Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Cơ sở lý thuyết về cho vay tiêu dùng tại NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.37 KB, 16 trang )

Cơ sở lý thuyết về cho vay tiêu dùng tại NHTM
1.1 Hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1 Khái niệm về NHTM
NHTM là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng
bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính
nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số
lượng các ngân hàng. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
- xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu
nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng còn là tổ chức cho
vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước.
Chính vì tầm quan trọng của ngân hàng mà hầu hết mọi người đều muốn hiểu về ngân
hàng trước hết là một khái niệm đầy đủ, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng,
các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế, vấn đề là các yếu tố trên đang
không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính, bao gồm cả các công ty kinh doanh
chức khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch
vụ của ngân hàng và ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất
động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và
thực hiện nhiều dịch vụ môi giới khác. Các tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ
chức này trên phương diện những loại hình mà chúng cung cấp:”Ngân hàng là loại hình tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng,
tiết kiêm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều dịch vụ tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu. Ví
dụ, luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân
hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền
gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp.
Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có
nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả, đặc biệt là trong điều kiện danh mục
dịch vụ của ngân hàng đang ngày càng mở rộng đến mức đôi khi ngân hàng còn được gọi là
bách hoá tài chính.


1.1.2.1 Mua bán ngoại tệ.
Đây có thể coi là một trong những loại hình dịch vụ mà ngân hàng thực hiện đầu tiên
ngay từ khi nó được hình thành trong lịch sử. Các ngân hàng mua, bán một loại tiền này lấy
một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
1.1.2.2 Nhận tiền gửi.
Các ngân hàng không chỉ hoạt động dựa vào vốn tự có của mình mà các ngân hàng còn
tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi
thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ
người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các
khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng cho
việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để
kinh doanh.
1.1.2.3 Cho vay
 Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay với
những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau
đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua
hàng dự trữ nhằm mở rộng sản suất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ
gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia
tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới
người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng
tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tang trưởng nhanh nhất ở các nước
có nền kinh tế phát triển.
Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên
năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành công
nghệ kỹ thuật cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất,
1.1.2.4 Bảo quản tài sản hộ

Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho
khách hàng trong két (vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ những
tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với
nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như
mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ.
1.1.2.5 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ thực hiện bảo quản mà còn
thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán
không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần đến ngân hàng để lấy tiền mặt mà chỉ cần
viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện
ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã
góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng
mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn.
Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với
sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi,
nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ…
1.1.2.6 Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp, cá nhân. Nhờ
đó, ngân hàng thường có mỗi liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có nhiều kinh nghiệm
trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cho khách hàng
dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý thu chi cho một công ty kinh
doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín
dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.1.2.7 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm
chú ý của Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ,
Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính
phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp
giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính
sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chinh phủ

theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
1.1.2.8 Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm
giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong
những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng
thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành
chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
1.1.2.9 Cho thuê thiết bị trung và dài hạn(Leasing)
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản suất
và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp
đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị,
máy móc cần thiết, thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó các ngân hàng mua thiết bị và cho
khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản
cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp
vào tín dụng trung dài hạn.
1.1.2.10 Cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý
tài chính. Vì vậy nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý
tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác
phát hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong
di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng công bố các tài sản, bảo quản các tài
sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân
hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp.
1.1.2.11 Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách
hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu
bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái
phiếu và các loại chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp ngân hàng tổ chức ra công ty
chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán.

