Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.45 KB, 20 trang )

I. Phần mở đầu
I.1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là tiếng nói phổ  thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức 
của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Do vậy, dạy Tiếng  
Việt có vai trò cực kỳ quan trọng giúp học sinh có kỹ  năng giao tiếp tốt, từ  đó 
thêm yêu quý và giữ  gìn sự  trong sáng của Tiếng Việt. Ngôn ngữ  Tiếng Việt 
của chúng ta thật sự có nhiều khía cạnh khó, dân gian có câu: “Phong ba bão táp 
không bằng ngữ pháp Việt Nam” mà một trong những nội dung khó đó là phần 
nghĩa của từ. 
Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ  được biên 
soạn có hệ thống trong phân môn Luyện từ và câu. Trong đó, từ  đồng âm và từ 
nhiều nghĩa là các loại từ quan trọng, nó được xem như là “hiện tượng đặc thù”  
của Tiếng Việt. Việc nhận diện hai loại từ này đối với người lớn đã khó, với 
học sinh lớp 5 lại càng khó hơn nhiều. Qua trực tiếp giảng dạy, dự  giờ  đồng 
nghiệp, tôi thấy học sinh (kể cả học sinh khá, giỏi) đều rất khó khăn, hay nhầm 
lẫn khi xác định nghĩa để phân biệt từ, đặc biệt là những từ xuất hiện trong văn 
cảnh. Suy nghĩ và trăn trở về vấn đề này, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ 
về cách hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Vì thế, tôi  
đã chọn đề tài: “Một số  kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ  đồng  
âm và từ nhiều nghĩa”.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
­ Giúp học sinh tháo gỡ  những nhầm lẫn giữa các từ  đồng âm, từ  nhiều 
nghĩa; tiếp thu bài giảng moät cách nhẹ  nhàng, khắc sâu kiến thức; góp phần 
làm giàu thêm vốn từ cho học sinh. 
­ Giúp học sinh có năng lực sử dụng từ đồng âm – từ nhiều nghĩa trong sinh 
sản văn bản bằng hình thức nói hoặc viết, từ  đó các em sử  dụng được Tiếng  
Việt làm công cụ giao tiếp tư duy.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
1



­ Việc dạy từ đồng âm – từ nhiều nghĩa ở nhà trường tiểu học. 
­  Một số  kinh nghiệm nhỏ  giúp HS phân biệt về  từ  đồng âm – từ  nhiều  
nghĩa.
I.4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng và đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học 
về từ nhiều nghĩa ­ từ đồng âm cho học sinh lớp 5.
I.5. Phương pháp nghiên cứu
­ Phương pháp điều tra.
­ Phương pháp trắc nghiệm 
­ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm 
­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm 
II. Phần nội dung
II.1. Cơ sở lí luận
Nguyên tắc dạy học là những luận điểm cơ  bản có tác dụng chỉ  đạo toàn  
bộ tiến trình giảng dạy và học tập phù hợp với mục đích dạy ­ học nhằm thực  
hiện tốt các nhiệm vụ dạy ­ học. Bao gồm:
­ Nguyên tắc đồng bộ: Nguyên tắc đòi hỏi người giáo viên trong việc dạy  
từ  nhiều nghĩa ­ từ  đồng âm phải tiến hành trong tất cả  các môn học. Dạy từ 
nhiều nghĩa ­ từ đồng âm phải trở thành một bộ phận không thể thiếu được của  
mỗi giờ Tiếng Việt.
­ Nguyên tắc thực hành:  Là những bài tập miệng, bài viết,  ứng dụng lí 
thuyết vào thực hành, giải quyết những vấn đề  cụ  thể  của ngữ  pháp, chính tả,  
tập làm văn. Dạy từ nhiều nghĩa ­ từ đồng âm phải gắn những mẫu lời nói, hội  
thoại. 
­ Nguyên tắc cụ  thể:  HS tiểu học còn nhận thức theo kiểu trực quan nên 
giai đoạn đầu khi giới thiệu về từ nhiều nghĩa, từ đồng âm phải bằng hình ảnh,  
vật thật và bằng lời. Mặt khác các em cần được nghe, thấy, phát âm và viết từ 
mới để nói thành tiếng hoặc nói thầm đều do quan sát được.
2



