Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Tư tưởng v i lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.06 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRỊNH THU THẢO

TƢ TƢỞNG V.I.LÊNIN VỀ BÌNH ĐẲNG DÂN
TỘC VÀ SỰ VÂN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRỊNH THU THẢO

TƢ TƢỞNG V.I.LÊNIN VỀ BÌNH ĐẲNG DÂN
TỘC VÀ SỰ VÂN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa Xã hội Khoa học
Mã số: 60 22 03 08
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Mẫn Văn Mai

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của TS.Mẫn Văn Mai. Các tài liệu trong luận văn là trung thực,
bảo đảm tính khách quan và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Tác giả
Trịnh Thu Thảo


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Triết học đã giảng
dạy, trang bị kiến thức, giúp tôi nắm vững những vấn đề lý luận và phương
pháp luận để hoàn thành tốt luận văn này. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn
TS.Mẫn Văn Mai đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo để tôi hoàn thành tốt luận
văn.
Đồng thời, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã
luôn luôn quan tâm, động viên và đóng góp ý kiến trong quá trình hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Tác giả
Trịnh Thu Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................3
2. Tình hình nghiên cứu..................................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................8

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu............................. 9
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn..................................................9
7.Kết cấu của luận văn..................................................................................10
Chƣơng 1BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC VÀ TƢ TƢỞNG V.I.LÊNINVỀ
BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC.............................................................................. 11
1.1. Quan niệm về dân tộc và bình đẳng dân tộc........................................11
1.1.1. Dân tộc..................................................................................................11
1.1.2. Bình đẳng dân tộc................................................................................ 13
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của tƣ tƣởng V.I.Lênin về bình đẳng dân
tộc....................................................................................................................18
1.2.1. Cơ sở lý luận.........................................................................................18
1.2.2. Cơ sở thực tiễn..................................................................................... 24
1.3. Nội dung tƣ tƣởng V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc...........................31
1.3.1. Vị trí, vai trò của “Bình dẳng dân tộc”...............................................31
1.3.2. Nội dung của “Bình đẳng dân tộc”.....................................................34
1.3.3. Con đường thực hiện “Bình đẳng dân tộc”........................................42
1.3.4. Lực lượng thực hiện “Bình đẳng dân tộc”.........................................46
Chƣơng 2SỰ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG V.I.LÊNIN VỀ BÌNH ĐẲNG
DÂN TỘC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.....................................49
2.1. Đặc điểm tình hình dân tộc Việt Nam và nội dung vận dụng tƣ tƣởng

V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.................49
2.1.1. Đặc điểm tình hình dân tộc Việt Nam.................................................49
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc.................................... 54
1


2.1.3. Quan điểm, chính sách bình đẳng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam

vận dụng theo tư tưởng V.I.Lênin................................................................. 61

2.2. Thực trạng việc vận dụng tƣ tƣởng V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc ở
Việt Nam hiện nay.........................................................................................72
2.2.1. Thành tựu trong việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện
nay và nguyên nhân của thành tựu.............................................................. 72
2.2.2. Hạn chế trong việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay
và nguyên nhân của hạn chế.........................................................................83
2.3. Một số yêu cầu và giải pháp chủ yếu trong việc vận dụng tƣ tƣởng
V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay................................ 91
2.3.1. Yêu cầu mới trong vận dụng tư tưởng V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc
ở Việt Nam hiện nay.......................................................................................91
2.3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng thực hiện chính sách
bình đẳng dân tộc theo tư tưởng V.I.Lênin ở Việt Nam hiện nay................97
KẾT LUẬN..................................................................................................106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................108

2


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Vấn đề dân tộc là một nội dung có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã
hội chủ nghĩa và trong giai đoạn hiện nay nó đang là một vấn đề thực tiễn
nóng bỏng nhất. Thế giới ngày nay đang đứng trước những biến đổi nhanh
chóng và phức tạp, tác động mạnh mẽ đến xu hướng phát triển của nhân loại
và con đường đi lên của mỗi quốc gia dân tộc.Những biến đổi đó đã làm cho
mối quan hệ giữa các dân tộc lại càng phức tạp.
Bình đẳng dân tộc là một nguyên tắc, nội dung cơ bản trong giải quyết
vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin. Cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin đã để lại di sản tư tưởng phong phú về bình đẳng dân tộc. Đây là cơ
sở lý luận và phương pháp luận để các Đảng Cộng sản và Nhà nước Xã hội

