Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.41 KB, 28 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1. Tài chính doanh nghiệp
1.1. Khái niệm
Khi nhắc đến tài chính trong doanh nghiệp, người ta thường liên hệ nó
với công việc kế toán, tức là ghi sổ sách, tính toán sổ sách và lập các biểu bảng
báo cáo tài chính. Đó là nhận thức sai lầm về khái niệm tài chính.
Khái niệm tài chính, hiểu theo nghĩa thông thường thì đó là những hoạt
động huy động vốn, sử dụng, phát triển và quản lý tiền vốn. Có nghĩa là doanh
nghiệp cần tích luỹ vốn, sau đó đầu tư vào hoạt động sản xuất và kinh doanh
làm số tiền đó tăng lên - tức là tiền sinh tiền. Từ đó, doanh nghiệp có được lợi
nhuận thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nhà doanh nghiệp
không được hưởng toàn bộ lợi nhuận này mà phải phân phối một phần cho ngân
sách nhà nước, nhân viên và cả nội bộ doanh nghiệp. Những hoạt động nói trên
đã hình thành nên tài chính doanh nghiệp.
Dưới góc độ quản lý thì tài chính là hoạt động huy động, sử dụng, sắp
xếp, phân phối vốn và là các mối quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ
thể trong nền kinh tế.
1.2. Bản chất của tài chính doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải đảm bảo sự
phối hợp đồng bộ, ăn khớp về những hoạt động liên quan đến thị trường hàng
hoá dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động và tổ chức nội bộ trong doanh
nghiệp, nhằm tạo ra sự tăng trưởng, đạt được tỷ suất lợi nhuận tối đa. Chính
trong quá trình đó đã làm nảy sinh hàng loạt những quan hệ kinh tế với các chủ
thể khác thông qua sự vận động của vốn tiền tệ.
 Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước:
Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ nhà nước cấp phát, hỗ trợ vốn và góp vốn
cổ phần theo những nguyên tắc và phương thức nhất định để tiến hành sản xuất
kinh doanh và phân chia lợi nhuận. Đồng thời, các mối quan hệ tài chính này
còn phản ánh những quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị phát sinh khi thực
hiện quá trình phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập


quốc dân giữa ngân sách nhà nước với các doanh nghiệp. Điều này được thể
hiện thông qua các khoản thuế mà doanh nghiệp có nghĩa vụ pháp lý phải nộp
cho ngân sách nhà nước. Lợi nhuận của doanh nghiệp đạt được phụ thuộc rất
lớn vào chính sách thuế. Mặt khác, sự thay đổi về chính sách tài chính vĩ mô
của nhà nước sẽ làm thay đổi môi trường đầu tư, từ đó cũng ảnh hưởng đến cơ
cấu vốn kinh doanh, chi phí hoạt động của từng doanh nghiệp, chẳng hạn như
chính sách đầu tư , hỗ trợ tài chính của nhà nước đối với doanh nghiệp.
 Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính.
Doanh nghiệp thực hiện quá trình trao đổi mua bán các sản phẩm nhằm
thoả mãn mọi nhu cầu về vốn của mình. Trong quá trình đó , Doanh nghiệp luôn
phải tiếp súc với thị trường tài chính mà chủ yếu là thị trường tiền tệ và thị
trường vốn.
• Thị trường tiền tệ: thông qua các hệ thống ngân hàng, Doanh nghiệp có
thể tạo được nguồn vốn ngắn hạn và trung hạn để tài trợ cho mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp phải mở tài khoản
tại một ngân hàng nhất định và thực hiện các giao dịch mua bán qua chuyển
khoản.
• Thị trường vốn: thông qua thị trường này các doanh nghiệp có thể tạo
được nguồn vốn dài hạn bằng cách phát hành chứng khoán của công ty như cổ
phiếu, kỳ phiếu,… Mặt khác, doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh chứng
khoán trên thị trường này để kiếm lời.
 Quan hệ tài chính của doanh nghiệp với các thị trường khác.
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh
nghiệp khác trên thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động. Tại các
thị trường này doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng,
tìm kiếm lao động, v.v… Thông qua đây, doanh nghiệp còn có thể xác định
lượng nhu cầu hàng hoá, và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh
nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thoả mãn
nhu cầu thị trường.
 Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp.