1.1.2.12 Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo
việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hoặc gặp rủi ro trong hoạt động,
mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo
hiểm con , ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết
kiệm hưu trí.
1.1.2.13 Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng
ở khắp nơi. Nhiều ngân hàng (thường là ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ đại lý cho các ngân
hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối
trong đồng tài trợ…
1.2 Hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTM.
1.2.1 Khái niệm về cho vay tiêu dùng.
Trên thực tế, cho vay tiêu dùng có thể được hiểu một cách rất đơn giản là hoạt động cho
vay của ngân hàng đối với cá nhân và hộ gia đình nhằm mục đích tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng
hoá, nhưng các ngân hàng đã liên tục phát triển và trở thành những tổ chức cung cấp tín dụng
chính trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Một
trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho ngân hàng có được vị trí thống trị trên lĩnh vực này
là ngân hàng đã không ngừng khai thác nguồn tiền gửi của dân cư và coi đây là nguồn vốn hoạt
động quan trọng nhất.
Hơn nữa, theo một số nghiên cứu gần đây thì tín dụng tiêu dùng thường là một trong
những khoản mục tài sản mang lại nhiều nhất cho các ngân hàng. Đến ngày nay các ngân hàng
đang ngày càng tập trung 1 tỷ lệ ngày càng lớn nguồn vốn vào lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Tuy
nhiên dịch vụ cho vay mà ngân hàng cung cấp cho người tiêu dùng có thể là một trong những
dịch vụ mang chi phí cao nhất với nhiều rủi ro nhất đối với ngân hàng vì tình hình tài chính của
các cá nhân và hộ gia đình có thể thay đổi nhanh chóng tuỷ vào tình trạng công việc và sức
khoẻ của họ. Chính vì lý do đó mà các khoản cho vay tiêu dùng phải được quản lý chặt chẽ và
linh hoạt trước những vấn đề có liên quan.
Đặc điểm cho vay tiêu dùng.

Từ trước đến nay, cho vay tiêu dùng vẫn được các ngân hàng coi là khoản mục mang lại
lợi nhuận khá cao với lãi suất “cứng nhắc”. Điều đó có nghĩa là nó đủ để bù đắp chi phí huy
động vốn của ngân hàng, không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay với lãi
suất thay đổi theo điều kiện thị trường, như vậy với cho vay tiêu dùng ngân hàng phải chịu rủi
ro về lãi suất khi chi phí huy động vốn tăng lên. Tuy nhiên, các khoản vay này thường được
định giá rất cao (vì đã bao hàm một phần bù rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi suất vay
vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản tín
dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận.
Vậy tại sao các khoản tiêu dùng lại mang lãi suất cao? Một lý do chính đã được lý giải là
vì các khoản mục cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất và rủi ro cao nhất trong danh mục cho
vay của ngân hàng. Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ. Nó tăng lên trong thời kỳ
nền kinh tế mở rộng,khi mà người dân cảm thấy lạc quan về tương lai. Ngược lại, khi nền kinh
tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình cảm thấy không tin tưởng nhất là khi họ
thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn chế việc mượn từ ngân hàng.
Hơn nữa khi vay tiền, người tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất. Người tiêu
dùng quan tâm đến khoản tiền họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất (mặc dù rõ ràng chính lãi
suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến quy mô số tiền được trả). Trong khi lãi suất không phải
là một trong những yếu tố quan trọng mà hộ gia đình vay tiền quan tâm thì mức thu nhập và
trình độ dân trí lại tác động rất lớn đến việc sử dụng các khoản tiền vay của người tiêu dùng.
Những người có thu nhập cao có xu hướng vay nhiều hơn so với mức thu nhập hàng năm của
mình. Những gia đình mà người chủ gia đình hay người tạo thu nhập chính có học vấn cao
cũng vậy. Với họ, việc vay mượn là một công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn
là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình trạng khẩn cấp.
1.2.3 Những loại hình cho vay tiêu dùng.
Trong khi số lượng các loại tín dụng tiêu dùng đang ngày càng tăng nhanh thì các loại
hình cũng ngày càng đa dạng, việc phân loại cho vay tiêu dùng cũng có rất nhiều cách. Với mỗi
tiêu thức sẽ đem lại một cách phân chia, chẳng hạn:
1.2.3.1 Phân loại cho vay tiêu dùng dựa vào mục đích (tiền vay sẽ được
dùng vào việc gì).
Cho vay tiêu dùng cư trú.

Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng
hay cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân và hộ gia đình.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú.
Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản vay nhằm tài trợ cho việc trang trải các chi phí
mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí gia đình, giải trí, du lịch,y tế...
1.2.3.2 Phân loại theo hình thức thanh toán (như loại cho vay đó sẽ
được thanh toán làm nhiều lần hay thanh toán một lần khi đến hạn).
 Cho vay tiêu dùng trả góp.
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả các khoản tiền bằng nhau
(bao gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn
cho va. Phương thức này thường được áp dụng cho những món vay có giá trị lớn hoặc thu nhập
định kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán một lần vay.
 Cho vay tiêu dùng trả một lần khi đến hạn.
Cho vay tiêu dùng phi trả góp là phương thức mà tiền vay sẽ được thanh toán cho khách
hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thông thường các khoản vay này có thời hạn nhỏ và thời gian
không dài.
 Cho vay tiêu dùng tuần hoàn.
Theo phương thức này, ngân hàng sẽ cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc
phát hành séc thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai, trong thời gian tín dụng được thoả thuận
trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập dự kiến từng kỳ. Khách hàng được ngân hàng
cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ, một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín
dụng.
1.2.3.3 Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Khách hàng có thể bảo đảm bằng nhiều loại tài sản khác nhau, có thể bảo đảm bằng
chính tài sản hình thành từ vốn vay của ngân hàng hoặc bảo đảm bằng uy tín của mình.
Bảo đảm bằng tài sản thuộc sở hữu hay sử dụng lâu dài của khách hàng.
 Cho vay cầm cố.
Đây là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay với điều kiện là khách hàng phải chuyển
quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Danh mục và
điều kiện của tài sản cầm cố được ngân hàng quy định cụ thể dựa trên quy định của pháp luật

và chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Các tài sản cầm cố là các tài sản mà ngân hàng có
thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc nắm giữ không ảnh hưởng đến
quy trình hoạt động của khách hàng, chẳng hạn như: các loại giấy tờ có giá, kim loại quý,
ngoại tệ mạnh…
 Cho vay thế chấp.
Trong hình thức cho vay này, người vay phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở
hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời hạn đã cam
kết.
Đối với thế chấp bằng tài sản thì những tài sản mang thế chấp thường là bất động sản
như nhà cửa, quyền sử dụng đất… hoặc là những động sản mà việc nắm giữ nó không thuận
tiện như ô tô, xe máy… Việc thế chấp bằng tài sản cho phép người nhận tài trợ tiếp tục được
sử dụng tài sản trong thời gian vay, tuy nhiên quá trình sử dụng có thể làm biến dạng tài sản,
hơn nữa khả năng kiểm soát tài sản đảm bảo của ngân hàng bị hạn chế. Việc định giá tài sản
đảm bảo cũng là một khó khăn đòi hỏi phải có sự thẩm định kỹ lưỡng, tránh định giá quá cao
gây thiệt hại cho ngân hàng hoặc định giá quá thấp gây ảnh hưởng đến khả năng vay của khách
hàng. Tuy nhiên đối với cho vay tiêu dùng thì tài sản đảm bảo cũng không quá lớn như nhà
xưởng, dây chuyền sản xuất… như đối với cho vay kinh doanh.
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản đó
không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng thì ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng sử
dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng làm vật đảm bảo. Chẳng
hạn khách hàng vay tiền mua ô tô, ngân hàng có thể yêu cầu lấy chính chiếc ô tô đó làm vật
bảo đảm, khi khách hàng không có khả năng hoàn trả thì ngân hàng sẽ phát mại ô tô đó để thu
nợ. Để đảm bảo rằng khách hàng sẽ không bán hoặc sử dụng không cẩn thận, làm giảm giá trị
của tài sản, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải cam kết bảo quản tài sản, mua bảo
hiểm và người thụ hưởng là ngân hàng đồng thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở hữu tài sản cho
ngân hàng.
1.2.3.4 Phân loại theo phương thức cho vay
Cho vay gián tiếp
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho vay thông qua

những công ty bán lẻ, hội, tổ hợp tác… loại hình này không đòi hỏi ngân hàng phải tiếp xúc
trực tiếp với khách hàng. Ưu điểm của loại hình này là dễ dàng cho phép tăng doanh số cho
vay tiêu dùng, tiết kiệm hơn, giảm được chi phí cho vay, mở rộng quan hệ với khách hàng và
các tổ chức khác đồng thời có sự bảo đảm của tổ chức nên cũng khá an toàn… Nhưng nó cũng
có nhiều hạn chế như khó kiểm soát được khách hàng do không được tiếp xúc trực tiếp với họ,
không tiến hành thẩm định được đối với từng khách hàng trước khi cho vay…

×