Tải bản đầy đủ (.docx) (183 trang)

Sự vận động của khái niệm giai cấp công nhân nhìn từ quan điểm triết học biện chứng duy vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.04 KB, 183 trang )

B GIO DC V O TO

HC VIN CHNH TR QUC GIA
H CH MINH

HC VIN BO CH V TUYấN TRUYN

TRN VN GING

Sự VậN ĐộNG CủA KHáI NIệM GIAI CấP CÔNG NHÂN
NHìN Từ QUAN ĐIểM TRIếT HọC BIệN CHứNG DUY VậT

LUN N TIN S TRIT HC

H NI, 2020


B GIO DC V O TO

HC VIN CHNH TR QUC GIA
H CH MINH

HC VIN BO CH V TUYấN TRUYN

TRN VN GING

Sự VậN ĐộNG CủA KHáI NIệM GIAI CấP CÔNG NHÂN
NHìN Từ QUAN ĐIểM TRIếT HọC BIệN CHứNG DUY VậT
Chuyờn ngnh: Trit hc
Mó s: 92 29 001


LUN N TIN S TRIT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS, TS. Nguyn Anh Tun

H NI, 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN............................................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHÁI NIỆM VÀ SỰ HÌNH THÀNH
KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG NHÂN THỜI KỲ TRƢỚC MÁC............36
1.1. Lý luận chung về khái niệm lý luận - khoa học........................................36
1.1.1. Bản chất, nguồn gốc và các đặc điểm của khái niệm.........................36
1.1.2. Logic của khái niệm và logic vận động của khái niệm.......................41
1.2. Sự ra đời khái niệm giai cấp công nhân trong lịch sử tư tưởng trước Mác .. 54

1.2.1. Các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội châu Âu thế kỷ XVI - nửa đầu
thế kỷ XIX......................................................................................................54
1.2.2. Các tiền đề tư tưởng........................................................................... 62
Tiểu kết chương 1................................................................................................76
CHƢƠNG 2. KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG TƢ TƢỞNG

CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN...................................................................77
2.1. Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về bản chất giai cấp công nhân và sự
phát triển giai cấp công nhân........................................................................... 77
2.1.1. Định nghĩa khái niệm giai cấp công nhân..........................................77
2.1.2. Mâu thuẫn của giai cấp công nhân.................................................... 83
2.1.3. Các hình thái của lao động làm thuê (hình thái công nhân)..............91

2.2. Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về con đường hiện thực hóa bản chất
của giai cấp công nhân.....................................................................................99
2.2.1. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân trong tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen về Đảng cộng sản..............................................................100
2.2.2. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân trong tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen về cách mạng vô sản..........................................................102


2.2.3. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân trong tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen về nhà nước chuyên chính vô sản......................................110
2.2.4. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân trong tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa...............113
Tiểu kết chương 2..............................................................................................118
CHƢƠNG 3. SỰ VẬN ĐỘNG CỦA KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG
NHÂN TỪ ĐẦU KỶ XX ĐẾN NAY..............................................................119
3.1. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân trong tư tưởng của
V.I.Lênin.........................................................................................................119
3.1.1. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân trong tư tưởng của
V.I.Lênin về chủ nghĩa đế quốc...................................................................119
3.1.2. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân trong tư tưởng của
V.I.Lênin về một số nội dung của cách mạng tư sản kiểu mới (cách mạng
dân chủ tư sản)........................................................................................... 122
3.1.3. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân trong tư tưởng của
V.I.Lênin về cách mạng vô sản (cách mạng xã hội chủ nghĩa)...................129
3.2. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân từ sau V.I.Lênin mất đến nay 138

3.2.1. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân từ sau V.I.Lênin mất đến
những năm 70 của thế kỷ XX...................................................................... 138
3.2.2. Sự phát triển khái niệm giai cấp công nhân từ khoảng những năm 70
của thế kỷ XX đến nay.................................................................................140

3.3. Khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam............................................. 156
Tiểu kết chương 3..............................................................................................162
KẾT LUẬN......................................................................................................164
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.................................................................................. 166
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................168


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi tự
lực nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của PGS,TS. Nguyễn Anh
Tuấn. Kết quả nghiên cứu của luận án là trung thực và có cơ sở
rõ ràng. Kết luận nghiên cứu của luận án chưa từng được công
bố trong các công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày.... tháng.... năm 2020
Tác giả

Trần Văn Giảng


TỪ VIẾT TẮT
GCCN

: Giai cấp công nhân

GCTS

: Giai cấp tư sản

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

XHTB

: Xã hội tư bản

LLSX

: Lực lượng sản xuất

QHSX

: Quan hệ sản xuất

TLSX

: Tư liệu sản xuất


1

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu


Giai cấp công nhân là một bộ phận đặc biệt trong lịch sử con người nói
chung, trong XHTB nói riêng. Khái niệm phản ánh về GCCN cũng là một bộ phận
quan trọng trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và trong
CNXH khoa học. Với vị trí như vậy, cho nên trong nhiều tác phẩm kinh điển,
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã thường xuyên đề cập tới khái niệm GCCN với
nhiều dấu hiệu khác nhau. Từ đây đặt ra nhu cầu nghiên cứu khái niệm GCCN từ
góc nhìn triết học (vì các nhà kinh điển cũng tiếp cận từ góc nhìn triết học) nhằm hệ
thống hóa những dấu hiệu phản ánh những thuộc tính, tính chất của GCCN và vai
trò của những thuộc tính, tính chất ấy trong sự vận động và phát triển theo quy luật
của chúng.