Chủ nghĩa trên thế giới vận dụng vào điều kiện cụ thể trong giải quyết vấn đề
dân tộc. Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng V.I.Lênin về vấn đề dân tộc,
bình đẳng dân tộc, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết
vấn đề dân tộc, bình đẳng dân tộc phù hợp với đặc điểm dân tộc Việt Nam và
đạt hiệu quả trên thực tế.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em, các dân tộc
sống đan xen trên toàn bộ lãnh thổ cả nước, có quan hệ lâu đời trên nhiều lĩnh
vực trong quá trình tồn tại và phát triển. Phần lớn các dân tộc thiểu số sống ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo – những địa bàn có vị trí
chiến lược về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, môi trường sinh thái và
giao lưu quốc tế, song trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, vẫn có sự
chênh lệch về nhiều mặt. Nhận thức rõ vị thế đó, từ khi thành lập cho đến nay,
Đảng ta luôn coi trọng giải quyết vấn đề dân tộc, đặc biệt là thực hiện bình
đẳng giữa các dân tộc và coi đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nhân tố
quan trọng đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển.

3


Sau 30 năm đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo, các vùng dân tộc thiểu số nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện bình đẳng giữa
các dân tộc còn tồn tại một số hạn chế nhất định như: sự chênh lệch về trình
độ phát triển giữa các dân tộc, các vùng dân tộc, đặc biệt là giữa dân tộc thiểu
số và dân tộc đa số (Kinh), giữa miền núi với miền xuôi, vùng cao với vùng
thấp; đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn, chất
lượng, hiệu quả, công tác giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe của đồng bào
dân tộc còn thấp; việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc
thiểu số và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ công tác ở các vùng dân tộc còn
nhiều bất cập…Bên cạnh đó, trong nội bộ ta nhận thức về “bình đẳng” còn sai

lệch, cũ kỹ, giản đơn hoặc xem nhẹ, hoặc “cấp tiến Tây hóa”…đặc biệt là sự
kích động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, gắn với tôn giáo
để chống phá cách mạng, gây cản trở, nguy cơ chệch hướng, rối loạn cho chế
độ ta. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, tổ chức thực hiện tốt chính sách bình
đẳng dân tộc, từng bước khắc phục những hạn chế nêu trên có ý nghĩa vô
cùng quan trọng.
Trong suốt quá trình xây dựng và thực hiện chính sách bình đẳng dân
tộc, Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên
nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.Vì vậy, việc nghiên
cứu, làm rõ nội dung tư tưởng V.I.Lênin về vấn đề bình đẳng dân tộc không
chỉ là đòi hỏi trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài. Đó là một trong những cơ
sở lý luận quan trọng cho việc định ra đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước để giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, bình đẳng dân tộc ở
nước ta hiện nay.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn và nhận thức trên, tôi chọn đề tài
“Tư tưởng V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng của Đảng Cộng sản
Việt Nam giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
4


Có thể thấy, dân tộc và bình đẳng dân tộc là một trong những vấn đề hết
sức phức tạp và nhạy cảm, nó quyết định đến sự tồn vong của mỗi quốc gia, bởi
vậy không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới coi đó là vấn đề chiến
lược, là nhiệm vụ hàng đầu trong mục tiêu phát triển đất nước. Vì vậy, đã có
không ít những nhà lý luận, nhà lãnh đạo, nhà khoa học…nghiên cứu, tìm hiểu
vấn đề này và nhiều công trình nghiên cứu có giá trị đã ra đời như:

Tác phẩm Dân tộc và vấn đề dân tộc của tác giả Hồng Phúc dịch từ Đại
bách khoa toàn thư của Liên Xô, được Nhà xuất bản Sự thật in năm 1960 là

một tác phẩm mang tính chất kinh điển được lược trích lựa chọn những bài
viết liên quan trực tiếp đến vấn đề dân tộc của một số nhà tư tưởng lớn ở Liên
Xô thời đại Lênin. Tác phẩm đã trở thành một tài liệu quan trọng, tạo cơ sở lý
luận cho quá trình tiếp cận nghiên cứu các quan điểm của V.I. Lênin về vấn đề
dân tộc.
Cuốn sách Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay – vấn đề và giải pháp
(1996) của GS.TS.Trịnh Quốc Tuấn đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về bình đẳng dân tộc ở Việt Nam.Tác giả đã luận giải một số
khía cạnh nhận thức về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc, những vấn đề đặt
ra trong quá trình thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc ở vùng dân tộc, miền
núi nước ta. Trên cơ sở trình bày lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về bình đẳng dân tộc, đặc điểm dân tộc, quá trình lãnh đạo và tổ
chức thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam, tác giả đã đề xuất hệ thống
nhóm giải pháp thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta. Đây là những giải
pháp có thể tham khảo và vận dụng đối với từng vùng trong cả nước.
Trần Quang Nhiếp trong công trình Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam
hiện nay (1997) đã xác định những đặc điểm chủ yếu cũng như thực trạng của
quan hệ dân tộc ở Việt Nam; phân tích những yếu tố tác động đến sự phát triển
quan hệ dân tộc ở nước ta, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm củng cố, tăng
cường, phát triển mối quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta hiện nay.

