Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tổng quan về thương mại quốc tế và lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.67 KB, 14 trang )

Tổng quan về thương mại quốc tế và lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia

1.1. Tổng quan về thương mại quốc tế
1.1.1. Khái quát chung về thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế được hiểu theo nghĩa chung là các hoạt động trao đổi
luân chuyển hàng hóa dịch vụ giữa các quốc gia vùng lãnh thổ với nhau. Các
chủ thể của thương mại hiện nay đang ngày càng đa dạng. Các chủ thể lớn có
thể từ các chủ thể là các quốc gia, các vùng lãnh thổ tới các tổ chức đa quốc gia,
các công ty các tập đoàn đa quốc gia. Các chủ thể nhỏ hơn nằm trong lãnh thổ
một quốc gia có thể là các tổ chức kinh tế trong nước như các công ty, các xí
nghiệp… Đối tượng của thương mại cũng ngày càng đa dạng và phức tạp, có
thể là các hàng hóa hữu hình hoặc các hàng hóa vô hình. Về mặt pháp lý, các
hiệp ước,các công ước, các điều lệ về thương mại nhanh chóng được soạn thảo
nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý chung cho các hoạt động thương mại quốc tế.
Chúng ta có thể nêu tên một số sự kiện pháp lý quan trọng với nền thương mại
toàn cầu như sự ra đời của hiệp ước chung về thuế quan và thương mại GATT
năm 1948, sự thành lập tổ chức Thương mại Quốc tế WTO năm 1995. Các khu
vực mậu dịch tự do cũng nhanh chóng ra đời như EEC ( nay là EU ) ở châu Âu,
khối NAFTA ở bắc Mỹ, khối ASEAN ở đông nam Á… đã góp phần tạo điều
kiện cho trao đổi thương mại giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi. Theo cùng
những diễn biến đó, về mặt lượng, tổng giá trị trao đổi thương mại của giữa các
quốc gia trên thế giới cũng tăng lên nhanh chóng. Chỉ tính riêng trong thời gian
từ năm 1970 tới 1999, tổng giá trị hàng hóa dịch vụ trao đổi của các quốc gia
tăng lên 21 lần, từ 643 tỷ USD lên 11.400 tỷ USD ( gấp 21 lần trong vòng 30
năm ), bất chấp nhưng khó khăn chồng chất với nền kinh tế thế giới như cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1973 hay tình trạng chiến tranh lạnh căng
thẳng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ…Tốc độ tăng trưởng của trao đổi thương mại
quốc tế cũng thường xuyên cao hơn tốc độ tăng trưởng nền kinh tế thế giới.
Trong giai đoạn 2000 tới 2007, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới chỉ



giao động quanh khoảng 2,5% tới 4% thì tốc độ tăng trưởng của thương mại thế
giới thường trên 7%.
Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, một trong những
động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới chính là sự phát
triển mạnh mẽ của nền thương mại quốc tế. Không thể phủ nhận một thực tế
rằng, nền sản xuất của các quốc gia trên thế giới hiện nay hoạt động không chỉ
đề phục vụ nhu cầu nội địa mà một phần vô cùng quan trọng chính là phục vụ
cho nhu cầu của thế giới, đặc biệt là đối với các nền kinh tế có độ mở cửa cao.
Một ví dụ điển hình là Hoa Kỳ. Biểu đồ sau cho ta biết bao nhiêu phần trăm giá
trị sản lượng của Hoa Kỳ và thế giới là trực tiếp phục vụ cho xuất khẩu.
Hình 1.1.1.1: Tỷ lệ phần trăm hàng hóa xuất khẩu trong GNP của Hoa kỳ và Thế giới

Không có số liệu dự báo cho thương mại thế giới năm 2025
Nguồn: World Bank, World Development Indicators 1999 and WEFA Forecast, 2000
Số liệu từ: World and US forecast GDP source info.