­ Nguyên tắc tính đến đặc điểm của từ trong hệ thống ngôn ngữ: Khi dạy 
từ  nhiều nghĩa ­ từ  đồng âm cần được trình bày như  là việc thiết lập quan hệ 
giữa từ với một lớp sự vật cùng loại được biểu thị bởi từ. 
Phương pháp dạy ­ học là tổ  hợp các cách thức hoạt động của thầy và trò  
trong quá trình dạy ­ học, dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của thầy nhằm thực hiện  
tốt nhiệm vụ dạy học. Bao gồm các phương pháp như: thuyết trình, hỏi – đáp, 
trực quan, thực hành, luyện tập… 
II.2. Thực trạng học sinh trong quá trình học từ  đồng âm, từ  nhiều 
nghĩa
a. Thuận lợi, khó khăn
Ban giám hiệu nhà trường vững về  chuyên môn, có bề  dày kinh nghiệm  
trong giảng dạy, giáo viên có trình độ  chuyên môn được đào tạo bài bản, chính  
quy. Khi dạy về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa,  tôi thường trao đổi với Ban giám 
hiệu, bạn bè đồng nghiệp, để tìm ra cái hay, cái mới trong giảng dạy nên đã rút 
ra được nhiều kinh nghiệm bổ ích cho bản thân.
Đa số  học sinh có ý thức trong học tập, nắm được kiến thức bài học và 
vận dụng vào thực hành tương đối tốt.
Từ đồng âm được dạy trong 1 tiết ở tuần 5, các em được học khái niệm về 
từ đồng âm. Các bài tập về từ đồng âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt các từ 
đồng âm, đặt câu phân biệt các từ  đồng âm; bài luyện tập về  từ  đồng âm đã  
được giảm tải, vì thế thời lượng còn ít.
Từ  nhiều nghĩa được dạy trong 3 tiết  ở  tuần 7 và tuần 8. Học sinh được 
học khái niệm về từ nhiều nghĩa. Các bài tập chủ yếu là phân biệt các từ mang  
nghĩa gốc và nghĩa chuyển, đặt câu phân biệt nghĩa, nêu các nét nghĩa khác nhau  
của một từ. Dạng bài tập về  phân biệt từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa không có 
trong khi đó khả năng tư duy trừu tượng của các em còn hạn chế.
Hầu hết học sinh lớp 5 sau khi học xong các tiết Luyện từ  và câu về  từ 
đồng âm, từ  nhiều nghĩa đều gặp khó khăn. Sau khi học về  từ  đồng âm rất 
nhiều học sinh nêu được định nghĩa này, thậm chí là học thuộc lòng và đã biết  

3


vận dụng vào việc xác định từ  đồng âm, mặc dù chưa được chính xác, vẫn có 
những học sinh còn lúng túng. Nhưng sau những tiết củng cố, luyện tập, học  
sinh dần dần nắm được và vận dụng được từ  đồng âm. Đến khi xuất hiện từ 
nhiều nghĩa thì học sinh thực sự  lúng túng, phân vân giữa việc xác định, phân 
biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Nhiều học sinh thậm chí chỉ biết đoán mò tìm  
kết quả.
Cụ thể là:
­ Khó khăn trong việc giải thích nghĩa các từ: học sinh còn giải nghĩa từ sai,  
lúng túng và còn lủng củng.
­ Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: còn mơ hồ, định tính.
­ Phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ.
­ Đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: chưa chính xác, chưa hay, 
chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
b. Thành công, hạn chế
Áp dụng các biện pháp đưa ra trong đề  tài, học sinh đã có thể  phân biệt  
được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa; khi làm các bài tập về phân biệt từ đồng âm,  
từ đồng nghĩa đã nhanh và ít sai hơn.
Tuy nhiên, do thời lượng một tiết học còn hạn chế nên giáo viên chưa lồng 
ghép liên hệ  phân biệt từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa trong các bài học được 
nhiều. 
c. Mặt mạnh, mặt yếu
Các biện pháp góp phần giúp giáo viên dễ  dàng hơn trong việc giảng dạy 
về  từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa; học sinh chủ  động nắm vững kiến thức và 
không còn nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ trái nghĩa.
Các biện pháp mới chỉ áp dụng trong phạm vi một lớp học, chưa được vận 
dụng rộng rãi đến các lớp khác trong cùng một khối lớp.
d. Nguyên nhân