nước ta, công tác nghiên cứu lý luận chính trị, đặc biệt là nghiên cứu tư

tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về CNXH và GCCN tuy đã đạt được
nhiều thành tựu, song vẫn còn đó những hạn chế. Nghị quyết Số 37- NQ/TW của
Ban chấp hành Trung ương “Về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến
năm 2030” nhận định: “Tư duy lý luận tiếp tục có bước phát triển; (…). Đã bước
đầu hình thành hệ thống lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam (…). Tuy nhiên, công tác lý luận còn có những hạn chế,
khuyết điểm. Nhìn chung, lý luận còn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu
lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn” [19]. Có thể kể ra một số vấn đề
đang đặt ra trong nghiên cứu lý luận về khái niệm GCCN như: nội dung, nội hàm
phản ánh các thuộc tính của GCCN chưa được sắp xếp thành hệ thống mà vẫn đứng
cạnh nhau; vị trí, vai trò của các thuộc tính chưa được xác định rõ ràng; chưa làm rõ
đầy đủ sự sinh thành, vận động, biến đổi, mất đi của những nội dung khái niệm
GCCN qua các giai đoạn lịch sử; mối liên hệ nội tại giữa khái niệm GCCN với các
khái niệm khác của CNXH khoa học như: cách mạng vô sản, nhà nước vô sản, nền
dân chủ vô sản… chưa được xác định rõ ràng; khái niệm GCCN trong tư tưởng của

V.I.Lênin về CNTB độc quyền và CNTB độc quyền nhà nước chưa được khai thác


2

đầy đủ; chưa phân tích toàn diện sự biến đổi nội hàm và ngoại diên của khái niệm
GCCN từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay;…
Trong những thập niên gần đây, dưới tác động của những thành tựu khoa học
-

công nghệ, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và nền kinh tế tri thức, GCCN

có nhiều biến đổi về vị trí trong sở hữu TLSX, tổ chức quản lý sản xuất và lao động
xã hội, về phân phối sản phẩm, về mối liên hệ kinh tế giữa công nhân các quốc gia,
về những hình thái công nhân mới,… Những biến đổi ấy đòi hỏi cần được khái quát
trong sự vận động của khái niệm GCCN.
Phong trào công nhân và phong trào cộng sản quốc tế từ những năm 70 thế
kỷ XX đến nay có biểu hiện lắng xuống, điều đó một phần là do “lý luận còn lạc
hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực
tiễn”. GCCN đã đang đòi hỏi nhận thức rõ hơn về chính mình để hoạt động của nó
đạt được hiệu quả hơn. Ở Việt Nam, khi mà GCCN đang giữ vai trò lãnh đạo xây
dựng xã hội XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thông qua
chính đảng của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam, thì nhu cầu đó càng trở nên cần
thiết hơn bao giờ hết. Việc làm rõ khái niệm GCCN cũng góp phần trang bị thêm cơ
sở lý luận cho nghiên cứu lý luận về khái niệm GCCN Việt Nam hiện nay.
Nhằm quán triệt tinh thần Nghị quyết 37- NQ/TW của Ban chấp hành Trung
ương “Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin”, phần nào khắc phục những thiếu hụt về lý luận và đáp ứng nhu cầu
thực tiễn của phong trào công nhân, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề Sự vận động
của khái niệm giai cấp công nhân nhìn từ quan điểm triết học biện chứng duy vật

làm đề tài luận án triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Phân tích làm rõ nguồn gốc ra đời, bản chất, logic vận động và
phát triển của khái niệm nói chung trong tư duy lý luận và của khái niệm GCCN
nhìn từ quan điểm triết học biện chứng duy vật.
Nhiệm vụ:
-

Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về khái niệm

và khái niệm GCCN nói riêng;


3

-

Chỉ ra các điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận cho sự hình thành, vận

động của khái niệm GCCN thời kỳ trước Mác;
-

Làm rõ sự vận động của khái niệm GCCN trong tư tưởng C.Mác,

Ph.Ăngghen và V.I.Lênin;
-

Phân tích sự vận động của khái niệm GCCN trong tư duy lý luận từ sau khi

V.I.Lênin mất đến nay;

-

Bước đầu khảo sát sự vận động của khái niệm GCCN ở Việt Nam.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Logic vận động của khái niệm GCCN nhìn từ quan
điểm triết học biện chứng duy vật.
Phạm vi nghiên cứu: Sự vận động của khái niệm GCCN chủ yếu được
nghiên cứu trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVI đến nay với không gian trải dài từ
châu Âu sang châu Á (chủ yếu ở Việt Nam) thông qua phân tích tư tưởng XHCN
trước Mác, các luận điểm liên quan đến công nhân, lao động, cách mạng… trong
các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, và Hồ Chí Minh, sự
vận động thực tiễn của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế trong lịch sử và từ
sau khi V.I.Lênin mất đến nay.
Luận án tập trung nghiên cứu sự biến đổi nội hàm và ngoại diên theo logic
vận động của khái niệm GCCN nhìn từ quan điểm triết học biện chứng duy vật.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên
cứu Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng và
phương pháp luận biện chứng duy vật, những luận điểm logic biện chứng mácxít về
những quy luật, nguyên tắc chi phối, chiều hướng và nguyên nhân vận động của
khái niệm trong tư duy lý luận.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng các phương pháp thống nhất phân tích - tổng hợp, lịch sử logic, diễn dịch - quy nạp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, so sánh, phương pháp đọc
hiểu tài liệu, văn bản, chú giải học...