Bao gồm các mối quan hệ tài chính như:
• Quan hệ của những doanh nghiệp mẹ và doanh nghiệp con.
• Quan hệ của những doanh nghiệp với người hoặc nhóm người có khả
năng chi phối ra quyết định, hoạt động của doanh nghiệp đó thông qua các cơ
quan quản lý doanh nghiệp.
• Quan hệ của những doanh nghiệp với quản lý doanh nghiệp.
• Quan hệ của những doanh nghiệp với người lao động.
Các mối quan hệ này được biểu hiện thông qua chính sách tài chính của
doanh nghiệp như sau:
- Chính sách phân phối thu nhập cho người lao động.
- Chính sách chia lãi cho các Cổ Đông.
- Chính sách cơ cấu nguồn vốn.
- Chính sách đầu tư và cơ cấu đầu tư.
Nhìn chung, các quan hệ kinh tế nêu trên đã khái quát hoá toàn bộ những
khía cạnh về sự vận động của vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Đặc trưng của sự vận động của vốn luôn luôn gắn liền chặt chẽ với quá
trình phân phối các nguồn tài chính của doanh nghiệp và xã hội nhằm tạo lập,
phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình kinh
doanh.
Trên cơ sở đó, có thể định nghĩa bản chất của tài chính doanh nghiệp là
hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn lực
tài chính, được thực hiện thông qua các quá trình huy động và sử dụng các loại
vốn, quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Chức năng của tài chính doanh nghiệp
2.1. Tổ chức huy động chu chuyển vốn, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh
được tiến hành liên tục.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
nên có nhu cầu về vốn, tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà vốn được duy
động từ những nguồn sau:
- Ngân sách Nhà nước cấp.

- Vốn cổ phần.
- Vốn liên doanh.
- Vốn tự bổ sung.
- Vốn vay.
Nội dung của chức năng này:
- Căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất, định chức mức tiêu chuẩn để xác định
nhu cầu vốn cần thiết cho sản xuất kinh doanh.
- Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về vốn.
Nếu nhu cầu lớn hơn khả năng về vốn thì doanh nghiệp phải huy động
thêm vốn ( tìm nguồn tài trợ với chi phí sử dụng vốn thấp nhưng đảm bảo có
hiệu quả).
Nếu nhu cầu nhỏ hơn khả năng về vốn thì doanh nghiệp có thể mở rộng
sản xuất hoặc tìm kiếm thị trường để đầu tư mang lại hiệu quả.
- Lựa chọn nguồn vốn và phân phối sử dụng vốn hợp lý để sao cho với số
vốn ít nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất.
2.2. Chức năng phân phối thu nhập của tài chính doanh nghiệp
Thu nhập bằng tiền từ bán sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ, lợi tức cổ
phiếu, lãi cho vay, thu nhập khác của doanh nghiệp được tiến hành phân phối
như sau:
Bù đắp hao phí vật chất, lao động đã tiêu hao trong quá trình sản xuất
kinh doanh bao gồm:
- Chi phí vật tư như nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực, công cụ lao
động nhỏ,…
- Chi phí khấu hao tài sản cố định.
- Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền (kể cả các khoản
thuế gián thu).
Phần còn lại là lợi nhuận trước thuế được phân phối tiếp như sau:
- Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định ( hiện nay tính bằng
28% trên thu nhập chịu thuế).

- Bù lỗ năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế (nếu có).
- Nộp thuế vốn (nếu có).
- Trừ các khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ.
- Chia lãi cho đối tác góp vốn.
- Trích vào các quỹ doanh nghiệp.
2.3. Chức năng giám đốc (kiểm soát) đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Giám đốc tài chính là việc thực hiện kiểm soát quá trình tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp.
Cơ sở của giám đốc tài chính:
- Xuất phát từ tính quy luật phân phối sản phẩm quyết định (ở đâu có
phân phốí tài chính thì ở đó có giám đốc tài chính).
- Xuất phát từ tính mục đích của việc sử dụng vốn trong sản xuất kinh
doanh.
Muốn cho đồng vốn có hiệu quả cao, sinh lời nhiều thì tất yếu phải giám
đốc tình hình tạo lập sử dụng quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp.
Nội dung
- Thông qua chỉ tiêu vay trả, tình hình nộp thuế cho Nhà nước mà Nhà
nước, Ngân hàng biết được tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp tốt hay
chưa tốt.
- Thông qua chỉ tiêu giá thành, chi phí mà biết được doanh nghiệp sử
dụng vật tư, tài sản, tiền vốn tiết kiệm hay lãng phí.
- Thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận (tỷ suất lợi nhuận doanh thu, giá
thành, vốn) mà biết được doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không?
3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan trong
nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Sự vận động của nó một mặt phải tuân theo
những quy luật kinh tế khách quan, mặt khác do tài chính doanh nghiệp là các
quan hệ nằm trong hệ thống những quan hệ kinh tế gắn liền với hoạt động kinh
doanh nên tài chính doanh nghiệp còn phải chịu sự chi phối bởi các mục tiêu và
phương hướng kinh doanh của các chủ thể doanh nghiệp. Nhưng đến lượt mình,