4


Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa có nhiều đặc điểm và hình thức giống nhau, 
đọc giống nhau, viết cũng giống nhau, chỉ khác nhau về nghĩa.
Ví dụ  1:  Từ  đồng âm “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công 
việc” xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì hoàn toàn  
khác nhau: “bàn”(1) là danh từ chỉ một đồ  vật có mặt phẳng, chân đứng để  đồ 
đạc hoặc làm việc, “bàn”(2) là động từ chỉ sự trao đổi ý kiến.
Ví dụ  2: Từ  nhiều nghĩa: “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn”(2) trong “bàn 
phím”. Hai từ  “bàn” này, về  hình thức ngữ  âm hoàn toàn giống nhau còn nghĩa 
thì “bàn”(1) là danh từ  chỉ  một đồ  vật có mặt phẳng, có chân dùng để  đi kèm 
với ghế làm đồ nội thất mang nghĩa gốc; “bàn”(2) là bộ phận tập hợp các phím 
trong một số loại đàn hoặc máy tính mang nghĩa chuyển.
Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có dạng bài tập phối hợp cả  hai 
kiến thức về từ đồng âm và từ  nhiều nghĩa để  học sinh rèn kỹ  năng phân biệt. 
Học sinh vẫn còn chưa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Trong học kì I, ở phân môn Luyện từ và câu lớp 5, học sinh thường sai rất  
nhiều khi phải xác định là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa.
  Để  kiểm tra khả  năng phân biệt từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa, trong bài 
kiểm tra thường xuyên sau phần học từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa tôi đã ra đề 
kiểm tra học sinh lớp 5B năm học (2014 – 2015) như sau:
Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là  
từ nhiều nghĩa?
­ Em được điểm chín.
­ Được điểm kém, em ngượng chín cả người.
­ Cơm đã chín.
Kết quả:

Sĩ số
15

Điểm 9,10
3 = 20%

Điểm 7,8
5 = 33,3%

Điểm 5,6
4 = 26,7%

Điểm dưới5
3 = 20%
5


Nhìn chung, học sinh nắm bài về  từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa chưa chắc  
chắn, chưa chính xác.
Khi học bài Từ  đồng âm ở  tuần 5, qua vài ví dụ, các em học sinh dễ  dàng 
tiếp thu “Từ  đồng âm là những từ  giống nhau về  âm nhưng khác hẳn nhau về 
nghĩa”. Một số em có thể đặt câu để phân biệt các từ đồng âm. Thế nhưng, với  
bài tập “Phân biệt nghĩa của những từ  đồng âm trong các cụm từ  sau: a) Cánh 
đồng ­ tượng đồng ­ một ngàn đồng. b) Hòn đá ­ đá bóng. c) Ba và má ­ ba tuổi” 
thì gần như  học sinh không thể  nào giải thích rõ ràng, chính xác được. Không  
một em học sinh tiểu học nào có thể giải thích được “Đồng trong cánh đồng là 
mảnh đất có cỏ mọc hay để trồng trọt…”, “Đá trong hòn đá là chất rắn tạo nên 
vỏ quả đất”... Với một bài học tương đối khó như vậy, nếu không được luyện  
tập nhiều để nắm vững hơn về từ đồng âm, học sinh sẽ không hoàn thành được 
tốt bài tập.

Đến tuần 7, các em lại học bài Từ nhiều nghĩa. Đây lại là bài học khó nhất 
trong phân môn Luyện từ  và câu  ở  học kì I. Để  học sinh phân biệt thế  nào là  
nghĩa “gốc”, thế  nào là nghĩa “chuyển” thật là khó khăn, bởi khái niệm “Từ 
nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa  
của từ  nhiều nghĩa bao giờ  cũng có mối liên hệ  với nhau”. Với học sinh tiểu  
học, nó thật trừu tượng, mơ hồ. 
Chính vì vậy, khi sang đến tuần 8, với bài luyện tập 1, trang 82, sách Tiếng 
Việt 5 ­ tập 1: “Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những  
từ nào là từ nhiều nghĩa?
Chín: Lúa   ngoài   đồng   đã chín vàng/   Tổ   em   có chín học   sinh/   Nghĩ 
cho chín rồi hãy nói”. Nếu như  học sinh chưa nắm vững bài học thì sẽ  rất dễ 
xác định sai.
Đứng trước thực tế đó, tôi đã hướng dẫn học sinh khi học các khái niệm về 
từ  nhiều nghĩa, từ  đồng âm. Khi học sinh đã nắm được kiến thức về  từ  đồng 
âm, từ  nhiều nghĩa tôi mở  rộng thêm cho HS một số  kiến thức giúp học sinh  
6