Một ví dụ khác là Trung Quốc, quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới hiện nay.
Theo số liệu thống kê của chính phủ nước này, tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu trong
GDP đã không ngừng tăng lên từ 1978 tới nay. Ta cùng xem xét biểu đồ sau
Hình1.1.1.2:Tương quan giũa kim ngach xuất nhập khẩu so với GDP Trung Quốc giai đoạn
1978 tới 2006

Nguồn số liệu: Tổng cục thống kê Trung Quốc

Rõ ràng, thương mại quốc tế đang ngày càng phát triển hơn và ngày cang quan
trọng hơn.Chính nhờ nhu cầu về hàng hóa của thế giới ngày càng tăng nên nền
sản xuất của các quốc gia mới được có cơ hội mở rộng và tăng sản lượng, tạo
công ăn việc làm cho người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Có thể nói,
thương mại chính là một trong những động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng

kinh tế, cũng như thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Xét về các chủ thể trong nền thương mại thế giới, không thể không nhắc
tới Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Eu – những chủ thể lớn nhất trong nền
thương mại toàn cầu. Các chủ thể trên cũng là nơi phát sinh phần lớn nhu cầu
hàng hóa và phần lớn nguồn cung cho hoạt động thương mại. Hay nói một cách
khác, các chủ thể trên chính là các cực đẩy và cực hút trong nền thương mại
quốc tế. Biểu đồ sau cho thấy vai trò to lớn của các chủ thể này trong nền
thương mại toàn cầu thông qua tỷ trọng thương mại trong cơ cấu thương mại
của thế giới.
Hình 1.1.1.3: Tỷ trọng tổng kim ngạch thương mại một số quốc gia trong thương mại thế giới


Nguồn: Ngân hàng thế giới ADB 2008

Qua đồ thị trên, ta thấy tổng giá trị thương mại của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật
Bản và một số nước trong liên minh châu Âu EU đã chiếm tới gần 80% tổng giá
trị của thương mại toàn cầu. Trong khi đó, xét về quy mô dân số, các quốc gia
trên chỉ chiếm khoảng 30% dân số thế giới. Rõ ràng, thương mại quốc tế cũng
có những đầu tàu của riêng nó và cũng dựa trên đồ thị trên, ta thấy rõ ràng một
xu thế đó là đóng góp vào thương mại toàn cầu của các nướcphát triển đang có
xu hướng giảm dần về mặt tương đối, điển hình là Hoa Kỳ. Trong khi đó vai trò
của Trung Quốc đang nổi lên rõ rệt, Năm 2009, Trung Quốc đã vượt Đức vương
lên trở thành quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới với tổng giá trị xuất khẩu đạt
trên 1200 tỷ USD, Cũng cùng năm này, Trung Quốc trở thành quốc gia đứng
thứ 2 thế giới về tổng kim ngạch thương mại. Rõ ràng, đang có sự đổi ngôi
trong top những nước có nền thương mại phát triển nhất thế giới và sự vươn lên
của Trung Quốc dường như là không có gì ngăn cản nổi.
1.1.2. Thương mại đối với các nước đang phát triển
Gần đây, bộ phận không nhỏ người dân trên thế giới đang phản đối những
mặt trái của xu thế toàn cầu hóa và nhất thể hóa nền kinh tế thế giới. Họ cho



rằng chính sự tự do thương mại bị chi phối bởi các nước giàu là một trong
những nhân tố chính gây nên mặt trái của toàn cầu hóa và do đó cực lực phản
đối quá trình tự do hóa thương mại hiện nay. Điển hình là tại diễn đàn kinh tế
thế giới Davos tháng 1 năm 2009 tại Geneve, những người biểu tình từ khắp nới
trên thế giới đã liên tục mít tinh phản đối tự do hóa thương mại và cho rằng: tự
do hóa thương mại chỉ mang lại lợi ích cho những nước giàu, phần thua thiệt và
nghèo đói sẽ thuộc về những nước đang phát triển. Thực tế, không chỉ những
người biểu tình mà còn rất nhiều người khác phản đối một nền thương mại “tự
do” bị các nước lớn chi phối. Bi quan hơn, một bộ phận người dân thế giới thậm
chí phản đối cả tự do hóa thương mại. Quan điểm của họ liệu có hoàn toàn
đúng?
Đầu tiên, chúng ta phải khẳng định rằng, tham gia thương mại quốc tế là con
đường đi lên đúng đắn cho các nước đang phát triển
Chúng ta đều biết rằng các nước đang và chậm phát triển là những quốc gia
nghèo trên thế giới và dễ tổn thương nhất trong khi tham gia thương mại. Sự bất
hợp lý về cơ cấu ngành kinh tế, sự lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ chính
là những yếu tố chính tạo nên tính dễ tổn thương của các nền kinh tế trên. Tuy
nhiên, sâu xa hơn mà nói, chính sự thiếu quyết đoán của các nước đó khi tham
gia vào sân chơi chung – nền thương mại toàn cầu – mới là nguyên nhân cơ bản
nhất. Vào những năm 50 của thế kỷ trước, Hàn Quốc, Malaysia là những quốc
gia mới thoát khỏi ách đô họ của ngoại bang, nền kinh tế với xuất phát điểm rất
thấp ( thực tế là không hơn gì so với nước thế giới thứ 3 ). Tuy nhiên điểm khác
biệt cơ bản là ngày nay, 2 nước đó đã trở thành những nước có trình độ phát
triển khá trên thế giới, Hàn Quốc thậm chí vươn lên trở thành nước công nghiệp
mới ( NIC ), trong khi các nước khác của thế giới thứ 3 tiếp tục lấn sâu vào con
đường tụt hậu. Liệu có phải tự do hóa thương mại đã làm cho các nước nghèo
tiếp tục nghèo thêm? Thực tế, Hàn Quốc hay Malaysia là hai quốc gia có mức
độ mở cửa kinh tế từ rất sớm và cũng là một trong những quốc gia “nhiệt tình”