5


Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ
dân tộc hiện nay (2001) của tập thể tác giả biên soạn do Phan Hữu Dật chủ
biên đã phân tích và đưa ra những nhận thức về mối quan hệ dân tộc, trình
bày quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc, quan hệ dân tộc, đồng thời khắc họa tổng quát sự xung đột dân tộc
đang diễn ra trên thế giới, từ đó đi vào vấn đề dân tộc ở Việt Nam.

Các tác giả Hoàng Đức Nghi với bài “Xóa đói giảm nghèo ở miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn” (2000) và Hà Quế Lâm với tác
phẩmXóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay – thực trạng
và giải pháp (2003) đã nghiên cứu vấn đề cơ bản của thực hiện bình đẳng dân
tộc ở nước ta là xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, miền núi và vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó, các tác giả đề cập khá rõ những giải pháp
nhằm đẩy nhanh quá trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo, đại đoàn kết trong cách
mạng Việt Nam (2003) của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân do nhiều tác giả
biên soạn đã tập trung làm rõ những tư tưởng cốt lõi nhất của Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc, giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc trong cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân.
Nguyễn Quốc Phẩm trong cuốn sách Công bằng và bình đẳng xã hội
trong quan hệ tộc người của các quốc gia đa tộc người (2006) đã phân tích rõ
quan điểm Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng, bình đẳng xã
hội từ góc độ dân tộc và quan hệ dân tộc, từ đó đưa ra đánh giá về những vấn
đề dân tộc và sự phát triển của các quốc gia dân tộc trong bối cảnh và xu thế
hiện nay của thế giới nói chung; về công bằng, bình đẳng và tăng cường hợp
tác giữa các tộc người ở các vùng dân tộc, miền núi Việt Nam nói riêng.
Trong đó, tác giả cũng phân tích một số yếu tố tác động đến việc thực hiện
công bằng, bình đẳng xã hội trong quan hệ tộc người ở nước ta hiện nay.
Trong cuốn sách Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các
dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay (2009) do
6


GS.TS.Hoàng Chí Bảo chủ biên, đã phân tích lý luận về dân tộc, quan hệ dân
tộc và chính sách dân tộc theo quan điểm đổi mới của Đảng; đánh giá thực
trạng, phát hiện các vấn đề quan hệ dân tộc – tộc người và thực hiện chính

sách dân tộc ở các vùng trọng điểm; đề xuất phương hướng, quan điểm, giải
pháp chung thực hiện bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc ở
nước ta.
Cuốn sách Tư tưởng của Lênin về quyền con người và giá trị thực tiễn

Việt Nam (2011) của hai tác giả Hoàng Mai Hương và Nguyễn Hồng
Hải đã
tập trung phân tích và làm rõ lý luận, quan điểm của V.I.Lênin về một số
quyền con người nổi bật – dân chủ, quyền dân tộc tự quyết, quyền chính trị và
những giá trị thực tiễn của những tư tưởng này ở Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách Hồ Chí Minh với con đường giải phóng dân tộc do Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2012. Nội dung cuốn sách tập
trung phân tích làm sáng tỏ bối cảnh lịch sử, mục đích và hành trình tìm
đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, quá trình truyền bá
Chủ nghĩa Mác – Lênin và vai trò của Người trong việc sáng lập và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa; phân tích những nội dung cốt lõi của con đường giải phóng dân tộc
– độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng của Người; tác
phẩm còn làm rõ những cống hiến vĩ đại của Người đối với cách mạng Việt
Nam và phong trào cách mạng thế giới. Trên cơ sở đó rút ra những bài học
kinh nghiệm, gợi mở những vấn đề thực tiễn nhằm kế thừa và phát triển sáng
tạo tư tưởng của Người trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu khác như Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc (1999) của tác giả Nguyễn
Thế Thắng; Một số vấn đề dân tộc và phát triển (2005) của tác giả Lê Ngọc
Thắng; Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc
ở Việt Nam (1999) của hai tác giả Nguyễn Quốc Phẩm và Trịnh Quốc Tuấn…
Nhìn chung, các công trình đã luận giải khá chi tiết quan điểm của chủ
7



nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc,
đồng thời làm rõ những đặc điểm của dân tộc Việt Nam, khái quát nội dung cơ
bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Qua đó, cung cấp cho
luận văn những nội dung cần thiết về vấn đề dân tộc, đặc biệt là quan hệ dân
tộc, bình đẳng dân tộc ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở phân tích những quan điểm cơ bản của V.I.Lênin về bình
đẳng dân tộc và sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện
bình đẳng dân tộc, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn tư
tưởng V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc ở nước ta giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn giải quyết một số nhiệm vụ sau:
Làm rõ một số khái niệm cơ bản: “dân tộc”, “bình đẳng dân
tộc”.
Phân tích những quan điểm cơ bản của V.I.Lênin về bình đẳng
dân tộc.

-

Phân tích, làm rõ nội dung và thực trạng sự vận dụng tư tưởng

V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
-

Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn tư tưởng V.I.Lênin

về bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay.
4.


Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu tư tưởng V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện
nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Trong giới hạn của một luận văn thạc sỹ, tác giả tiếp cận những nội
dung cơ bản trong tư tưởng của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc tập trung chủ
yếu trong “Cương lĩnh dân tộc” và một số tác phẩm tiêu biểu của V.I.Lênin
như: “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề


8


thuộc địa”, “Dự luật về quyền bình đẳng dân tộc và về việc bảo vệ quyền của
các dân tộc ít người”…; sự vận dụng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng từ năm 1986 (Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VI) đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về vấn đềdân tộc và bình đẳng dân tộc.
Ngoài ra, luận văn còn kế thừa có chọn lọc một số công trình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài.
Cơ sở thực tiễn:
Đặc điểm tình hình dân tộc trên thế giới và ở Việt Nam; thực tiễn vận

dụng tư tưởng V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam
và hoạt động thực hiện chính sách dân tộc nói chung và bình đẳng dân tộc nói
riêng ở nước ta trong các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp
cụ thể khác như so sánh, phân tích, tổng hợp, trong đó phương pháp kết hợp
lịch sử và logic là phương pháp nghiên cứu cơ bản.
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu làm rõ hơn tư tưởng V.I.Lênin
về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực
hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta.

9


Ý

nghĩa thực tiễn:

Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo vào việc nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến dân tộc và bình đẳng dân tộc cũng như trong việc
hoạch định chính sách bình đẳng dân tộc.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương và 6 tiết.

10



Chƣơng 1
BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC VÀ TƢ TƢỞNG V.I.LÊNIN
VỀ BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC
1.1. Quan niệm về dân tộc và bình đẳng dân tộc
1.1.1. Dân tộc
“Dân tộc” là một khái niệm phức tạp trong khoa học xã hội. Nó không
chỉ là đối tượng riêng của ngành dân tộc học mà còn được các ngành khoa học
khác như sử học, triết học, nhân học…nghiên cứu. Do vậy, khái niệm “dân
tộc” được hiểu rất đa nghĩa, đa cấp độ tùy theo nhận thức và cách tiếp cận của
mỗi người, mỗi ngành khoa học.
Ngày nay, các nhà khoa học đã tương đối thống nhất khái niệm “dân
tộc” được hiểu theo hai nghĩa chính:
Thứ nhất, dân tộc được hiểu là cộng đồng quốc gia – dân tộc, dùng để
chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ,
quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống
nhất của quốc gia mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lâu dài
dựng nước và giữ nước.
Theo nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia
dân tộc. Dân tộc thường được nhận biết qua những đặc trưng cơ bản sau:
Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế: đây là đặc trưng
quan
trọng nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các
thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.

- Có lãnh thổ chung: dân tộc là một cộng đồng người chung sống với
nhau lâu đời trên một vùng lãnh thổ ổn định. Mọi thành viên của dân tộc sống
trên lãnh thổ ấy gắn bó với nhau cùng lao động sản xuất để cùng tồn tại và

phát triển, đồng thời làm chủ không gian cư trú của mình.

11


-

Có một ngôn ngữ (quốc ngữ) giao tiếp chung: là phương tiện giao tiếp

giữa người với người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn
hóa, tinh thần…Ngôn ngữ thúc đẩy sự hình thành ý thức dân tộc. Tiếng nói,
chữ viết chung ấy được gọi là tiếng phổ thông và chữ quốc ngữ.
- Có nền văn hóa chung: biểu hiện kết tinh trong tâm lý dân tộc.
Thứ hai, dân tộc được hiểu theo nghĩa hẹp (tộc người): là một cộng
đồng người có chung nguồn gốc được hình thành và phát triển trong những
điều kiện lịch sử nhất định với những đặc trưng cơ bản:
bản