tài chính doanh nghiệp lại có tác động theo hướng thúc đẩy hay kìm hãm hoạt
động kinh doanh. Trên góc độ này, tài chính doanh nghiệp được xem là một
trong những công cụ có vai trò quan trọng trong quản lý kinh doanh.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp được biểu hiện qua các mặt sau:
 Tổ chức huy động và phân phối sử dụng các nguồn lực tài chính có
hiệu quả.
Đối với một doanh nghiệp, vốn là yếu tố vật chất cho sự tồn tại và phát
triển. Do vậy, vấn đề tổ chức huy động và phân phối sử dụng sao cho có hiệu
quả trở thành nhiệm vụ rất quan trọng đối với công tác quản lý tài chính doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, vốn cũng là một loại hàng hoá, cho nên
việc sử dụng vốn của doanh nghiệp đều phải trả giá một khoản chi phí nhất
định. Vì thế, doanh nghiệp cần phải chủ động xác định nhu cầu vốn cần huy
động, từ đó có kế hoạch hình thành cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho hoạt động kinh
doanh một cách hiệu quả.
Song song với quá trình huy động vốn, đảm bảo vốn tài chính doanh
nghiệp còn có vai trò tổ chức phân phối sử dụng để đạt hiệu quả kinh doanh cao
nhất – đây là vấn đề có tính quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp trong
quá trình cạnh tranh “khắc nghiệt” theo cơ chế thị trường trong kinh doanh, tính
hiệu quả của việc sử dụng vốn được biểu hiện ra là:
 Về mặt kinh tế: lợi nhuận tăng,vốn của doanh nghiệp không ngừng
được bảo toàn và phát triển.
 Về mặt xã hội: các doanh nghiệp không chỉ làm tròn nghĩa vụ của
mình đối với Nhà nước mà còn không ngừng nâng cao mức thu nhập của người
lao động.
Để đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động nắm
bắt tín hiệu của thị trường, lựa chọn phương án kinh doanh thích hợp và hiệu
quả. Trên cơ sở phương án kinh doanh đã được xác định, doanh nghiệp tổ chức
bố trí sử dụng vốn theo phương châm: Tiết kiệm, Nâng cao vòng quay và khả
năng sinh lời của đồng vốn.
 Tạo lập các đòn bẩy tài chính để kích thích điều tiết các hoạt động kinh