nhất khi tham gia vào thương mại toàn cầu. Sau hơn 50 năm tham gia vào nền
thương mại tự do mà nhiều người cho là bất công ấy, họ đã thành công trong
việc phát triển đất nước mình. Một bài học thực tế rút ra là, chính những nước
không dám tham gia vào thương mại toàn cầu, hoặc tham gia với mức độ
“khiêm tốn”, hạn chế mới là những quốc gia nghèo nàn lạc hậu và yếu kém
nhất. Tất nhiên là khi tham gia cuộc chơi mang tên International Trade, khi bắt
tay với các nước giàu, các nước nghèo thường sẽ bị thua thiệt hoặc bất lợi trên
một số khía cạnh nào đấy, nhưng thực tế đã là cuộc chơi thì sẽ có rủi ro – vấn đề
chỉ là ở chỗ – nước đó có dám tham gia không và tham gia như thế nào mà thôi.
Khi tham gia sâu rộng vào nền thương mại toàn cầu vốn đang ngày càng
tự do hóa, các nước nghèo vẫn sẽ là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất mặc
dù thế giới cũng đã có những ưu đãi nhất định cho họ như các ưu đãi về thuế
quan; về nguồn gốc xuất xứ hàng hóa… Bên cạnh đó,, không thể phủ nhận rằng
các nước nghèo bao giờ cũng có những lợi thế của “người đi sau”. Rất nhiều
quốc gia đã thực sự vươn lên và từng bước thoát nghèo. Những bài học như Hàn
Quốc, Malaysia đang ngày một dài thêm. Thế giới ngày càng xuất hiện nhiều
“ngôi sao” đang lên như Việt Nam, Braxin, Ấn Độ và đặc biệt là Trung Quốc.
1.1.3. Thương mại đối với sự phát triển của Trung Quốc
Trong những bài học thành công khi tham gia thương mai quốc tế, không
thể không nhắc tới Trung Quốc. Trước cải cách và mở cửa nền kinh tế năm
1979, Trung Quốc là một quốc gia nghèo đói và đứng trước nhiều nguy cơ bấn
ổn chính trị. Sau hơn 30 năm, công cuôc cải cách của Trung Quốc có thể đánh
giá là tương đối thành công với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân rất cao,
khoảng 10%/năm. Quy mô nền kinh tế Trung Quốc đã gấp nhiều lần so với
trước mở cửa. Bên cạnh đó, quy mô của nền ngoại thương Trung Quốc cũng có
bước tiến thần kỳ. Giá trị xuất khẩu từ 9.75 tỷ USD năm 1978 tăng lên 1218.6
tỷ USD năm 2007.