Cộng đồng về tiếng nói (tiếng mẹ đẻ): tiếng mẹ đẻ là tiêu chí cơ

để phân biệt các tộc người khác nhau, nó là phương tiện giao tiếp và gắn kết
các thành viên trong một cộng đồng tộc người thống nhất, nhờ đó mà văn hóa
tộc người được bảo tồn và phát triển. Trong quá trình hình thành và phát triển
của dân tộc – tộc người, sự bảo tồn và phát triển ngôn ngữ tộc người là một
đặc trưng quan trọng.
Cộng đồng về văn hóa: những đặc điểm chung về văn hóa hay
bản sắc
văn hóa tộc người cũng là tiêu chí quan trọng để xem xét, phân định một dân
tộc. Những biểu hiện cụ thể của văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần ở mỗi
dân tộc phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn

giáo của dân tộc đó. Ngày nay, cùng với xu thế giao lưu văn hóa vẫn song
song tồn tại xu thế bảo tồn và phát triển văn hóa của mỗi dân tộc.
Ý thức tự giác tộc người: đây là tiêu chí quan trọng nhất trong
các tiêu
chí xem xét, phân định một dân tộc. Đặc trưng nổi bật ở các dân tộc, tộc
người là luôn ý thức về dân tộc mình: từ nguồn gốc đến tộc danh. Đó cũng là
ý thức tự khẳng định sự hiện tồn và phát triển của dân tộc dù có nhiều tác
động hoặc thay đổi về địa bàn cư trú, lãnh thổ hay tác động ảnh hưởng của
giao lưu kinh tế, văn hóa…Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác tộc
người liên quan trực tiếp đến các yếu tố của ý thức dân tộc, tình cảm dân tộc,
tâm lý dân tộc. Tùy thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác


12


nhau ở mỗi dân tộc mà ý thức tự giác tộc người được biểu hiện sinh động và
đa dạng.
Ba tiêu chí vừa nêu trên đã tạo sự ổn định trong mỗi cộng đồng dân tộc
trong quá trình phát triển tộc người. Đây chính là căn cứ khoa học và thực tiễn
giúp xem xét và phân định các dân tộc ở nước ta – một quốc gia đa dân tộc
với sự xen kẽ cư dân các tộc người trên lãnh thổ đã hình thành từ lâu đời.
Mặc dù khái niệm “dân tộc” được hiểu theo hai nghĩa khác nhau nhưng
dân tộc – tộc người và dân tộc – quốc gia có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Bởi lẽ, dân tộc ra đời trong một quốc gia nhất định, thông thường thì những
nhân tố chín muồi hình thành tộc người không tách rời với sự chín muồi của
những nhân tố hình thành quốc gia, chúng bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau.
Trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt, dân tộc được định nghĩa như sau:
“Dân tộc. 1. Một cộng đồng người ổn định hình thành trong quá trình lịch sử
của xã hội, có chung tiếng nói, lãnh thổ, đời sống kinh tế và tâm lý: đoàn kết

dân tộc. 2. Dân tộc thiểu số, nói tắt: ưu tiên học sinh dân tộc, cán bộ dân tộc.
3. Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, một quốc gia gắn
bó với nhau trong truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi: dân tộc Việt Nam”
[78, tr.520].
Trong luận văn này, trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng V.I.Lênin về bình đẳng
dân tộc, tác giả tiếp cận khái niệm dân tộc theo nghĩa dân tộc – tộc người.

1.1.2. Bình đẳng dân tộc
* Bình đẳng:
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, con người luôn có nhu
cầu vươn tới sự bình đẳng trong quan hệ giữa người với người, giữa các nhóm
người, các dân tộc và giữa các quốc gia – dân tộc. “Bình đẳng” là một trong
những khái niệm phức tạp, được quan tâm ở tất cả các lĩnh vực. Do đó, có
nhiều quan niệm khác nhau về “bình đẳng”.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, khái niệm “bình đẳng được hiểu là sự
ngang bằng nhau về địa vị và quyền lợi” [78, tr.69].
13