4

5.


Đóng góp mới của luận án
Xây dựng khung mẫu lý thuyết về các điều kiện cần cho sự ra đời của một

-

khái niệm, lý thuyết, học thuyết nói chung.
Hiện thực hóa trên chất liệu logic vận động của khái niệm GCCN các điều

-

kiện nêu trên, qua đó khẳng định: Khái niệm GCCN vận động từ trừu tượng đến cụ
thể, có nội hàm ngày càng sâu sắc, ngoại diên ngày càng mở rộng; bản chất GCCN
phản ánh trong khái niệm trở thành bản chất, qui định tính chất, sự biến đổi của các
vấn đề trong CNXH khoa học.
-

Từ khung mẫu lý thuyết đó và lịch sử vận động của khái niệm GCCN bước

đầu dự báo xu hướng phát triển tiếp theo của khái niệm này trong xã hội đương đại.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn những cách hiểu và nội dung
khái niệm GCCN trong lịch sử tư tưởng XHCN; từ đó tóm lược, khái quát hóa logic
vận động của khái niệm GCCN trong tư duy lý luận.
Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy môn logic học biện chứng, triết học Mác - Lênin, CNXH khoa học…
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận
án, kết luận, các công trình đã công bố của tác giả, tài liệu tham khảo, luận án cấu
trúc thành 3 chương 7 tiết.


5

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.

Các công trình nghiên cứu lý luận chung về sự vận động của khái

niệm và tƣ tƣởng trƣớc Mác về khái niệm giai cấp công nhân
Vấn đề khái niệm, nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, logic sinh thành và vận
động của nó với tư cách là vấn đề trung tâm của logic học biện chứng đã được
nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu từ hơn nửa thế kỷ nay.
Trước hết phải kể đến công trình của nhà triết học Xô Viết M.M. Rodentan (bản
dịch tiếng Việt 1961) Nguyên lý lôgíc biện chứng [102] đã trình bày sâu về lịch sử
hình thành logic học biện chứng mácxít, tư duy biện chứng và biện chứng của tư
duy với tư cách là đối tượng nghiên cứu chuyên biệt của nó. Đặc biệt tác giả đã
dành dung lượng đủ lớn trình bày dưới góc nhìn logic biện chứng về bản chất, sự
sinh thành, vận động của các hình thức của tư duy, trong đó có khái niệm. Nói riêng
về khái niệm, luận án có thể kế thừa những luận giải của Rodentan về nguyên nhân
và các xu hướng vận động của khái niệm trong tư duy lý luận. Cũng theo hướng
này nhà triết học Xô Viết E.V. Ilencov (1974, bản dịch tiếng Việt 2003) trong công
trình Logic học biện chứng [40] đã cho thấy rõ nguồn gốc thực sự khách quan của
nội dung khái niệm và cách thức định nghĩa (chỉ ra nội hàm cơ bản của nó) trên tinh
thần biện chứng gắn liền với sự vận động của thực tiễn; vai trò của các nguyên tắc
đi từ trừu tượng đến cụ thể và thống nhất lịch sử - logic trong kiến tạo nội hàm của

các khái niệm khoa học.
Trong lĩnh vực logic biện chứng về khái niệm, những người làm triết học ở
Việt Nam đương đại cũng có những đóng góp đáng kể. Đó là các công trình của Tô
Duy Hợp (chủ biên, 1985): Mác - Ăngghen - Lênin bàn về lôgíc biện chứng [33];
Phạm Thái Việt (1995): Sự hình thành mối tương quan giữa lôgíc và lịch sử trong
lịch sử triết học [135], Về phạm trù cái lôgíc và cái lịch sử [136]; Bùi Thanh Quất,
Nguyễn Ngọc Hà (1997): Khái niệm với tính cách một vấn đề triết học [96], Bùi
Thanh Quất và… (2001): Về đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của
lôgíc học biện chứng [97]… Trong các công trình này các tác giả ngoài việc làm rõ
đối tượng, phương pháp đặc thù và nội dung nghiên cứu chủ yếu của logic học biện