Nghiên cứu sâu hơn về sự phụ thuộc của GDP vào kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa Trung Quốc, ta thiếp lập hàm số biểu thị sự phụ thuộc của GDP vào 3 yếu
tố, trong đó giá trị xuất khẩu chỉ là một biến. Các biến đó là
-

Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI được thực hiện ( biến INV )
Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa dịch vụ ( biến EX )
Tổng chi tiêu chính phủ ( biến GX )

Chọn hàm số là dạng mũ như sau:
GDP = C*GXβ1*INVβ2*EXβ3
Loga hóa hai vế ta được
Ln(GDP) = Ln(C) + β1*Ln(GX) + β2*Ln(INV) + β3*Ln(EX)
Với số liệu thu thập được từ năm 1978 tới 2007 gồm 30 quan sát, ta có bảng số
liệu sau



Nguồn số liệu: Taiwan Institute of Economic Research - Chinese Taipei APEC Study
Center (CTASC)
Website www.ctasc.org.tw

Tiến hành hồi quy bằng phần mềm Eview 4.0, ta được bảng kết quả sau:

Eview Report 12/02/2010 No213/3
Dependent Variable: LOG(GDP)
Method: Least Squares
Date: 03/20/10 Time: 06:21
Sample(adjusted): 1983 2007

Included observations: 25 after adjusting endpoints
Variable
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
C
2.597149173710
0.1022857481670
25.3911147961
3.02571156147e-17
LOG(GX)
0.322235876111
0.1005933692360

Từ kết quả trên ta thấy mô hình hồi quy và hàm hồi quy đều phù hợp; kết quả
hoàn toàn hợp lý về mặt toán học với sai số cho phép là 5%.
Thực hiện một số các kiểm định khác như về sự phù hợp của hàm hồi quy, tự
tương quan, phương sai sai số thay đổi… cho thấy hàm hồi quy trên phù hợp về
mặt toán học.
Về mặt kinh tế, ta rút ra một số kết luận:


-

Tổng của β1+ β2 + β3 = 0.93 < 1 : Theo mô hình hồi quy trên thì sản
lượng của nền kinh tế Trung Quốc không tăng trưởng hiệu quả nếu chỉ

-


tăng 3 đại lượng trên.
Trong 3 yếu tố là chi tiêu chính phủ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu
thì GDP Trung Quốc phụ thuộc nhiều nhất vào chi tiêu chính phủ.
Điều này phù hợp với nghiên cứu của nhiều học giả khi kết luận rằng
chi tiêu công ở Trung Quốc đóng vai trò cực kỳ quan trọng tới sự tăng
trưởng của nền kinh tế vì nó đã dẫn dắt và định hướng cho phát triển
kinh tế ở Trung Quốc, tạo dựng phần lớn cơ sở hạ tầng và tạo niềm tin

-

cho các nhà đầu tư.
Yếu tố xuất khẩu là nhân tố đáng chú ý nhất trong toàn bộ hoạt động
thương mại của Trung Quốc. Trong hơn 30 năm trở lại đây, Trung
Quốc thường xuyên xuất siêu và thặng dư thương mại ngày càng tăng.
Xuất khẩu không chỉ là một bộ phận của thương mại mà còn được
xem là một nhân tố quan trọng đối với sự gia tăng sản lượng cho nền
kinh tế. Kết quả hồi quy cho thấy đúng là GDP của Trung Quốc phụ
thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu nhưng nếu mở rộng biến số EX
ra cho cả hoạt động nhập khẩu, tức là kinh ngạch xuất nhập khẩu, thì
sản lượng của nền kinh tế Trung Quốc sẽ phụ thuộc nhiều hơn nữa vào
biến số này.

Từ đó ta kết luận rằng, sử dụng mô hình dạng hàm mũ

GDP

=

C*GXβ1*INVβ2*EXβ3
Cho kết quả là GDP phụ thuộc rất nhiều vào giá trị xuất khẩu vì chênh lệch

tuyệt đối về số mũ của cả ba biến chính đều không nhiều, trong khi đó xuất
khẩu trong 30 quan sát là đại lượng thay đổi nhiều nhất. Do đó có thể kết luận
một cách tương đối rằng GDP của Trung Quốc phụ thuộc hết sức chặt chẽ vào
hoạt động xuất khẩu.