tế trong doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn luôn cần có sự phối hợp
đồng bộ của nhiều người, nhiều bộ phận với nhau đặt trong các mối quan hệ
kinh tế. Vì vậy, nếu sử dụng linh hoạt, sáng tạo các quan hệ phân phối của tài
chính để tác động đến các chính sách tiền lương, tiền thưởng và các chính sách
khuyến khích vật chất khác sẽ có tác động tích cực đến việc tăng năng suất; kích
thích tiêu dùng, tăng vòng quay vốn và cuối cùng là tăng được lợi nhuận của
doanh nghiệp. Ngược lại, nếu người quản lý phạm phải những sai lầm trong
việc sử dụng các đòn bẩy tài chính và tạo nên cơ chế quản lý tài chính kém hiệu
quả, thì chính tài chính doanh nghiệp lại trở thành “vật cản” gây kìm hãm hoạt
động kinh doanh.
 Kiểm tra đánh giá hiệu quả các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp
Xuất phát từ vấn đề có tính nguyên lý là : khi đầu tư vốn kinh doanh bất
kỳ nhà doanh nghiệp nào cũng đều mong muốn đồng vốn của mình mang lại
hiệu quả kinh tế cao nhất, do vậy với tư cách là một công cụ quản lý hoạt động
kinh doanh tài chính nhất thiết phải có vai trò kiểm tra để nâng cao tính tiết
kiệm và hiệu quả cảu đồng vốn.
Tài chính doanh nghiệp thực hiện kiểm tra bằng đồng tiền và tiến hành
thường xuyên liên tục thông qua phân tích các chỉ tiêu tài chính. Cụ thể các chỉ
tiêu đó là chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu về các khả năng thanh toán, chỉ tiêu đặc
trưng về hoạt động, sử dụng các nguốn lực tài chính; chỉ tiêu đặc trưng về khả
năng sinh lời,… Bằng việc phân tích các chỉ tiêu tài chính cho phép doanh
nghiệp có căn cứ quan trọng để đề ra kịp thời các giải pháp tối ưu làm lành
mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cụ thể:
 Đảm bảo cung ứng đủ vốn cho quá trình kinh doanh.
 Sử dụng vốn có hiệu quả.
 Giảm thấp chi phí kinh doanh và giá thành sản phấm.
 Nâng cao tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

1.Khái niệm quản lý tài chính doanh nghiệp
Quản lý tài chính dựa trên quy luật vận động vốn, đồng thời cần tuân
thủ theo quy định pháp luật. Thực hiện dự đoán, lên kế hoạch, giám sát, hạch
toán và phân tích sự hình thành vốn, sử dụng và phân phối vốn. Nâng cao hiệu
quả vận động vốn, thực hiện công tác quản lý bảo đảm vốn được gia tăng.
Thực chất của quản lý tài chính là quản lý mang tính tổng hợp những hoạt
động kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp bằng cách vận dụng hình thức giá
trị.
2. Mục tiêu của quản lý tài chính doanh nghiệp
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như:
tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hóa lợi nhuân,
tối đa hoá hoạt động hữư ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp…Song tất cả
các mục tiêu cụ thể đó đều nhằm một mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá
trị tài sản cho các chủ sở hữu hay tối đa hoá tài sản doanh nghiệp.
Tối đa hoá tài sản doanh nghiệp cũng còn gọi là tối đa hoá giá trị doanh
nghiệp là chỉ doanh nghiệp áp dụng chính sách tài chính tối ưu để không ngừng
tăng nhanh tài sản doanh nghiệp và làm cho tổng giá trị doanh nghiệp đạt mức
tối đa thông qua việc tăng trưởng nguồn vốn có tình đến những giá trị thời gian
và sự đền bù của rủi ro.
Coi tối đa hoá tài sản doanh nghiệp làm mục tiêu quản lý tài chính doanh
nghiệp có những ưu điểm sau:
 Mục tiêu tối đa hoá tài sản doanh nghiệp có thể khắc phục những
hành vi ngắn hạn trong quá trình theo đuổi lợi nhuận.
Sở dĩ như vậy là vì nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp không chỉ
là lợi nhuận hiện tại hay quá khứ mà dự đoán lợi nhuận tương lai ngày càng có
ảnh hưởng lớn đến giá trị doanh nghiệp. Với mục tiêu tối đa hoá tài sản doanh
nghiệp, các nhà kinh doanh buộc phải xem xét đến sự phát triển lâu dài của
doanh nghiệp, không ngừng tạo nên sự tăng trưởng lợi nhuận mới trong tương
lai.
 Mục tiêu tối đa hoá tài sản không những xem xét lợi nhuận cao hay