hiểu bản chất kiến thức: Từ đồng âm là nhiều từ nhưng nghĩa các từ  trong văn  
cảnh đều là nghĩa gốc (còn gọi là nghĩa chính hay nghĩa đen). Còn từ nhiều nghĩa 
thì chỉ  là một từ có một nghĩa gốc còn các nghĩa khác là nghĩa chuyển từ  nghĩa 
gốc. Trở lại ví dụ ở trên, trong ví dụ 1 “bàn” trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn 
công việc” đều mang nghĩa gốc, ví dụ  2 “bàn” trong “cái bàn” mang nghĩa gốc 
còn “bàn” trong “bàn phím” mang nghĩa chuyển. Vậy làm thế  nào để  học sinh 
phân biệt được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ? Đến đây tôi giúp học sinh  
hiểu rằng từ  mang nghĩa gốc thì nêu được nghĩa khác nhau nhưng phải bằng  
cách diễn giải. Còn phần nhiều các từ  mang nghĩa chuyển thì nêu nghĩa bằng 
cách thay thế bằng một từ khác (mang nghĩa phụ).
Ví dụ:          Mùa xuân (1) là tết trồng cây


 
         

Làm cho đất nước càng ngày càng xuân (2).

Ta thấy rằng: “xuân”(2) được dùng theo nghĩa chuyển vì “xuân” có thể thay 
thế bằng “tươi đẹp”. Khi học sinh đã nắm bắt được bản chất của kiến thức, để 
cho học sinh có kỹ  năng phân biệt, tôi tổng hợp thành những dạng bài tập hỗn 
hợp cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để HS luyện tập.
Sau khi mở  rộng cho HS một số  khái niệm cơ  bản cần thiết về  từ  đồng 
nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm tôi đã hướng dẫn HS so sánh sự giống nhau và 
khác nhau giữa chúng.
Tôi lần lượt sử dụng các giải pháp trên bằng cách lựa chọn và phân bố hợp  
lí theo từng nội dung của bài, lấy nhiều ví dụ minh họa để  học sinh nắm được 
đặc điểm cơ  bản của các loại từ  trên từ  đó có thể  phân biệt và nhận dạng dễ 
dàng hơn trong khi làm bài tập.
II.3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Để  khắc phục những khó khăn trong quá trình dạy – học từ  đồng âm, từ 
nhiều nghĩa; giúp học sinh có khả  năng phân biệt từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa  
một cách dễ dàng và chính xác mang lại hiệu quả cao hơn trong quá trình dạy –  
7


học. Đề tài đưa ra một số biện pháp có thể được áp dụng khi dạy học phân môn  
Luyện từ và câu ở các tiết học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
b.1. Nắm vững kiến thức về  từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa và phương 
pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
* Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa:

+ Từ đồng âm: Là những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa.
Ví dụ:       ­  bò  trong  kiến bò, chỉ  hoạt động di chuyển  ở  tư  thế  áp bụng 
xuống nền bằng cử chỉ của toàn thân hoặc những cái chân ngắn.
               ­  bò  trong  trâu bò: chỉ  loài động vật nhai lại, sừng ngắn, lông 
thường có màu vàng, được nuôi để lấy sức kéo, thịt, sữa…
+ Từ nhiều nghĩa: Là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. 
Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. 
Ví dụ:   ­ Đôi mắt  của bé mở  to (bộ  phận quan sát của con người  ở  trên  
mặt).
   

            ­ Từ “mắt” trong câu “quả na mở mắt” là nghĩa chuyển.
Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có ba dạng sau:
­ Dạng 1: Dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng  

hay nói cách khác là dựa vào các kiểu tương quan về hình dáng.
Ví dụ:  Miệng1 (miệng xinh) và miệng2 (miệng bát)
­ Dạng 2: Dựa trên cơ sở ẩn dụ về cách thức hay chức năng của các sự vật, 
đối tượng.
Ví dụ: cắt1 (cắt cỏ) với cắt2 (cắt quan hệ)
­ Dạng 3: Dựa trên cơ sở ẩn dụ kết quả do tác động của các sự vật đối với 
con người.
Ví dụ: đau1 (đau vết mổ) và đau2 (đau lòng)
Theo cơ chế hoán dụ có các dạng sau:
­ Dạng 1: Dựa trên cơ sở quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.
8