Đi sâu hơn một bước nữa, ta tìm hiểu về thực trạng của nền sản xuất và
xuất khẩu của Trung Quốc, ta thấy rằng hàng hóa Trung Quốc có lợi thế so sánh
rất lớn trước hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh. Nhân tố làm nên 80% sức
cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc chính là yếu tố giá rẻ. Hàng hóa Trung
Quốc thực sự quá rẻ tới mức người tiêu dùng không thể tưởng tượng nó sẽ rẻ
như thế và người bán tất nhiên cũng không thể làm ngơ về khoản lời kếch xù
khi bán những loại hàng hóa “Made in China”. Cả thế giới dường như quay
cuồng trong cơn bão hàng giá rẻ của Trung Quốc; các phương tiện truyền thông
cũng thường xuyên đưa tin về việc hàng hóa Trung Quốc chiếm lĩnh thành công
thị trường ở một quốc gia nào đó như Việt Nam, Yemen… Trung Quốc đã từng
bước vươn lên vững chắc và trở thành công xưởng của thế giới. Do đó, nếu
nghiên cứu nắm bắt được những kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc trong
việc sản xuất và đặc biệt là bán hàng giá rẻ thì có thể nói ta đã giải mã một phần
quan trọng nhân tố trong sự thành công của nền kinh tế của quốc gia đông dân
nhất hành tinh này, đồng thời rút ra những bài hoc kinh nghiệm cho các nước đi
sau học tập và áp dụng
1.2. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia và áp dụng với trường hợp Trung
Quốc
M.Porter, tên đầy đủ Michael Eugene Porter, là giáo sư trường đại học
Havard. Ơng là mợt trong những nhà kinh tế nổi tiếng nhất trên thế giới và là
cha đẻ của lý thuyết “Lợi thế cạnh tranh quốc gia”. Đây là lý thuyết được nhiều
quốc gia xem xét,vận dụng và tỏ ra rất hiệu quả trong thực tiên. Phần viết dưới
đây sẽ trình bày một số nội dung chính của lý thuyết và áp dụng phân tích cho
trường hợp của Trung Quốc. Lý thuyết này cũng sẽ được vận dụng xuyên suốt

bài viết để giải thích lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc trong vấn đề sản xuất và
bán hàng giá rẻ.
“Lợi thế cạnh tranh quốc gia” thực chất là một lý thuyết kinh tế hiện đại
bắt nguồn từ lý thuyết lợi thế so sánh. Trong điều kiện toàn cầu hóa và nhất thể


hóa nền kinh tế thế giới hiện nay, mỗi quốc gia đều trở thành một chủ thể của
nền kinh tế thế giới và vai trò của quốc gia, theo quan điểm của Porter, ngày
càng trở nên quan trọng hơn chứ không hề giảm đi. Khi các công ty ra sức cạnh
tranh với các đối thủ, vai trò của quốc gia với tư cách là chủ thể chính cung cấp
các lợi thế, môi trường và điều kiện phát triển doanh nghiệp sẽ càng rõ ràng và
quan trọng hơn. Cuộc cạnh tranh toàn cầu đã khiến không một quốc gia, một
chính phủ nào có thể đứng ngoài cuộc. Và như một lẽ tất yếu, muốn giành thắng
được trong cuộc cạnh tranh đó, quốc gia phải ý thức được về những lợi thế của
mình và cách thức để tự mình tao ra những lợi thế. Porter viết
“…khơng một quốc gia nào có thể hay sẽ có khả năng cạnh tranh tại mọi hay
thậm chí phần lớn các ngành. Cuối cùng, các nước thành cơng trong các ngành
cụ thể bởi vì mơi trường nội địa của các nước đó hướng về tương lai nhất, năng
động nhất và thách thức nhất...” chiến thắng của mỗi quốc gia, khi đó, có thể
được minh chứng bằng các lĩnh vực, các ngành sản xuất mà quốc đó thành
công.
Nội dung cơ bản của lý thuyết của Porter có thể được minh họa ngắn gọn qua sơ
đồ sau


Bốn yếu tố quan chủ đạo làm nên lợi thế cạnh tranh của một quốc gia gồm: các
điều kiện nhân tố sản xuất, các điều kiện cầu, cơ cấu, chiến lược và sự cạnh
tranh của các công ty,các ngành hỗ trợ và liên quan. Ngoài ra, hai nhân tố có vai
trò thúc đẩy và tác động gian tiếp tới lợi thế cạnh tranh quốc gia bao gồm: chính
phủ, các thời cơ/cơ hội.