6

chứng, đã làm rõ đặc điểm của tư duy trừu tượng lý luận - khoa học biện chứng, lý
giải vì sao lại có thể gọi tư duy này là tư duy khái niệm. Đặc biệt phải kể đến ở đây
là cuốn Giáo trình logic học biện chứng [119] do các tác giả Nguyễn Anh Tuấn,
Nguyễn Thúy Vân (2016) biên soạn làm tài liệu giáo khoa phục vụ việc học tập
môn học cùng tên cho sinh viên ngành triết học của Trường Đại học Khoa học Xã
hội và nhân văn Hà Nội. Với tính chất như vậy, các tác giả đã khảo sát và trình bày
biện chứng của các hình thức tư duy lý luận biện chứng, trong đó sự ưu tiên nhất
được dành cho khảo sát khái niệm, bởi các tác giả kỳ vọng đây sẽ là hình mẫu để
người học và người nghiên cứu có thể tự tìm tòi phân tích sâu hơn về logic vận
động các hình thức logic khác của tư duy. NCS cho rằng kỳ vọng đó của các tác giả
sẽ phần nào được hiện thực hóa trong luận án này, như thế cũng có nghĩa là cuốn
giáo trình giúp ích nhiều cho NCS đặt ra và giải quyết các nội dung về logic vận
động của khái niệm GCCN. Đi chuyên sâu theo hướng tạo dựng khuôn mẫu khảo
sát vận động của khái niệm mà NCS rất quan tâm học hỏi có luận án tiến sĩ Lôgíc
vận động của khái niệm trong tư duy lý luận [110] của Nguyễn Thanh Tân (2005).
Trong công trình này tác giả đã phân tích làm rõ hai nội dung chủ yếu của logic vận

động khái niệm trong tư duy lý luận: sự tác động của các quy luật và nguyên tắc
biện chứng cơ bản trong sự vận động của khái niệm, cơ chế diễn ra sự vận động; và
các chiều hướng, nguyên nhân của sự vận động đó. Tuy nhiên, do mục đích và
khuôn khổ của luận án tác giả mới chỉ dừng lại vạch thảo những vấn đề lý thuyết
chung về sự vận động của khái niệm, nói cách khác, ở đây mới chỉ có lý luận
“chay”; vấn đề của NCS là kế thừa những thành quả đã đạt được để hiện thực hóa
lý luận đó trên chất liệu cụ thể về sự vận động của khái niệm GCCN.
NCS quan niệm sự vận động đó bắt đầu từ sự tạo lập dần dần các tiền đề lý
luận và điều kiện kinh tế - xã hội của khái niệm GCCN. Các tiền đề lý luận của
khái niệm GCCN trong thời kỳ trước Mác vốn thể hiện tập trung trong học thuyết
của các nhà kinh tế học cổ điển Anh, của các lý thuyết gia XHCN không tưởng phê phán Anh, Pháp. Đề cập đến quan niệm của họ trong những thập niên gần đây
có một số nghiên cứu tiêu biểu dưới góc nhìn logic biện chứng như M.M. Rôdentan
(1962): Những vấn đề về phép biện chứng trong bộ tư bản của Mác [103], hay
Lôgíc học biện chứng [40] của E.V. Ilencôv đã nêu trên. Mặc dù đối tượng, phạm


7

vi

nghiên cứu khác nhau, nhưng các tác giả đều có kết luận chung rằng, trong tư

tưởng của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển Anh, XHTB là trường tồn, vĩnh viễn
và bất biến; họ đã không thể hiểu được bản chất, địa vị của GCCN trong xã hội ấy
do chỗ họ không lý giải đúng hoặc đầy đủ các phạm trù kinh tế như giá trị, giá trị
thặng dư, lợi nhuận… - những phạm trù phản ánh các quan hệ của xã hội đó.
Nguyên nhân sâu xa của hạn chế nêu trên ở các nhà kinh tế học này là do khi
nghiên cứu XHTB, họ đã chỉ biết phương pháp luận siêu hình vốn đòi hỏi tuân thủ
tuyệt đối luật đồng nhất, cấm mâu thuẫn là tiêu chuẩn của tư duy đúng đắn. Nhưng
thực tế nó lại dẫn đến cái nhìn phi lịch sử và làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các định

nghĩa trong tư duy. Rôdentan trong công trình nêu trên đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa
trọng thương xuất phát từ những hiện tượng bề ngoài của quá trình lưu thông,
những hiện tượng đã trở nên độc lập trong sự vận động của tư bản thương nghiệp,
vì thế chủ nghĩa trọng thương chỉ thấy được lớp váng bên trên, không thấy được
bản chất mối quan hệ giữa GCCN và GCTS; chủ nghĩa trọng nông cũng chưa thể
hiểu được các liên hệ bên trong của quan hệ giữa tư sản với công nhân do họ đã
đồng nhất lao động nói chung với lao động nông nghiệp, họ cho rằng tất cả các lao
động khác lao động nông nghiệp, kể cả lao động công nghiệp đều là “phi sản
xuất”, đều không tạo ra giá trị thặng dư được. Theo những người trọng nông,
nguồn gốc duy nhất sinh ra giá trị thặng dư là năng suất của lao động nông nghiệp.
Và năng suất ấy có được do đất đai màu mỡ, chứ không phải do bóc lột lao động
không công của người công nhân; A. Smith trong học thuyết kinh tế của mình, đã
không giải thích lợi nhuận từ giá trị thặng dư mà từ hứng thú của nhà tư bản. Điều
đó là do ông bị ảnh hưởng bởi tính chất 2 mặt trong phương pháp nghiên cứu đặt
ngang hàng những liên hệ bên trong với liên hệ bên ngoài của mình. Sự “lầm lẫn”
ấy dẫn ông tới khẳng định giá trị không phải do lao động mà do tiền công, địa tô và
lợi nhuận tạo ra; D. Ricacdo thì quy tất cả các hiện tượng vào cơ sở, nên ông ta
không giải thích được lợi nhuận một cách khoa học.
Còn trong Lôgíc học biện chứng, Ilencôv chỉ ra Ricacdo có những quan điểm
thiếu khoa học về vấn đề lao động và hàng hóa cũng như các hình thái của chúng
do ông ta hiểu một cách máy móc, phiến diện cặp phạm trù nội dung và hình thức.
Đối với lao động, Ricacdo chỉ nhìn thấy mặt hình thức của lao động tức lao động


