Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ THUỘC NGÀNH CÔNG NGHỆP ĐIỆN TỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.09 KB, 23 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ VÀ CÔNG
NGHIỆP PHỤ TRỢ THUỘC NGÀNH CÔNG NGHỆP ĐIỆN TỬ
******************
1.1. Những lý luận cơ bản về công nghiệp phụ trợ
1.1.1. Khái niệm về công nghiệp phụ trợ
Khái niệm về công nghiệp phụ trợ (hay công nghiệp hỗ trợ) đã bắt đầu
xuất hiện từ những năm 1960 ở Nhật Bản, xuất phát ban đầu từ cách thức tổ
chức sản xuất của người Nhật trong qúa trình xây dựng các mắt xích chuyên
môn hóa của từng công đoạn sản xuất các sản phẩm và dịch vụ công nghiệp. Ở
các nước khác nhau, tùy theo tình hình cụ thể và đặc thù của từng quốc gia khái
niệm về công nghiệp phụ trợ hiện cũng chưa rõ ràng và có những sự khác biệt
nhất định.
Trong thế kỷ 20, các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các ngành công
nghiệp thường được tổ chức theo các cách thức như sau:
 Cách thức thứ nhất: mô hình tích hợp – liên kết theo chiều dọc của công nghệ
sản xuất.
Theo cách này thì trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh sẽ có sự
tập trung kiểm soát từ khâu đầu đến khâu cuối cùng, nghĩa là từ sản xuất nguyên
liệu đầu vào cho đến khi tiêu thụ các sản phẩm tiêu dùng cuối cùng, trong đó
việc kiểm soát bao trùm tất cả các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh như:
kiểm soát giá cả, kiểm soát chất lượng sản phẩm, kiểm soát công nghệ, kiểm
soát khối lượng sản xuất và tiêu thụ...
Đây là mô hình tổ chức truyền thống và rất phổ biến ở hầu hết các ngành
công nghiệp và dịch vụ trong thế kỷ 20, từ đó đã tạo nên những tổ chức, tập
đoàn sản xuất công nghiệp lớn trên thế giới.
 Cách thức thứ hai: phân chia quá trình sản xuất thành nhiều công đoạn.
Đây là cách mà các nhà lắp ráp không sở hữu các bộ phận sản xuất, cung
cấp nguyện liệu thô hay các vật tư, linh kiện, sản phẩm trung gian cấu thành của
quá trình sản xuất kinh doanh hoặc các công đoạn thương mại tiêu thụ các sản
phẩm cuối cùng. Các nguồn lực sẽ được tập trung vào một số khâu hay công
đoạn chủ yếu mà các nhà sản xuất có thế mạnh nhằm nâng cao khả năng cạnh


tranh, bảo vệ các bản quyền sở hữu công nghiệp và phát triển thị trường. Các
yếu tố đầu vào của doanh nghiệp sẽ được cung cấp bởi các đơn vị ngoài hệ
thống doanh nghiệp đó, những đơn vị này được coi là những tổ chức thầu phụ
của doanh nghiệp (hay còn gọi là tổ chức vệ tinh của doanh nghiệp).
Liên kết theo kiểu này hiện nay ngày càng phát triển cả về chất và về
lượng. Hình thức tổ chức này được gọi là tổ chức thầu phụ (vệ tinh) hay hướng
thị trường.
 Cách thức thứ ba: tổ chức sản xuất kinh doanh mạng toàn cầu (global
network)
Trong vài thập kỷ gần đây, sự tác động của quá trình tự do hóa thương
mại ngày càng diễn ra mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin,
các hoạt động kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của công
nghệ thông tin, các hoạt động kinh tế ngày càng mang tính chất toàn cầu, điều
đó đã hình thành nên các tập đoàn đa quốc gia hoạt động trên thị trường toàn
cầu.