Ví dụ: Chân1, Tay1, Mặt1 là những tên gọi chỉ  bộ  phận được chuyển sang  
chỉ cái toàn thể (Anh ấy có chân2 trong đội bóng. Tay2 bảo vệ của nhà máy số ba 

có Mặt2 trong hội nghị)
­ Dạng 2: Dựa trên quan hệ giữa vật chứa và cái được chứa. 
Ví dụ:    Nhà1 là công trình xây dựng (Anh trai tôi đang làm nhà)
                      Nhà2 là gia đình (Cả nhà có mặt)
 ­ Dạng 3: Dựa trên quan hệ nguyên liệu hay công cụ với sản phẩm làm ra  
từ  nguyên liệu hay công cụ  đó hoặc hành động dùng nguyên liệu hay công cụ 
đó. 
Ví dụ: 
Muối1: Nguyên liệu (Một kg  muối)
Muối2: hành động làm cho thức ăn lên men (Chị ấy muối dưa rất ngon)
* Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Bài học về  từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa là loại bài khái niệm.  Ở  phần 
nhận xét, giáo viên giúp học sinh phát hiện các hiện tượng về  từ   ở  các bài tập 
từ đó rút ra được những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bước tiếp  
theo giáo viên tổng hợp kiến thức như nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là 
học sinh khá, giỏi, giáo viên có thể  cho các em lấy ví dụ  về  hiện tượng đồng 
âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ. Chuyển sang phần  
luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ  chức các hình thức dạy học để  giúp học sinh 
giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau mỗi bài tập giáo viên lại củng cố,  
khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài học, liên hệ thực tế…
 Khi dạy các bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên cần sử  dụng đồ 
dùng dạy học, tranh  ảnh minh họa nhằm giúp học sinh dễ dàng phân biệt nghĩa 
của từ. 
Ví dụ:

9


                 Hòn đá


Đá bóng

Trong quá trình dạy học có thể vận dụng phương pháp, hình thức dạy học  
như: Phương pháp hỏi đáp, phương pháp giảng giải, phương pháp thảo luận  
nhóm, phương pháp trực quan, phương pháp tổ  chức trò chơi, phương pháp 
luyện tập thực hành.
Đối với các tiết luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa giáo viên tổ chức  
các hình thức dạy học để  giúp học sinh củng cố, nắm vững kiến thức, nhận  
diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa. Cụ thể:
 Yêu cầu học sinh hiểu và nắm vững kiến thức để vận dụng
Giáo viên có thể cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi  
ghép lại cho đọc toàn phần, đọc theo nhóm đôi, thi đua xem ai nhanh, ai đọc tốt  
giúp học sinh thuộc ghi nhớ một cách trôi chảy tại lớp.
 Giúp học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau
Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau (nói  
đọc giống nhau và viết giống nhau). Vì vậy, để kết luận được các từ đó có quan 
hệ đồng âm hay quan hệ nhiều nghĩa trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của  
các từ.
Ví dụ: 
Đường(1): (đường rất ngọt): chỉ một chất có vị ngọt.
Đường(2): (đường dây điện thoại): chỉ  dây dẫn, truyền điện thoại phục 
vụ cho việc thông tin liên lạc.
10


Đường(3):   (ngoài   đường,   xe   cộ   đi   lại   nhộn   nhịp):   chỉ   lối   đi   cho   các 
phương tiện, người, động vật.
Để có thể giải thích nghĩa chính xác của các từ “đường” như trên, học sinh  
phải có vốn từ  phong phú, có vốn sống. Vì vậy, giáo viên luôn phải chú trọng 
trau dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh.

Tiếp đó, học sinh căn cứ vào khái niệm từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để xác 
định mối quan hệ giữa các từ. Xét nghĩa của 3 từ “đường” trên ta thấy:
Từ  đường(1) và từ  đường(2) có nghĩa hoàn toàn khác nhau không liên quan 
đến nhau ­ kết luận hai từ  đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự  như trên 
từ đường(2) và từ đường(3) cũng có mối quan hệ đồng âm.
Từ  đường(2) và từ  đường(3) có mối quan hệ  mật thiết về  nghĩa trên cơ  sở 
của từ đường(3) chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ đường(2) (truyền đi) theo vệt  
dài (dây dẫn). Như  vậy từ  đường(3) là nghĩa gốc, còn từ  đường(2) là nghĩa  
chuyển – kết luận từ  đường (2) và từ  đường(3) có quan hệ  nhiều nghĩa với  
nhau.
b.2.Tổ chức dạy trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức
Trong chương trình sách giáo khoa, dạy bài về  từ  nhiều nghĩa được sắp 
xếp sau bài dạy về từ đồng âm. Như vậy để phòng sự  nhầm lẫn giữa từ  đồng 
âm với từ  nhiều nghĩa thì ngay ở  bài dạy về  từ đồng âm ngoài ví dụ  đúng cần  
có thêm các trường hợp không phải đồng âm để các em nhận xét.
Ví dụ:  Từ “đi” trong các trường hợp sau đây có phải hiện tượng đồng âm 
không?
­ Em hay đi bộ đến trường.
­ Anh đi ô tô, còn tôi đi xe đạp.
­ Bà cụ ốm nặng, đã đi hôm qua rồi.
­ Anh đi con mã, tôi đi con tốt.
­ Thằng bé đã đến tuổi đi học.
­ Ca nô đi nhanh hơn thuyền.
11