8

nói chung - lao động trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, mà bỏ qua
mặt nội dung của lao động - lao động biểu thị mối quan hệ giữa con người với con
người. Điều này đưa ông đến việc thừa nhận sự tồn tại vĩnh viễn của CNTB. Quan
niệm phiến diện đó khiến ông mắc sai lầm trong quan niệm về giá trị. Quả thật, ông

chỉ thấy được giá trị chung chung mà không thấy được tính xác định – các hình
thái của giá trị. Vì không thấy được tính xác định của giá trị nên ông chưa thể thấy
được tính đồng nhất các yếu tố của hình thái giá trị và không thấy được sự khác
biệt của lao động đã vật hóa với lao động sống. Do vậy, ông không thể biết tới giá
trị thặng dư và nó thực sự được sinh ra từ đâu (nghĩa là không hiểu được quan hệ
thực sự giữa công nhân và tư sản), đồng thời khiến học thuyết của ông rơi vào mâu
thuẫn không thể giải quyết được. Ilencôv còn khẳng định antinomi quy luật giá trị
và quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong học thuyết kinh tế của Ricacdo chỉ có
thể được giải quyết bằng con đường tìm kiếm những mắt xích trung gian để phát
hiện ra giá trị thặng dư được tạo ra do bóc lột sức lao động của công nhân. Nhưng
Ricacdo không thể giải quyết Antinomi này vì ông thực hiện bằng con đường đặt
ngay trực tiếp cái cụ thể dưới cái trừu tượng và làm thích nghi trực tiếp cái cụ thể
bằng cái trừu tượng.
Ngoài nguyên nhân do phương pháp siêu hình dẫn đến sai lầm trong các
quan niệm về phạm trù kinh tế và mối quan hệ giai cấp, địa vị giai cấp trong
XHTB, Rôdentan trong công trình nêu trên chỉ ra, xảy ra những sai lầm ấy còn do
các nhà kinh tế học tư sản, kể cả Ricacdo và Smith đều là những nhà tư tưởng của
GCTS, của chế độ tư bản. Họ muốn che đậy những quan hệ hiện thực nhằm duy trì
vĩnh viễn sự lẫn lộn vô lý ấy (chẳng hạn, cố tình nêu bật những quan hệ bên ngoài
và làm lu mờ những quan hệ bên trong) để đánh lạc hướng ý thức GCCN không
cho giai cấp ấy nắm được các phương pháp đấu tranh cần thiết chống lại sự thống
trị của GCTS.
Liên quan đến tiền đề khái niệm GCCN trong CNXH không tưởng - phê
phán Anh, Pháp đầu thế kỷ XIX còn có các công trình: Giáo trình chủ nghĩa xã hội
khoa học [36] của Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia
(2002); Tìm hiểu lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa [90] của Phạm Công Nhất
(2005); ALMANACH những nền văn minh thế giới [20] của Nguyễn Hoàng Điệp


9


(2006), Giáo trình lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa [121] của Đỗ Công Tuấn,
Đặng Thị Linh (2012)… Những công trình này đã có những đánh giá quan trọng
sau: 1/ Về giá trị của CNXH không tưởng: đã phê phán sâu sắc XHTB, chỉ ra được
chính xác chế độ tư hữu là nguồn gốc chủ yếu, cơ bản của những tệ nạn và bất công
trong xã hội ấy; đã nhận thức được mâu thuẫn giữa các giai cấp bị bóc lột và giai
cấp bóc lột, giữa GCTS và GCCN, coi mâu thuẫn đó là nguồn gốc của các cuộc đấu
tranh giai cấp nhằm hướng tới một cuộc sống có tính người hơn; đã có những dự
báo thiên tài về đặc điểm của xã hội tương lai, mà về sau C.Mác, Ph.Ăngghen đã
chứng minh là đúng đắn; một số nhà XHCN không tưởng đã bước đầu nhận thức
được nguồn gốc, tiền thân của GCCN, quá trình tách khỏi các tầng lớp để trở thành
giai cấp độc lập và sự bắt đầu tự ý thức của GCCN về vai trò của nó. Với những giá
trị lịch sử nổi bật, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định CNXH lý luận Đức sẽ
không bao giờ quên rằng nó đứng trên vai của các nhà CNXH không tưởng Anh,
Pháp, mặc dù tất cả tính chất ảo tưởng trong các học thuyết của họ thuộc về những
trí tuệ vĩ đại. 2/Về hạn chế của CNXH không tưởng: CNXH không tưởng mặc dù
đã chỉ ra được chế độ tư hữu là nguồn gốc của áp bức bất công trong xã hội, nhưng
họ lại chưa chỉ ra được chế độ tư hữu sinh ra các tệ nạn xã hội như thế nào và bằng
cách nào; mặc dù có những dự báo chính xác về mô hình xã hội tương lai nhưng họ
lại không thể chỉ ra được con đường, phương thức, phương pháp cách mạng có thể
tạo lập từng bước xã hội đó. Họ chưa thể phát hiện ra được sứ mệnh lịch sử của
GCCN, nên họ cho rằng xã hội tương lai là kết quả của lý tính, của chính nghĩa
tuyệt đối có sẵn ở đâu đó, chưa phải là kết quả thực hiện con đường cách mạng của
GCCN. 3/Nguyên nhân của những hạn chế của CNXH không tưởng là do hạn chế
về mặt lịch sử: Phương thức sản xuất TBCN chưa phát triển đầy đủ, mâu thuẫn giữa
GCCN với GCTS chưa chín muồi, những biện pháp để giải quyết mâu thuẫn cũng
chưa bộc lộ rõ ràng. Tuy nhiên, các công trình này lại chưa nhận thấy việc các nhà
không tưởng chưa nhận thức đúng bản chất GCCN và mối liên hệ nội tại giữa
GCCN với các nội dung của CNXH là nguyên nhân về phương diện logic dẫn đến
CNXH trước Mác rơi vào tình trạng không tưởng và khái niệm GCCN chưa thể trở