Trong mạng lưới sản xuất kinh doanh theo kiểu này, một tập đoàn sẽ nắm
giữ vai trò trung tâm kiểm soát và điều phối các luồng hàng hóa và thông tin giữ
vô số các công ty độc lập nhằm đáp ứng yêu cầu thị trường một cách hiệu quả
nhất.
Nhận thấy, hai cách thức tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh thứ hai
và thứ ba dẫn đến quá trình sản xuất kin doanh một loại sản phẩm hàng hóa nào
đó được phân chia thành rất nhiều công đoạn và phân đoạn, do vậy số lượng các
tổ chức sản xuất kinh doanh hoạt động với tư cách độc lập (hoặc cùng là thành
viên cấu thành của tổ chức nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình) tham gia
vào các công đoạn của cùng một quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng nhiều.
Tổ chức chủ đạo với vai trò tạo cung có tác động thúc đẩy các tổ chức
khác hoạt động trong các công đoạn đầu ra còn ở vai trò tạo cầu có tác động lôi
kéo và thu hút các tổ chức khác hoạt động trong các công đoạn đầu vào của sản
phẩm cuối cùng. Tác động của các tổ chức cấu thành hoạt động trong từng công
đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh tới tổ chức chủ đạo cũng giống như vậy

nhưng theo chiều ngược lại. Mặt khác, hoạt động của các tổ chức cấu thành
không chỉ hỗ trợ riêng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức chủ đạo
nào đó, mà còn có thể hỗ trợ thêm cho các hoạt động của tổ chức sản xuất kinh
doanh khác có liên quan. Một cách tổng thể, những tổ chức nắm giữ vai trò chủ
đạo trong quá trình sản xuất kinh doanh trên có thể chỉ nắm giữ vai trò là các tổ
chức hoạt động trong các phân ngành của một ngành công nghiệp nào đó.
Mô hình sản xuất thứ hai và thứ ba thường phát triển ở khu vực Đông Á,
đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, rồi gần đây là Trung Quốc và khu
vực ASEAN.
Nếu xét về tỷ lệ giá trị gia tăng trong nội bộ tổ chức thì thông thường tổ
chức nào có mức độ sản xuất tích hợp theo chiều dọc cao (cách thức một) thì có
giá trị gia tăng nội bộ cao hơn so với chiều ngang (cách thức hai, ba).
Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận hiệu quả của xu hướng tổ chức tổ
chức sản xuất tích hợp theo chiều ngang vì cách thức này dựa trên sự phân công
hợp tác sản xuất chặt chẽ, có mức độ chuyên môn hóa sâu, hoạt động và sử
dụng hiệu quả nhiều nguồn lực từ tổ chức bên ngoài tổ chức chủ đạo, có khả
năng xử lý linh hoạt các biến động của thị trường, thay đổi mẫu mã nhanh với
chi phí giá thành thấp có khả năng cạnh tranh cao trong bối cảnh hội nhập, tự do
hóa thương mại mạnh mẽ.
Từ cách thức tổ chức thứ hai và thứ ba, dưới tác động của các tổ chức sản
xuất chủ đạo sẽ hình thành một loạt các cơ sở sản xuất vệ tinh, có nhiệm vụ sản
xuất những phụ tùng, nguyên liệu, linh phụ kiện, cấu kiện... được chuyên môn
hóa cao về công nghệ sản xuất nhằm cung ứng cho nhà lắp ráp sản phẩm cuối
những sản phẩm chất lượng với giá thành cạnh tranh cao.
Đối với các cơ sở sản xuất vệ tinh này, trong quá trình sản xuất kinh
doanh, hoàn thiện, cải tiến công nghệ sản xuất của mình sẽ trở thành nhà sản
xuất, gia công các loại sản phẩm tương tự, cung ứng không chỉ riêng cho các tổ
chức sản xuất chủ đạo chính của mình mà còn có thể vươn ra đáp ứng nhu cầu
sản xuất của các tổ chức sản xuất khác.