­ Ghế thấp quá không đi được với bàn.
Bài tập này giáo viên chỉ yêu cầu học sinh nhận diện từ “đi” trong các câu 
văn trên là hiện tượng đồng âm hay không, không yêu cầu giải thích.
 Trong bài dạy “từ  nhiều nghĩa” giáo viên có thể  lấy thêm một số  trường  

hợp về  từ  nhiều nghĩa, sau đó quay lại lấy một ví dụ  về  từ  đồng âm cho học 
sinh nhận định về các từ trong ví dụ.
Ví dụ: Từ “bạc” trong các trường hợp sau là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa?  
Vì sao?
Nhẫn bạc – tóc bạc – bạc như vôi. Ở câu hỏi này, giáo viên yêu cầu học sinh  
giải thích lý do lựa chọn để khẳng định kiến thức và khả năng nhận diện, phân 
biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại từ 
“bạc” trong các trường hợp trên có quan hệ đồng âm vì nghĩa của từ “bạc” trong  
mỗi trường hợp khác nhau, không có quan hệ với nhau.
Cuối tiết học giáo viên nhấn mạnh học sinh lưu ý phân biệt từ đồng âm và  
từ nhiều nghĩa, tránh nhầm lẫn đáng tiếc giữa hai hiện tượng này.
b.3. Tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều  
nghĩa.
Sau các bài học về  từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa cùng với các bài luyện 
tập, có thể giúp học sinh rút ra so sánh như sau:
* Điểm khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa:
Từ đồng âm
Từ nhiều nghĩa
­  Là hai  hoặc  nhiều  từ  có  cùng  hình  ­   Là   một   từ   nhưng   có   nhiều   nghĩa: 
thức ngữ âm: (hòn) đá và đá (bóng).

(hòn) đá và (nước) đá.

­ Các nghĩa hoàn toàn khác biệt nhau  ­ Các nghĩa có mối liên hệ với nhau.
không có bất cứ mối liên hệ nào.
Ví   dụ:  (hòn)   đá   chỉ   chất   rắn   có   sẵn  Ví dụ: (hòn) đá chỉ chất rắn có trong tự 
trong tự nhiên, thường thành tảng, hòn  nhiên,   thường   thành   tảng,   khối   vật 
rất cứng. Còn đá (bóng) chỉ hành động  cứng.   Còn   (nước)   đá   chỉ   nước   đông 
dùng   chân   hất   mạnh   vào   một   vật  cứng lại thành tảng giống như đá.
12



nhằm đưa ra xa hoặc làm tổn thương.
­ Không giải thích được bằng cơ  chế  ­ Do cơ chế chuyển nghĩa tạo thành.
chuyển nghĩa.
* Điểm giống nhau:
­ Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm đều có hình thức âm thanh giống nhau
­ Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thường dễ nhầm lẫn
Ví dụ: Ba: ba(1) bố: Ba tôi rất thích đọc báo
                  ba (2) số từ: Số ba là con số không may mắn
Học sinh có thể  nhầm lẫn từ  “ba” là từ  nhiều nghĩa vì có hình thức âm  
thanh giống nhau. Khi gặp trường hợp này phải giúp học sinh thấy được các nét 
nghĩa không có quan hệ  với nhau vì thế  không phải là từ  nhiều nghĩa mà là từ 
đồng âm.
b.4. Tổng hợp các dạng bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
* Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ.
Đối với từ  đồng âm: Phân biệt nghĩa của các từ  đồng âm trong các cụm 
từ sau: Cánh đồng(1) – tượng đồng(2).
Bài tập này, giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ  “đồng”  ở  mỗi 
trường hợp: “đồng”(1) chỉ  khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để  cấy, trồng 
trọt; “đồng”(2) là kim loại, chúng là những từ đồng âm (vì nghĩa khác nhau).
Đối với từ  nhiều nghĩa:  Trong những câu sau câu nào có từ  “chân” 
mang nghĩa gốc và câu nào có từ “chân” mang nghĩa chuyển?
+ Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
+ Bé đau chân.
Với bài tập trên, giáo viên yêu cầu học sinh nêu nghĩa của từ  “chân” trong 
mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc: “chân” trong câu a) chỉ  một bộ 
phận làm trụ đỡ của cái kiềng – nghĩa chuyển, “chân” trong câu b) một bộ phận  
của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể ­ nghĩa gốc.
* Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.