thành một khái niệm cụ thể. 4/Ngoài việc xác lập các tiền đề tư tưởng, các công
trình trên cũng phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội của sự ra đời CNXH khoa


10

học nói chung và khái niệm GCCN nói riêng, đó là sự tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất làm cho phương thức sản xuất TBCN được củng cố, phát
triển trên cơ sở vật chất của chính nó. Mâu thuẫn xã hội càng trở nên gay gắt. Xung
đột giữa vô sản và tư sản trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. GCCN xuất hiện
trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập. Thực tiễn
cách mạng của GCCN đòi hỏi một lý luận cách mạng khoa học dẫn đường. Trên cơ
sở ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra học thuyết về những điều kiện giải
phóng GCCN, xã hội và con người.
2.

Các công trình nghiên cứu các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen và

V.I.Lênin có liên quan đến khái niệm giai cấp công nhân
Từ những năm 40 của thế kỷ XIX đến khoảng sau chiến tranh thế giới thứ
nhất, XHTB và GCCN trong xã hội ấy đã phát triển tới trình độ trưởng thành và
ngày càng hoàn thiện hơn. Phản ánh sự trưởng thành ấy là sự ra đời của chủ nghĩa
Mác - Lênin và khái niệm khoa học về GCCN. Đã có không ít công trình nghiên
cứu các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin liên quan đến khái niệm
GCCN. Dưới đây là một số công trình có ý nghĩa với luận án:
* Về các thuật ngữ khác nhau diễn đạt khái niệm giai cấp công nhân
Có nhiều công trình khoa học cho thấy C.Mác và Ph.Ănghen đã sử dụng
nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ khái niệm GCCN. Đó là những thuật ngữ gì?
Nguyễn Thị Quế và Nguyễn Hoàng Giáp (2010) trong Giai cấp công nhân ở các
nước tư bản phát triển từ sau chiến tranh lạnh đến nay – Thực trạng và triển vọng

[98]

viết: “Mác và Ăngghen dùng nhiều thuật ngữ khác nhau như những cụm từ

đồng nghĩa, có nội hàm giống nhau để chỉ giai cấp công nhân như: “giai cấp vô
sản”, “vô sản đại cơ khí”, “vô sản đại công nghiệp”, “giai cấp những người lao
động làm thuê của thế kỷ XIX, “giai cấp vô sản hiện đại”, “giai cấp công nhân hiện
đại”…” [98, 11].
Terry Eagleton (2012) trong cuốn sách Tại sao Mác đúng [16] giải thích
thuật ngữ "giai cấp vô sản" bắt nguồn từ tiếng Latinh, là "con đẻ", có nghĩa là,
những người quá nghèo chỉ có thể phục vụ nhà nước bằng dạ con của mình. Do quá
thiếu thốn không thể đóng góp cho đời sống kinh tế bằng bất kỳ cách nào khác,


11

trong số họ những người phụ nữ sinh ra trẻ em, nuôi chúng thành lực lượng lao
động. Họ không có gì để giao nộp ngoài sản phẩm từ cơ thể họ. Cái mà xã hội yêu
cầu ở họ không phải là sản xuất mà là tái sản xuất. Giai cấp vô sản bắt đầu cuộc
sống từ những thứ nằm ngoài quá trình lao động chứ không phải nằm bên trong quá
trình đó.
*