Vậy, công nghiệp phụ trợ (hay công nghiệp hỗ trợ) là hệ thống các nhà

sản xuất sản phẩm và công nghệ sản xuất có khả năng tích hợp theo chiều
ngang, cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng... cho khâu lắp ráp
cuối cùng.
Sơ đồ 1.1 sau đây sẽ giúp làm rõ khái niệm về công nghiệp phụ trợ
Nhà lắp ráp
Ngành công nghiệp phụ trợ
Linh phụ kiện
Cao su Lò xo
Ốc vítNhựa
Điện
Công nghệ - thiết bị
Dập Xử lý nhiệtCán ĐúcÉp
Vật liệu
Nguyên liệu thô
Sơ đồ 1.1 : Khái niệm các ngành công nghiệp phụ trợ
Một điều rõ ràng rằng, ngành công nghiệp phụ trợ cần được xem là một
cơ sở công nghệ hoạt động với nhiều chức năng để phục vụ một số lượng lớn
các ngành lắp ráp chứ không nên coi nó đơn giản chỉ là ngành thu nhập ngẫu
nhiên những linh kiện mà quan trọng hơn là nó còn thực hiện quá trình sản xuất
hỗ trợ việc sản xuất các bộ phận nhựa và kim loại như cán, ép, dập khuôn, đúc...
1.1.2. Thành phần của công nghiệp phụ trợ và mối quan hệ với các ngành
khác
 Công nghiệp phụ trợ có thể được chia thành hai phần chính là:
- Phần cứng: là các sơ sở sản xuất nguyên vật liệu và linh phụ kiện lắp ráp.
- Phần mềm: là các cơ sở sản xuất thiết kế sản phẩm, mua sắm, hệ thống
dịch vụ công nghiệp và marketing.
 Mối quan hệ giữa công nghiệp chính và công nghiệp phụ trợ được minh
họa bằng sơ đồ sau:
Ngành ô tô
Ngành công

nghiệp phụ trợ
Ngành xe máy
Ngành điện tử
Ngành điện gia dụng
Ngành dệt may
Ngành da giày
Ngành cơ khí chế tạo
Sơ đồ 1.2 : Quan hệ giữa công nghiệp chính và công nghiệp phụ trợ
Sản xuất phụ trợ với những ngành công nghiệp khác nhau cũng có nhiều
tầng cấp, thứ bậc khác nhau. Đồng thời giữa các nhà sản xuất phụ trợ cũng hình
thành nhiều mối quan hệ hợp tác kinh doanh với thứ bậc khác nhau. Chẳng hạn,
một nhà sản xuất lắp ráp A nào đó có thể có nhiều đối tượng hợp tác chuyên sản
xuất và cung ứng các sản phẩm phụ trợ. Đối tượng thứ nhất là các cơ sở sản
xuất tin cậy nhất được đầu tư vốn và chỉ chuyên sản xuất các sản phẩm riêng
của chính hãng thiết kế đặt hàng. Đối tượng thứ hai là các cơ sở sản xuất phụ trợ
nhận gia công cho chính hãng đặt hàng và cũng có thể tổ chức tổ chức sản xuất
cho đối tượng khác, thường thì chính hãng chỉ quan hệ với đối tượng này theo
quan hệ hợp đồng gia công. Đối tượng thứ ba là các cơ sở sản xuất các sản
phẩm phụ trợ hàng loạt, mua sẵn, quan hệ với chính hãng là quan hệ mua bán
thông thường.
1.1.3. Các giai đoạn phát triển công nghiệp phụ trợ ở các nước đang phát
triển
Sự hình thành công nghiệp phụ trợ của các nước rất khác nhau, thường ở
các nước phát triển, ngành công nghiệp phụ trợ hình thành trước hoặc đồng thời
với ngành công nghiệp sản xuất chính, có vai trò quyết định tới sự thành công
và uy tín của các sản phẩm công nghiệp cuối cùng.
Đối với các nước NICS như Nhật Bản, Hàn Quốc... ngành công nghiệp
phụ trợ hình thành trước hoặc đồng thời với việc tổ chức lắp ráp, sản xuất các
sản phẩm công nghiệp cuối cùng.