Trong Từ điển Chủ nghĩa xã hội khoa học, bình đẳng được hiểu là
“những điều kiện và những khả năng như nhau đối với việc tự do phát triển
các năng lực và thỏa mãn các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội”
[75, tr.10].
Theo Từ điển Triết học, khái niệm bình đẳng phản ánh “vị trí như nhau
của con người trong xã hội nhưng cũng chỉ ra sự thay đổi về nội dung khái
niệm bình đẳng theo từng thời đại lịch sử và ở những giai cấp khác nhau” [76,
tr.43].
Theo đó, nội dung bình đẳng xã hội biến đổi theo không gian, thời gian,
nhất là trong xã hội có giai cấp, tính giai cấp chi phối sự bình đẳng xã hội.
Trong xã hội nguyên thủy, bình đẳng mang tính tự phát. Chuyển sang xã hội

chiếm hữu nô lệ, vấn đề bình đẳng và bất bình đẳng tồn tại song song với
nhau, bình đẳng nghiêng về giai cấp chủ nô và bất bình đẳng nghiêng về giai
cấp nô lệ. Trong xã hội phong kiến, vấn đề bất bình đẳng nổi lên, đó là sự bất
bình đẳng giữa hai chủ thể nông dân và các tầng lớp khác nhau của giai cấp
phong kiến. Xã hội tư bản chủ nghĩa bắt đầu thức tỉnh về quyền bình đẳng,
khao khát bình đẳng và đấu tranh cho sự bình đẳng; khẩu hiệu bình đẳng đã
đóng một vai trò tiến bộ trong thời kỳ đấu tranh cách mạng của giai cấp tư sản
chống sự bất bình đẳng của giai cấp phong kiến và chống chế độ phong kiến
nói chung. Nhưng sau khi giành được chính quyền, giai cấp tư sản lại chà đạp
lên chính khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” mà họ từng giương cao để
chống chế độ phong kiến. Khẩu hiệu ấy đã trở thành một phương tiện để lừa
phỉnh quần chúng bị áp bức.
Theo quan niệm tư sản, bình đẳng chỉ có nghĩa là sự bình đẳng của các
công dân trước pháp luật, trong khi vẫn duy trì tệ người bóc lột người, sự bất
bình đẳng về tài sản và về chính trị. Thậm chí, họ còn cho rằng: “bình đẳng là ai
cũng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu tài sản riêng” [76, tr.52]. Đó là
quan niệm phản động và không tưởng vì nó không bao hàm sự cần thiết phải thủ
tiêu giai cấp, thủ tiêu sự bất bình đẳng giai cấp và thủ tiêu chế độ bóc lột.
14


Chủ nghĩa Mác – Lênin xuất phát từ chỗ cho rằng, không thể có sự bình
đẳng nếu không thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xóa bỏ các giai
cấp bóc lột. Sự bình đẳng thực sự trong quan hệ đối với các tư liệu sản xuất
chỉ xuất hiện do sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa xã hội đã mở
ra điều kiện, khả năng thực tế thực hiện bình đẳng xã hội, song vẫn tồn tại
những tàn tích và biểu hiện bất bình đẳng xã hội trên nhiều phương diện, đó là
do trình độ phát triển chưa đầy đủ của nền sản xuất vật chất, còn những giai
cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, còn sự khác biệt giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, giữa thành thị và nông thôn, còn thực hiện nguyên tắc phân

phối theo số lượng và chất lượng lao động… Trong xã hội xã hội chủ nghĩa,
bình đẳng xã hội không có nghĩa là một sự san bằng nào đó đối với tất cả mọi
người, mà nó mở ra những khả năng vô hạn cho mỗi người tự do phát triển
năng lực, nhu cầu của mình. Đó là sự bình đẳng, mà trong đó “mọi người đều
sẽ có một địa vị như nhau trong xã hội, một quan hệ giống nhau đối với tư
liệu sản xuất, những điều kiện lao động và phân phối như nhau, đều sẽ tham
gia tích cực vào việc quản lý các công việc xã hội. Quan hệ hài hòa giữa cá
nhân và xã hội sẽ được xác lập trên cơ sở sự thống nhất giữa lợi ích xã hội và
lợi ích cá nhân” [75, tr.12].
Như vậy, bình đẳng là một phạm trù chính trị - xã hội, đều có nghĩa là
sự ngang bằng, sự ngang nhau giữa các cá nhân hay các nhóm xã hội về một
hay một số phương diện xã hội nhất định, sự ngang bằng nhau giữa các cá
nhân hay các nhóm xã hội về những quyền và nghĩa vụ công dân, về địa vị xã
hội, về cơ hội xã hội, về mức độ thỏa mãn những nhu cầu nhất định trong các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Từ những dẫn giải trên, có thể hiểu Bình đẳng là nhu cầu tự nhiên của
con người, là sự ngang nhau của các cá nhân và cộng đồng xã hội về quyền
lợi và nghĩa vụ, về cơ hội và điều kiện phát triển trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, không phân biệt thành phần, địa vị xã hội, được bảo đảm
bằng pháp luật, cơ chế, chính sách và được thể hiện trên thực tế.
15