Về nội hàm khái niệm

Công trình Một số vấn đề phát triển lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế [3] của Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Viết Thông, Bùi Đình Bôn (2010)
cho rằng, trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, GCCN mang hai đặc trưng:
“Thứ nhất, đó là những người lao động công nghiệp trực tiếp hay gián tiếp vận

hành các công cụ sản xuất công nghiệp, tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Thứ hai,
dưới chế độ tư bản, công nhân là những người lao động không có tư liệu sản xuất,
phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị nhà tư bản bóc lột giá trị
thặng dư, có lợi ích căn bản đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản” [3, 11].
Chúng tôi cho rằng, đặc trưng thứ nhất chỉ là dấu hiệu nội hàm của một loại
hình GCCN (tương ứng của một khái niệm chủng thuộc khái niệm GCCN như khái
niệm loại) chứ không phải cho mọi loại hình GCCN, nói cách khác, đó là dấu hiệu
chủng khá sâu sắc giúp phân biệt loại hình GCCN này với những loại hình khác,
chứ chưa phải dấu hiệu nội hàm chung của khái niệm GCCN. Trong sự vận động
của xã hội sẽ nảy sinh những loại hình GCCN không mang dấu hiệu thứ nhất. Đặc
trưng thứ hai bao gồm nhiều dấu hiệu được sắp đặt cạnh nhau, hơn nữa dấu hiệu
“không có tư liệu sản xuất” đã bị thực tế lịch sử cả ở những nước TBCN và những
nước quá độ lên CNXH vượt qua. Công trình chưa nhận thức được trong tư tưởng
của C.Mác, Ph.Ăngghen dấu hiệu phổ biến, trừu tượng có khả năng thống nhất các
dấu hiệu chủng đó và triển khai thành các nội dung khác của khái niệm GCCN,
đồng thời bao quát hết các giai đoạn phát triển của GCCN trong các xã hội mà nó
tồn tại.
Bàn về nội hàm khái niệm GCCN, ngoài công trình trên còn có cuốn sách
Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và công nhân tri thức [108]


12

của Văn Tạo (2008). Cuốn sách này đã hệ thống hóa các quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen về nội hàm khái niệm GCCN. Điều đáng chú ý là trong nghiên cứu
của tác giả này không xuất hiện “đặc trưng 1” - những người lao động trực tiếp
hoặc gián tiếp vận hành công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện
đại và xã hội hóa cao - mà chỉ có “đặc trưng 2” - đó là những người không có
TLSX, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị
thặng dư thuộc về nội hàm khái niệm GCCN. Theo chúng tôi, đây chắc không phải

do tác giả “sơ suất” và chúng tôi đồng tình với việc “sơ suất” ấy.
Điều đặc biệt hơn nữa, Văn Tạo cho rằng quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen
về sứ mệnh lịch sử của GCCN trong Tuyên Ngôn của Đảng Cộng sản: “… giai cấp
tư sản đã rèn vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy
chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản” [68, 605] là sự
chỉ dẫn khi định nghĩa khái niệm GCCN không thể không nói đến sứ mệnh lịch sử
của GCCN.
Như vậy, theo Văn Tạo, nội hàm khái niệm GCCN ngoài đặc trưng thứ hai,
còn có sứ mệnh lịch sử của giai cấp này. Chúng tôi cho rằng, đây là một ý tưởng
khoa học có thể đem lại cách hiểu về GCCN đúng đắn hơn. Tuy nhiên, ở đây Văn
Tạo cũng chưa nhìn ra mối quan hệ giữa sứ mệnh lịch sử của GCCN với đặc trưng
thứ hai và quan hệ nhân cách của GCCN.
Trước đó, cũng Văn Tạo (2007) trong cuốn Giai cấp công nhân Việt Nam với
kinh tế tri thức (cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI) [107] còn liệt kê trong định nghĩa
GCCN tới 10 yếu tố bất biến (sứ mệnh lịch sử của GCCN, người công nhân cần
phải và có thể bán sức lao động để sống, đặc điểm sức lao động của họ là có năng
lực sản sinh ra giá trị thặng dư, công nhân bị tha hóa trong lao động, chủ nghĩa
quốc tế vô sản,…) và 7 yếu tố khả biến (sở hữu của người công nhân, công nhân trí
thức, công nhân dịch vụ, việc bóc lột giá trị thặng dư,…) cần thay đổi, được bổ
sung. Trong đó, tác giả đã tập trung phân tích sự biến đổi của yếu tố bóc lột giá trị
thặng dư trong thời đại ngày nay so với thời kỳ C.Mác sống. Chúng tôi nhận thấy
có những yếu tố Văn Tạo đưa ra là đúng, song vẫn có một số yếu tố khác


13

chưa thể xác định tính đúng - sai, dù sao chúng cũng là những gợi ý quý báu để
chúng tôi suy nghĩ làm luận án.
* Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giáo trình học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân [25] của Bùi