Đối với các nước đang phát triển như ASEAN, Việt Nam... do thiếu vốn,

công nghệ và thị trường tiêu thụ, thông thường công nghiệp lắp ráp phát triển
trước, ngành công nghiệp hỗ trợ hình thành theo sau với tiến trình nội địa hóa
các sản phẩm được tập đoàn, công ty có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện trên
lãnh thổ của nước sở tại, sau đó tùy theo trình độ phát triển và khả năng cạnh
tranh của hệ thống các cơ sở sản xuất sản phẩm phụ trợ, có thể vươn ra xuất
khẩu các sản phẩm phụ trợ sang các thị trường khác.
Thông thường, quá trình phát triển công nghiệp phụ trợ ở các nước đang
phát triển diễn ra theo năm giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Việc sản xuất được thực hiện dựa vào cơ sở sử dụng
các cụm linh kiện nhập khẩu nguyên chiếc, số lượng các nhà cung cấp các linh
kiện, các chi tiết đơn giản sản xuất trong nước có rất ít.
Giai đoạn thứ hai: Nội địa hóa thông qua sản xuất tại chỗ, các nhà sản
xuất lắp ráp chuyển sang sử dụng các loại linh kiện, phụ kiện sản xuất trong
nước, thông thường các linh kiện, phụ kiện này là những loại thông dụng lắp
lẫn, dùng chung. Tỷ lệ nội địa hóa trong các sản phẩm công nghiệp ở trong
nước có tăng lên nhưng thông thường là ít tăng số lượng các nhà sản xuất phụ
trợ và tính cạnh tranh trong sản xuất các sản phẩm này không cao.
Giai đoạn thứ ba: Xuất hiện các nhà cung ứng các sản phẩm phụ trợ chủ
chốt trong các ngành như sản xuất động cơ, hộp số đối với ngành ô tô – xe máy,
chíp IC điện tử và nguyên vật liệu cao cấp... một cách độc lập và tự nguyện
không theo yêu cầu của các nhà lắp ráp. Trong giai đoạn này việc gia công phát
triển mạnh mẽ tại các nước sở tại. Các phụ tùng, các chi tiết có độ phức tạp cao
và khối lượng hàng hóa nhập khẩu để lắp ráp giảm hẳn.
Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn tập trung của các ngành công nghiệp phụ trợ.
Ở giai đoạn này hầu như tất cả các chi tiết, các phụ tùng, các loại linh kiện đã
được tiến hành sản xuất ở nước sở tại, kể cả một phần các sản phẩm nguyên liệu
sản xuất các linh kiện đó cũng được sản xuất tại nước sở tại.Trong giai đoạn
này, số lượng nhà cung cấp các sản phẩm phụ trợ tăng lên 3-4 cơ sở cho mỗi
chủng loại sản phẩm. Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất phụ trợ trở nên gay gắt
hơn cùng với xu thế chung của cạnh tranh lúc này là hạ giá thành sản xuất trong

khi chất lượng sản phẩm vẫn được duy trì và phát triển.
Giai đoạn thứ năm: Nghiên cứu, phát triển và xuất khẩu. Đây là giai đoạn
cuối của quá trình nội địa hóa với sự chuyển dịch các thành tựu nghiên cứu ,
phát triển của các nhà đầu tư nước ngoài tại nước sở tại. Năng lực nghiên cứu và
phát triển ở các nước sở tại cũng đã được củng cố và phát triển, bắt đầu giai
đoạn sản xuất phục vụ xuất khẩu triệt để.
1.1.4. Đặc điểm của công nghiệp phụ trợ
 Đặc điểm:
Khái niệm về ngành công nghiệp phụ trợ là một khái niệm rộng và mang
tính tương đối, tuy nhiên nó có một số đặc điểm sau:
- Công nghiệp phụ trợ phát triển gắn kết với ngành công nghiệp hoặc sản phẩm
công nghiệp cụ thể (đối tượng hỗ trợ) và có nhiều tầng cấp tích hợp theo cả
chiều ngang và chiều dọc.