13


Đối với từ đồng âm: Đặt câu để  phân biệt các từ  đồng âm: bàn, cờ, 
nước.
Bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh với mỗi từ cần đặt ít nhất là hai  
câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau.
Ví dụ: Bàn: ­ Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm.
                      ­ Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện cưới vợ cho anh trai.
Đối với từ nhiều nghĩa: Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “đứng”
+ Nghĩa 1: ở thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền.
+ Nghĩa 2: ngừng chuyển động.
Giáo viên có thể  gợi ý: nghĩa 1 nói tới một tư  thế  của người hoặc động  
vật. Nghĩa 2 nói tới trạng thái của một đồ vật hiện tượng, dựa vào đó học sinh  
đặt câu.
+ Nghĩa 1: Chúng em đang đứng nghiêm trang chào cờ.
+ Nghĩa 2: Kim đồng hồ đứng lại.
* Dạng 3: Phân biệt quan hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa.
Ví dụ: Trong các từ  in đậm dưới đây, những từ  nào có quan hệ  đồng âm, 
những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau?
Vàng: ­ Giá vàng nước ta tăng đột biến.
              ­ Tấm lòng vàng.
              ­ Ông tôi mua một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản.
Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của các từ  “vàng”  
rồi xác định mối quan hệ  giữa chúng: từ  “vàng”  ở  câu 1, 2 có quan hệ  nhiều  
nghĩa, từ “vàng” ở câu 3 có quan hệ đồng âm với từ “vàng” ở câu 1 và 2.
* Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho.
Đối với từ đồng âm:
Ví dụ: Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B
A

1. Sao trên trời có khi tỏ khi mờ.

B
a. Chép lại hoặc tạo ra văn bản khác theo 
14


2. Sao lá đơn này thành ba bản.

đúng bản chính.

3. Sao tẩm chè.

b. Tẩm một chất nào đó rồi sấy khô.

4. Sao ngồi lâu thế?

c.   Nêu   thắc   mắc   không   biết   rõ   nguyên 

5.   Cánh   đồng   lúa   mới   đẹp   làm  nhân. 
d.   Nhấn   mạnh   mức   độ   làm   ngạc   nhiên, 

sao!

thán phục.
e. Các thiên thể trong vũ trụ.
Đối với từ nhiều nghĩa:
Ví dụ: Tìm  ở  cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ  “chạy” trong mỗi câu  ở 
cột A
A

1. Bé chạy lon ton trên sân.

B
a. Hoạt động của máy móc.

2. Tàu chạy băng băng trên đường  b. Khẩn trương tránh những điều không 
ray.

may sắp xảy đến.

3. Đồng hồ chạy đúng giờ.

c. Sự  di chuyển nhanh của phương tiện 
giao thông.

4. Dân làng khẩn trương chạy lũ.
d. Sự di chuyển nhanh bằng chân.
Ở cả  từ  đồng âm và từ  nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên. 
Bên cạnh đó, mỗi nội dung lại có một số dạng bài tập riêng.
Đối với từ đồng âm có dạng bài tập đố vui:
Trùng trục như con chó thui.
Chín mặt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu.
(Là con gì?)
Hoặc dạng bài tập chỉ ra những từ đồng âm được dùng để  chơi chữ  trong  
các câu sau:
+ Kiến bò đĩa thịt bò./ Ruồi đậu mâm xôi đậu.
+ Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa.
Đối với từ nhiều nghĩa có dạng bài tập thay thế từ :
15



Tìm từ có thể thay thế từ “mũi” trong các cụm từ sau:
­ Mũi thuyền/ Mũi súng/ Mũi đất/ Mũi quân bên trái đang thừa thắng xốc  
tới/ Tiêm ba mũi.
c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
Để thực hiện giải pháp, biện pháp nêu trên phải đảm bảo một số điều kiện 
sau:
­ Có tài liệu tham khảo và thiết bị dạy học giúp giáo viên lấy được thêm 
nhiều ví dụ cụ thể ngoài sách giáo khoa.
­ Tăng thời lượng tiết học để có thời gian áp dụng các bài luyện tập, phân 
biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp được nêu trong đề  tài có mối quan hệ chặt chẽ 
với nhau, được sử  dụng kết hợp trong các tiết học nhằm giúp nâng cao hiệu  
quả tiết dạy (tùy theo đối tượng học sinh có thể sử dụng kết hợp các biện pháp 
một cách linh hoạt để đạt được mục tiêu tiết  học).
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Sau một thời gian áp dụng các giải pháp, biện pháp trên trong bài kiểm tra 
thường xuyên về  từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa chất lượng bài làm của học sinh  
đã có tiến bộ rõ rệt:
Kết quả:
Điểm dưới 