* Bình đẳng dân tộc (tộc người):
Bình đẳng giữa các dân tộc là một nguyên tắc quan trọng trong quan hệ
dân tộc, gắn chặt với lợi ích, sự tồn tại, phát triển và ý thức dân tộc của các
dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc.
Bàn về bình đẳng dân tộc, các tác giả trong cuốn sách “Bình đẳng dân
tộc ở nước ta hiện nay – vấn đề và giải pháp” khẳng định: “Bình đẳng dân tộc
là kết quả của sự nỗ lực tự thân vươn lên trình độ tiến bộ của từng dân tộc;

đồng thời, một phần không kém quan trọng, đó cũng là kết quả giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa các dân tộc theo tinh thần xích lại gần nhau, hòa
hợp với nhau hơn nữa” [73, tr.28].
GS.TS.Phan Hữu Dật cho rằng: “Bình đẳng dân tộc là quyền ngang
nhau của mọi dân tộc, không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển,
màu da, chủng tộc. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được biểu hiện trong tất
cả mọi mặt của đời sống xã hội, được bảo đảm bằng pháp luật” [6, tr.713].
Bình đẳng dân tộc là một mặt của bình đẳng xã hội, đó là sự ngang
nhau về nghĩa vụ và quyền lợi, về cơ hội và điều kiện phát triển giữa các dân
tộc trong một quốc gia đa dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
không phân biệt đa số hay thiểu số, sắc tộc hay chủng tộc, lớn hay nhỏ, trình
độ phát triển cao hay thấp, chế độ kinh tế, chính trị khác nhau.
Bình đẳng dân tộc được thể hiện thông qua hệ thống cơ chế, chính sách
pháp luật của Đảng, Nhà nước và phải được thực hiện bằng các hoạt động
thực tiễn. Tuy nhiên, trong lịch sử trước đây và hiện nay, sự chênh lệch về
trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí và chất lượng cuộc sống
của các dân tộc là một thực tế, do vậy vẫn tồn tại sự bất bình đẳng.
Thực hiện bình đẳng dân tộc là nội dung quan trọng trong giải quyết
vấn đề dân tộc. Đảng Chính trị, Nhà nước phải có các chính sách hỗ trợ các

16


dân tộc thiểu số, khắc phục sự thiệt thòi về điều kiện, cơ hội phát triển của họ,
từ đó mới thực hiện thành công sự bình đẳng giữa các dân tộc.
Mặt khác, bình đẳng dân tộc chỉ được thực hiện trên cơ sở xóa bỏ áp
bức, bóc lột giữa giai cấp này với giai cấp khác, dân tộc này với dân tộc khác,
sự tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc, xây dựng khối đoàn kết giữa các dân
tộc, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội, an sinh xã hội, chính sách xã hội đúng đắn. Đồng thời phải đẩy lùi,

loại bỏ mọi quan điểm, hành vi kỳ thị dân tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan,
dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa sô vanh, tư tưởng dân tộc lớn, sự tự trị, mặc cảm
dân tộc; ban hành và thực hiện tốt chính sách dân tộc.
Như vậy, có thể hiểu Bình đẳng dân tộc là sự ngang bằng nhau và
không bị phân biệt đối xử giữa các tộc người trong một quốc gia dân tộc về
quyền, lợi ích, nghĩa vụ, trách nhiệm, cống hiến, hưởng thụ…về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội và các quan hệ xã hội, được bảo đảm bằng pháp luật, cơ
chế, chính sách và hoạt động thực tiễn, trong điều kiện lịch sử nhất định.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, các dân tộc trong cộng đồng quốc
gia Việt Nam vốn có truyền thống đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng có
quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong cuộc đấu tranh chung để bảo vệ và xây
dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực chất của
bình đẳng dân tộc ở nước ta là các dân tộc cùng đoàn kết thực hiện mục tiêu:
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bình đẳng dân
tộc là một trong những quyền cơ bản, một nguyên tắc trong quan hệ giữa các
dân tộc nước ta. Đó là sự ngang nhau hợp lý trong quan hệ giữa các dân tộc về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, được bảo đảm bằng pháp luật và từng bước
được thực hiện ngày càng đầy đủ trên thực tế.
Bình đẳng dân tộc không chỉ bao hàm việc tạo cơ hội, điều kiện phát
triển của bản thân mỗi dân tộc mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển

17


chung của toàn xã hội. Đồng thời, bình đẳng dân tộc là nguyên tắc, mục tiêu,
nội dung chủ yếu trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Theo đó, bình đẳng dân tộc ở Việt Nam là sự ngang nhau hợp lý về
quyền và nghĩa vụ, về cơ hội và điều kiện phát triển trên các lĩnh vực đời
sống xã hội giữa các dân tộc ở Việt Nam, không phân biệt dân tộc đa số hay

thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp, nguồn gốc dân tộc và địa vực cư
trú, được bảo đảm bằng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước
và thực hiện trong cuộc sống.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của tƣ tƣởng V.I.Lênin về bình đẳng
dân tộc
1.2.1. Cơ sở lý luận
Quan điểm Chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc và bình đẳng dân tộc
Vấn đề dân tộc là một vấn đề quan trọng đượcC. Mác và Ph. Ăngghen
đặc biệt chú ý trong quá trình xây dựng học thuyết của mình. Đối với hai ông,
vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc luôn gắn liền với lợi ích của giai
cấp công nhân và sự nghiệp giải phóng nhân loại.
Các ông cho rằng, dân tộc là hình thức cộng đồng phát triển sau bộ tộc.
Cũng như bộ tộc, dân tộc là cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp,
Nhà nước và các thể chế chính trị. Mặc dù trong các tác phẩm của mình, Mác
– Ăngghen không đưa ra định nghĩa về dân tộc, song các ông đã nêu ra những
vấn đề có tính quy luật trong sự hình thành và phát triển của dân tộc.
Khi phân tích quá trình phát triển từ thị tộc lên bộ lạc, liên minh bộ lạc
thành dân tộc, C.Mác từng nêu lên quyền bình đẳng giữa các bộ lạc như là
quyền tự nhiên vốn có: “Liên minh vĩnh viễn của năm bộ lạc cùng dòng máu
với nhau được xây dựng trên cơ sở quyền bình đẳng và độc lập hoàn toàn của
mỗi bộ lạc về mọi vấn đề trong nội bộ của bộ lạc” [54, tr.144]. Bình đẳng về
xã hội như là một quyền của công dân, của cư dân các thị tộc, bộ lạc, bộ tộc,
dân tộc. Từ đó quyền bình đẳng giữa các dân tộc cũng là quyền tự nhiên.

18


Nhưng do sự xuất hiện của chế độ chiếm hữu tư nhân, xuất hiện các giai cấp
bóc lột đã xâm phạm đến công bằng, tự do của các dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu thực chất của vấn đề công bằng, bình

đẳng giữa các dân tộc chỉ được thực hiện khi thủ tiêu mọi áp bức giai cấp, coi
đó như là điều kiện chế ước cho công bằng, bình đẳng dân tộc. Các ông đã chỉ
rõ: “Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn
nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc đồng thời cũng mất theo” [50, tr.624]. Từ
đó, các ông khẳng định: “Hãy xóa bỏ tình trạng bóc lột người thì tình trạng
dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ” [50, tr.624].
C.Mác từng phê phán các quan điểm mơ hồ theo kiểu Latxan về “thủ
tiêu mọi sự bất bình đẳng về xã hội và chính trị”. Theo ông thì “thay vào cái
câu kết luận mơ hồ ở cuối đoạn là: “thủ tiêu mọi sự bất bình đẳng về xã hội và
chính trị” thì đáng lẽ phải nói là: cùng với việc thủ tiêu những sự khác biệt
giai cấp thì mọi sự bất bình đẳng về xã hội và chính trị bắt nguồn từ những sự
khác biệt giai cấp đó, tự chúng cũng không còn nữa” [52, tr.43 – 44].
Bàn về bình đẳng dân tộc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luôn gắn với bình
đẳng giữa người với người, gắn với quyền tự do. Trong tác phẩm Chống
Đuyrinh, Ph.Ăngghen từng nêu một luận điểm nổi tiếng về quyền bình đẳng
giữa các dân tộc, phải được tuyên bố là những “quyền con người”, mang tính
chất chung và vượt ra ngoài khuôn khổ của một quốc gia: “Trong một hệ
thống những quốc gia độc lập, quan hệ với nhau trên một cơ sở bình đẳng và

vào một trình độ phát triển tư sản xấp xỉ ngang nhau, cho nên lẽ dĩ
nhiên là
yêu sách về bình đẳng phải mang một tính chất chung, vượt ra ngoài ranh giới
của một quốc gia riêng biệt, là tự do và bình đẳng phải được tuyên bố là
những quyền của con người” [53, tr.153].
Theo quan điểm của Ph.Ăngghen, quyền bình đẳng dân tộc phải đặt
trong quan hệ với quyền tự do, bình đẳng, gắn với nhân quyền. Bình đẳng dân
tộc không thể có được trong xã hội tư bản, bởi tại đó chủ nghĩa dân tộc tư sản
là bạn đồng hành của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
19



×