- Công nghiệp phụ trợ xuất hiện trong các hình thức tổ chức công nghiệp theo
kiểu thầu phụ, nằm trong một mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp, thống nhất
và có tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chủ đạo và các doanh nghiệp phụ
trợ (mối liên kết công nghiệp).
- Công nghiệp phụ trợ có tác động thúc đẩy những ngành công nghiệp, sản phẩm
công nghiệp chính phát triển, cung cấp đầu vào theo hợp đồng hoặc theo kế
hoạch cho sản xuất chính và thu hút đầu ra của các cơ sở sản xuất phụ trợ cấp
dưới theo kế hoạch sản xuất chính hoặc theo hợp đồng.
- Đối với một ngành công nghiệp hay một sản phẩm công nghiệp cụ thể nào đó,
các tổ chức hoạt động trong các ngành công nghiệp phụ trợ thường có quy mô
vừa và nhỏ với mức độ chuyên môn hóa sâu, dễ thay đổi mẫu mã, dải sản phẩm
hẹp, có sức sống và tính cạnh tranh cao.
Từ những đặc điểm trên rút ra một số ưu điểm và nhược điểm của công
nghiệp phụ trợ như sau:
 Ưu điểm:
- Các doanh nghiệp phụ trợ có trình độ chuyên môn hóa cao và phân công lao
động cao sẽ giúp cho ngành công nghiệp chính phát triển nhanh và bền vững.

- Các doanh nghiệp phụ trợ thường được tiếp nhận các hướng dẫn kỹ thuật, thiết
kế sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất chính,không phải lo khâu lập kế
hoạch, thiết kế các sản phẩm nguyên bản. Mặt khác nhờ có được các hợp đồng
thường xuyên của các hãng chính mà công việc của các doanh nghiêp phụ trợ
trở nên ổn định.
- Các ngành công nghiệp phụ trợ thường do các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm
nhận nên có điều kiện ứng phó nhanh và linh hoạt hơn với các biến động thường
xuyên xảy ra của thị trường. Quá trình thay đổi mẫu mã, ứng dụng khoa học
công nghệ vào việc đổi mới sản xuất, đáp ứng nhanh yêu cầu của thị trường sẽ
diễn ra nhanh và hiệu quả hơn.
- Với ngành công nghiệp phụ trợ thì không nhất thiết phải đầu tư và sản xuất từ A
đến Z mà vẫn có thể tổ chức sản xuất các loại sản phẩm công nghiệp có chất
lượng cao. Tổng số vốn đầu tư dể sản xuất ra các sản phẩm cuối cùng được
phân tán, được cấu thành từ nhiều nguồn đầu tư khác nhau, sự rủi ro được phân
tán.
- Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để thu
hút đầu tư từ các thành phần kinh tế, nhất là từ đầu tư nước ngoài, đặc biệt là
các công ty đa quốc gia.
 Nhược điểm:
- Sự phát triển của công nghiệp phụ trợ bị phụ thuộc vào chiến lược phát triển sản
phẩm và điều tiết thị trường của các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp FDI.
- Sự hợp tác phát triển được đặt ra với yêu cầu cao cộng với sự chia sẻ thông tin
và cộng đồng trách nhiệm tương đối lớn, trong khi đó đa phần các doanh nghiệp
phụ trợ là doanh nghiệp vừa và nhỏ với xuất phát điểm thấp, vốn và nhân lực
còn thiéu thốn, môi trường kinh doanh chưa được minh bạch, có xu thế khép
kín, thiếu hợp tác và liên kết với nhau.
1.1.5. Các loại hình công nghiệp phụ trợ
Công nghiệp phụ trợ và tỷ lệ nội địa hóa dường như tách biệt nhau về
hình thức nhưng nếu nhìn nhận theo mục tiêu phát triển công nghiệp nội địa thì

×