thần trầm trọng là những nguyên nhân trực tiếp
nhất làm bộc phát hàng loạt những phong trào phản kháng, phủ định trên bình
diện văn hóa nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời trong bối cảnh đó và là

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.


23


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

một trào lưu phát triển mạnh cả trong triết học và văn học mà Jean-Paul
Sartre, cùng với Albert Camus là những gương mặt lớn nhất, đại diện tiêu
biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh Pháp . Sự ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc
của J-P. Sartre và Albert Camus không chỉ bao trùm trong đất nước và thời đại
của họ mà còn lan tỏa khắp hành tinh cho đến ngày hôm nay.
Các tác phẩm của họ chú trọng vào các chủ đề như “nỗi sợ, sự buồn chán,
sự lạc lõng trong xã hội, sự phi lý, tự do, cam kết và hư vô” là nền tảng vững
chắc của sự hiện sinh con người. Năm 1938, hai tác phẩm La Nausée (Buồn
nôn), Le Mur (Bức tường), là những sáng tác đầu tiên của Jean-Paul Sartre và
cũng là những cuốn sách tiêu biểu cho dòng văn học phi lý, Jean-Paul Sartre
trở thành một trong những nhà văn hóa lớn nhất của nước Pháp thời kỳ này.
Con đường từ Heidegger (cha đẻ của khái niệm Hiện tượng học) đến Sartre là
một biến thể đặc biệt: đó là quá trình biến đổi từ Hiện tượng học sang triết học
hiện sinh mà Heidegger chỉ đóng vai trò bắc cầu. Nói cách khác, tư tưởng
Sartre nối tiếp và phát triển tư tưởng Heidegger. Điều này có thể do triết luận
của Heidegger trừu tượng trong khi cách trình bày của Sartre lại khá cụ thể.
Một vấn đề quan trọng là Sartre thể hiện tư tưởng ấy qua văn chương. Chính
vì thế chủ nghĩa hiện sinh nảy nở với tâm điểm là Sartre. Với Sartre, con
người hiện sinh có hai đặc điểm chính: một là con người tự tạo nên mình, làm
mình thành người; hai là để tạo nên mình con người lựa chọn tự do. Như vậy,
Husserl và Heidegger chỉ đặt ra một cái nhìn mới về chủ thể còn Sartre khẳng
định vai trò của chủ thể và con người tạo dựng cho thế giới những giá trị của
con người gán cho nó. Những vấn đề Sartre đặt ra để làm sáng tỏ thân phận
làm người, cụ thể là: Hữu thể là một thảm kịch, là phi lý, là hư vô; con người

luôn cô đơn và cái chết luôn hiện diện. Nhưng con người biết bất chấp cái
chết để nhập cuộc tự do làm nên lịch sử của mình bằng những dự phóng. Bên
cạnh đó, chính cuộc hiện sinh lại làm con người tha hóa vì tha nhân. Từ

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

24


Luận văn thạc sĩ – Phạm Thị Hạnh

những luận đề trên, Sartre đã mang đến cho văn chương một luồng sinh khí
mới. Từ quan niệm về tự do, Sartre đã cho rằng: “… niềm vui thẩm mỹ sinh
ra từ tầm mức ý thức của tôi khi tôi thu hồi và nội hiện các phi ngã cao nhất,
bởi vì tôi biến cái đạt ngay thành mệnh lệnh và làm cho nó nổi bật lên: thế
giới là nhiệm vụ của tôi, nghĩa là chức năng chủ yếu và tự nguyện ưng thuận
của niềm tự do của tôi chính thị là đem đến cho tồn tại đối tượng duy nhất và
tuyệt đối là vũ trụ trong một vận hành vô điều kiện”[58; tr.2]. Vậy sáng tạo
nghệ thuật không chỉ là con đường giải thoát khỏi hư vô mà sáng tạo còn là
cách thức cao nhất bộc lộ tự do cá nhân. Bên cạnh đó, khi con người phải tự
làm nên mình thì sáng tạo còn là sự trải nghiệm. Đó là “cốt yếu đối với sự
toàn vẹn của tồn tại” bởi đó là quá trình vừa khám phá thế giới vừa khám phá
bản thân vì người ta không có nhiều cuộc đời để sống. Cuộc vượt lên và giải
thoát đó vừa tạo nên giá trị văn chương vừa tạo nên giá trị nhân vị.
Xuất hiện sau J-P.Sartre bốn năm nhưng ngay lập tức tác phẩm của Albert
Camus ảnh hưởng rộng rãi và sâu sắc đến đời sống trí tuệ Châu Âu giai đoạn
sau Thế chiến Thứ 2. Đề tài trong sáng tác của ông là sự tha hóa và tồn tại phi
lí của đời người, kêu gọi con người tìm lối thoát trong tinh thần và hành động
tranh đấu chống bất công. Người xa lạ (1942) của Camus đã gây chấn động
đời sống văn học Pháp. Với ngôn ngữ trong sáng, biểu cảm, tác phẩm thể hiện

cảm xúc của cả một thế hệ trước câu hỏi về hệ thống giá trị của cuộc sống và
lòng khát khao tìm kiếm ý nghĩa cũng như mục đích của đời sống. Camus
cũng là đại diện tiêu biểu của kịch phi lí. Trong tiểu luận triết học Huyền
thoại Sisyphe (1942), Camus so sánh sự phi lí của tồn tại đời người với hành
động của Sisyphe trong thần thoại và đã phát triển thuyết đạo đức mới dưới
hình thức lí giải luận điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh về sự phi lí của tồn
tại. Sau chiến tranh, chủ nghĩa hiện sinh chi phối đời sống trí tuệ

Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết Rừng Na-uy của Haruki Murakami.

25


×