Ta biết rằng, một ngành sản xuất muốn tồn tại và phát triển trước hết phải có các
nhân tố sản xuất ( đầu vào ). Các nhân tố sản xuất bao gồm lao động, nguyên
nhiên liệu,đất đai, vốn, khoa học kỹ thuật… nếu các yếu tố đầu vào càng thuận
lợi, bảo đảm và ổn định bao nhiêu thì sản xuất sẽ càng có điều kiện cạnh tranh
bấy nhiêu và ngược lại. Thứ hai là các điều kiện về nhu cầu. Sản xuất bao giờ
cũng sẽ có đầu ra và hoạt động sản xuất đó muốn tồn tại được thì tất yếu đầu ra
của nó phải được thị trường chấp nhận và tiêu thụ. Nếu không có cầu thì chắc
chắn quá trình sản xuất đó sẽ bị gián đoạn và không có tái sản xuất, ngành sản
xuất đó sẽ không tồn tại. Thứ ba là chiến lược, cơ cấu và sự cạnh tranh của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp, bản thân nó là người đứng ra tổ chức quá trình sản


xuất và bảo đảm tái sản xuất được thực hiện. Sự tồn tại của doanh nghiệp gắn
liền với quá trình sản xuất và các vòng quay của tái sản xuất được lặp đi lặp lại.
Nếu bản thân doanh nghiệp không thể bảo đảm về cơ cấu, đề ra các chiến lược,
và thực hành cạnh tranh với đối thủ, nó sẽ bị loại khỏi nền kinh tế. Hay nói đơn
giản hơn, nó phải tự chăm sóc lấy sức khỏe cho mình trong khi cố gắng vận
hành cỗ máy tái sản xuất. Thứ tư là các ngành hộ trợ và có liên quan. Doanh
nghiệp muốn bảo đảm quá trình tái sản xuất diễn ra bình thường thì ngoài ba
yếu tó trên nó còn cần sự hỗ trợ từ bên ngoài ( các yếu tố hỗ trợ theo cơ chế thị
trường ). Các ngành phụ trợ hoặc có liên quan bảo đảm cho đầu ra, đầu vào và
sự vận hành của cỗ máy doanh nghiệp diễn ra thông suốt và thuận lợi. Do đó, nó
cũng được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên sức cạnh
tranh cho doanh nghiệp. Ngoài bốn yếu tố chính kể trên, chính phủ với vai trò là
đại diện cho lợi ích của quôcs gia và các ngành/các doanh nghiệp sản xuất là
một chủ thể rất quan trọng. Vai trò lớn nhất của chính phủ được thể hiện rõ nhất
trên các chính sách, biện pháp quản lý vĩ mô và do đó chính phủ có thể tác động
lên cả bốn yếu tố chính. Trong lý thuyết của Porter cũng đề cập tới các cơ hội
như một phần làm nên lợi thế cạnh tranh cho dù đó là yếu tố phi thị trường và
gần như con người không thể chủ động tạo ra được. Cơ hội thường chỉ mang tín

chất ngắn hạn và ngâu nhiên mà thôi.
Một ngành sản xuất thường bao gồm nhiều doanh nghiệp. Bản thân các doanh
nghiệp riêng lẻ nếu có được lợi thế cạnh tranh thì nghành đó, với tư cách là tổng
thể, cũng có lợi thế cạnh tranh. Nếu ngành đó có được các lợi thế cạnh tranh, thì
quốc gia gia đó cũng sẽ có lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực của ngành đó.
Các phân tích tiếp theo sẽ phân tích lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc so với
các quốc gia khác, biểu hiện là sự lớn mạnh của nền thương mại nói chung và
xuất khẩu nói riêng. Lơi thế cạnh tranh lơn nhất của hàng hóa Trung Quốc là
yếu tố giá rẻ. Nó là kết quả của việc Trung Quốc đã nâng cao được lợi thế cạnh
tranh của mình trên một loạt các lĩnh vưc. Mô hình của M.Porter có thể giải


thích hoàn toàn hợp lý cho trường hợp Trung Quốc. Trung Quốc có được cả tất
cả các nhân tố trên. Họ có các điều kiện các yếu tố đầu vào ( trình bày ở phần 1
Mục II ). Họ có điều kiện cầu ( được đề cập ở chương III ). Họ cũng có các
nhân tố liên quan tới cơ cấu, chiến lược, cạnh tranh ( chủ yếu đề cập ở phần
2,3,4 mục II ). Các ngành phụ trợ cũng được đề cập tới ở phần 1 mục II). Ngoài
ra, vai trò của chính phủ cũng như các cơ hội đến với nền sản Trung Quốc sẽ
được đề cập đan xen ở tất cả các phần và sẽ được khái quát ở chương IV.



×