thấp mà còn càng chú ý đến lưu lượng vốn nhiều hay ít.
Điều mà tối đa hóa tài sản doanh nghiệp mưu cầu đó là nhu cầu lượng
tiền mặt đầu vào không ngừng gia tăng và tốc độ quay vòng vốn ngày càng
nhanh. Xét về sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp, vốn nhiều hay ít
quan trọng hơn là lợi nhuận ít hay nhiều. Doanh nghiệp chỉ có tăng nhanh lưu
lượng tiền mặt đầu vào thì mới có thể liên tục phát triển. Hơn nữa lưu lượng tiền
mặt đầu vào lại xem xét nhân tố thời gian của tiền vốn hay không, đồng thời
tiến hành tính toán một cách khoa học trên nguyên tắc giá trị thời gian của tiền
vốn, hiệu quả doanh nghiệp đã được xác nhận càng chân thực hơn.
 Mục tiêu tối đa hoá tài sản có lợi cho việc bảo vệ quyền lợi cơ bản
cho nhà đầu tư và cổ đông, có lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Tối đa hoá tài sản không ngoại trừ những doanh nghiệp có lợi nhuận cao.
Muốn làm cho vốn doanh nghiệp tăng nhanh, doanh nghiệp cần phải giữ được
mức doanh lợi tương đối cao nhưng phải là lãi thật. Khi lợi nhuận ngắn hạn và
lợi nhuận lâu dài có xung đột, nhà kinh doanh phải tính toán và đánh giá tầm
quan trọng của hai loại lợi nhuận này, từ đó lựa chọn phương án có lợi hơn cho
việc gia tăng giá trị doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với sự phân chia lợi nhuận.
Mục tiêu tối đa hoá tài sản doanh nghiệp sẽ làm cho nhà đầu tư, cổ đông và nhà
kinh doanh thận trọng khi lựa chọn những chính sách phân chia có thể giúp
công ty duy trì được thực lực phát triển lâu dài, đồng thời tránh được những
chính sách ngắn hạn “ăn hết chia sạch”.
Tóm lại, mục tiêu tối đa hoá tài sản có thể chỉ đạo nhà quản lý tài chính
cân nhắc lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, quan tâm đến quyền lợi của nhà
đầu tư và của chủ doanh nghiệp. Phân tích chi tiết, cụ thể quan hệ giữa các mức
độ rủi ro và thù lao làm cho kết cấu doanh nghiệp được tổ hợp tốt nhất, giá trị
doanh nghiệp đạt mức độ cao nhất.
3.Vai trò của quản lý tài chính doanh nghiệp.
Tình hình tài chính doanh nghiệp lành mạnh là một trong những điều kiện
tiên quyết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách nhịp
nhàng, đồng bộ, đạt hiệu quả cao. Sự lành mạnh đó có được hay không phụ

thuộc phần lớn vào khả năng quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Trong các hoạt động quản lý của doanh nghiệp thì quản lý tài chính luôn
giữ một vị trí quan trọng. Nó quyết định tính độc lập, sự thành công của một
doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Đặc biệt trong môi trường kinh doanh
quốc tế hiện nay, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng diễn ra khốc liệt trên
phạm vi toàn thế giới, thì quản lý tài chính lại càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết.
Bằng các chỉ tiêu và sự nhạy bén mà các nhà quản lý tài chính có thể chỉ
ra những mặt mạnh cũng như những thiếu sót của doanh nghiệp trong kỳ. Ngoài
ra, các nhà quản lý tài chính còn giúp giám đốc hoạch định chiến lược tài chính
ngắn và dài hạn của doanh nghiệp dựa trên sự đánh giá tổng quát cũng như từng
khía cạnh cụ thể các nhân tố tài chính có ảnh hưởng quan trọng tới sự tồn tại
của doanh nghiệp , bao gồm: chiến lược tham gia vào thị trường tiền tệ, thị
trường vốn, thịu trường chứng khoán, xác định chiến lược tài chính cho các
chương trình, các dự án của doanh nghiệp là mở rộng hay thu hẹp sản xuất…
Thông qua đó, đánh giá, dự đoán có hiệu quả các dự án đầu tư, các hoạt động
liên doanh liên kết, phát hiện âm mưu thôn tính doanh nghiệp của các đối tác
cạnh tranh, đề xuất phương án chia tách hay sát nhập…Nhu cầu vốn sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp luôn có những biến động nhất định trong từng
thời kỳ. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý tài chính là
xem xét, lựa chọn cơ cấu vốn sử dụng sao cho tiết kiệm, hiệu quả nhất:
 Quản lý tài chính trong doanh nghiệp phải tiến hành phân tích và đưa ra một cơ
cấu nguồn vốn huy động tối ưu cho donh nghiệp trong từng thời lỳ.
 Quản lý tài chính phải thiết lập một chính sách phân chia lợi nhuận một cách
hợp lý đối với doanh nghiệp, vừa bảo vệ được quyền lợi của chủ doanh nghiệp

×