Năm

Sĩ số

Điểm 9,10

Điểm 7,8


Điểm 5,6

2012 ­ 2013
2013­2014
2014­2015

24
18

4 = 16,7%

7 = 29,2%

10 = 41,2%

3 = 12,5%

5 = 27,8%

7 = 38,9%

4 = 22,2%

2 = 11,1%

4 = 26,7%

6 = 40%


4 = 26,7%

1 = 6,6%

15
(Học kì I)
II.4. Kết quả

5

Với kết quả khảo nghiệm thu được như trên cho thấy chất lượng tiết dạy 
có áp dụng những giải pháp, biện pháp đưa ra trong đề tài kết quả cao hơn so 
16


với tiết dạy chưa đúc rút kinh nghiệm. Hầu hết học sinh nắm chắc bài, làm bài 
tập về phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa đúng và nhanh hơn.
III. Phần kết luận, kiến nghị
III.1. Kết luận
Dạy các nội dung về  nghĩa của từ  thực sự  không đơn giản, nhất là phân 
biệt từ  đồng âm với từ  nhiều nghĩa. Học sinh cần nắm vững kiến thức về  từ 
đồng âm, từ  nhiều nghĩa thông qua các bài học, muốn vậy giáo viên cần nắm  
sâu kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và phương pháp dạy. Cụ thể:
­ Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và phương pháp dạy 
từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
­ Tổ chức dạy trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức.
­ Giáo viên cần giúp học sinh tự tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ 
đồng âm và từ nhiều nghĩa.
­ Tìm hiểu nghiên cứu, thống kê các dạng bài tập về  từ  đồng âm và từ 
nhiều nghĩa trong cuộc sống hàng ngày để có thêm vốn từ trong giảng dạy.

Trong quá trình giảng dạy, tổ chức cho học sinh nắm được kiến thức, bản 
thân tôi đã cố  gắng nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi và lựa chọn sao cho học sinh 
nắm kiến thức mới và vận dụng trong học tập cũng như  trong cuộc sống một  
cách hiệu quả.
III.2. Kiến nghị
Với mục đích nâng cao kết quả  giảng dạy và hoàn thành chuyên môn của 
người giáo viên tiểu học, tôi xin có một số đề nghị sau:
a) Đối với Ban giám hiệu nhà trường: 
Tổ chức các chuyên đề về phương pháp dạy phân môn Luyện từ và câu đối 
với từ  đồng âm, từ  nhiều nghĩa để  giáo viên học hỏi kinh nghiệm khi dạy các  
nội dung này vì đây là phần kiến thức khó với học sinh.
Cung cấp thêm tài liệu tham khảo và thiết bị  dạy học nhằm giúp giáo viên  
nâng cao chất lượng các tiết học này.
17


b) Đối với giáo viên:
Giáo viên cần phải linh hoạt thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, cần  
nắm bắt rõ năng lực học tập của từng đối tượng học sinh để giảng dạy có hiệu  
quả. Tự học và tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ của bản thân góp 
phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Trên đây là một số  biện pháp giúp học sinh bước đầu phân biệt được từ 
đồng âm và từ  nhiều nghĩa, rất mong được sự  góp ý bổ  sung của các thầy, cô  
giáo cùng các bạn bè đồng nghiệp để  sáng kiến của tôi được đầy đủ  hơn. Tôi  
xin chân thành cảm ơn./.

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
. ...................................................................................................................................
. ...................................................................................................................................
. ...................................................................................................................................

. ...................................................................................................................................
. ...................................................................................................................................
. ...................................................................................................................................
. ...................................................................................................................................
. ...................................................................................................................................

18


CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

Tên tài liệu

Tác giả

1

SGK Tiếng Việt lớp 5, tập 1

Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên)

2

SGV Tiếng Việt lớp 5, tập 1

Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên)


3

Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt.  Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu 
Nxb Giáo dục, H, 1997 .

4

và Hoàng Trọng Phiến.

Từ điển Tiếng Việt
19


20



×