Thị Kim Hậu (2014), thông qua phân tích các tác phẩm kinh điển tiêu biểu, đã cho
thấy quá trình vận động tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của
GCCN. Từ đầu những năm 40 của thế kỷ XIX đến năm 1848, tư tưởng về sứ mệnh
lịch sử của GCCN vận động từ trừu tượng, lẻ tẻ rời rạc rồi định hình và đến hoàn
chỉnh, có tính hệ thống; Từ năm 1848 đến 1871, C.Mác và Ph.Ăngghen có những
tư tưởng cụ thể về những khía cạnh khác nhau của quá trình thực hiện sứ mệnh:
như tính tất yếu, tính chất triệt để của sứ mệnh lịch sử; động lực xã hội cơ bản của
quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử; đấu tranh giai cấp, nhà nước, cách mạng và
chuyên chính vô sản; Từ 1871 đến 1895, các ông tiếp tục luận chứng cho một số
luận điểm về sứ mệnh lịch sử của GCCN như xóa bỏ sở hữu tư nhân, vai trò của
liên minh giai cấp trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN,…; Sau khi C.Mác
và Ph.Ăngghen mất, V.I.Lênin tiến hành bảo vệ và tiếp tục phát triển lý luận sứ
mệnh lịch sử của GCCN trên nhiều nội dung như vấn đề vai trò của quần chúng
nhân dân trong thực hiện sứ mệnh lịch sử; lý luận về những điều kiện bảo đảm
quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cách mạng dân chủ tư sản Nga, về đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản, tính tất yếu phải thiết lập chuyên chính vô sản trong
quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử, vấn đề cách mạng bạo lực, nội dung liên minh
giai cấp…
Sứ mệnh lịch sử là một mặt - mặt khả năng, cùng với những mặt khác cấu
thành khách thể GCCN. Cho nên sự nhận thức về nó bao giờ cũng có tính thứ tự và
là một quá trình. Tính thứ tự ở đây chưa được chú ý nhiều, nhưng các tác giả nêu
trên đã cho thấy được quá trình nhận thức về nội dung sứ mệnh lịch sử của khái
niệm GCCN.
* Liên quan đến sự vận động tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin
về giai cấp công nhân


14

Về vấn đề này có Giáo trình lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa [121] của Đỗ

Công Tuấn, Đặng Thị Linh (2012). Qua công trình này, tác giả nhận thấy, lúc khởi
đầu, tư tưởng về GCCN xuất hiện còn khá trừu tượng, mang tính kinh nghiệm lẻ tẻ,
bên cạnh nhau; dần dần được định hình và trở thành hệ thống. Tác phẩm Tuyên
Ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự hình thành về cơ bản khái niệm GCCN, đưa
khái niệm GCCN từ khái niệm kinh nghiệm thành khái niệm lý luận. Sau Tuyên
Ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác, Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung những yếu tố nội
dung, những quy định mới, phát triển và cụ thể hóa quan niệm liên quan tới GCCN
như: GCCN cần đập tan bộ máy quan liêu trong nhà nước tư sản, thiết lập chuyên
chính vô sản, liên minh giai cấp, quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, thời kỳ cải biến
cách mạng, thời kỳ quá độ chính trị... Với sự ra đời bộ Tư bản của C.Mác, quan
niệm duy vật lịch sử không còn là giả thuyết nữa mà trở thành học thuyết được
chứng minh một cách khoa học; trên cơ sở đó, khái niệm GCCN cũng được làm sâu
sắc thêm bởi Tư bản đã làm sáng tỏ quy luật giá trị thặng dư, luận chứng tính tất
yếu diệt vong của CNTB, sự ra đời của CNXH và sứ mệnh lịch sử của GCCN.
Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen mất, trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc, khái
niệm GCCN được V.I.Lênin bảo vệ, làm giàu thêm nội dung và vận dụng vào thực
tiễn đấu tranh xây dựng chính quyền Xô Viết, cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội
mới ở nước Nga và toàn Liên Xô.
Như vậy, nếu C.Mác và Ph.Ăngghen đã có công làm cho khái niệm GCCN
từ không tưởng trở thành khoa học, thì V.I.Lênin có công phát triển và hiện thực
hóa một phần khái niệm GCCN trong đời sống xã hội nước Nga và thế giới ở hai
thập niên đầu thế kỷ XX.
Qua sự trình bày của tác giả, phù hợp với mục đích luận án của mình, NCS
nhận thấy sự vận động của tư tưởng về GCCN đã được hóa thân trong sự vận động
của khái niệm GCCN xét như hiện tượng độc lập theo chiều hướng nội hàm ngày
càng sâu sắc thêm, ngoại diên được mở rộng và bản thân khái niệm này vận động
trong tương quan với thực tiễn của nó.
*

Bàn về những nội dung cụ thể của khái niệm giai cấp công nhân được sản


sinh trong quá trình nó vận động và phát triển.


15

Tài liệu bàn về tổng thể các nội dung mà GCCN thực hiện trong quá trình
hiện thực hóa bản chất thì có rất nhiều, đó là những tài liệu giới thiệu tác phẩm kinh
điển Mác - Lênin về CNXH, các giáo trình CNXH khoa học. Trong mối quan hệ
với nhiệm vụ luận án, nội dung các tài liệu đó là khá thống nhất. Ở đây, chúng ta
chỉ cần nói tới cuốn Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học [36] của Hội đồng Trung
ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia (2002) là đủ. Công trình này đã đề cập
toàn diện và đầy đủ các nội dung cụ thể của quá trình GCCN thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình như đấu tranh giai cấp, đảng cộng sản, bạo lực cách mạng, cách
mạng XHCN, hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa và các giai đoạn của nó… Tuy
nhiên, việc trình bày các nội dung này còn ở tình trạng riêng rẽ, do đó mối liên hệ
nội tại giữa chúng chưa được thể hiện rõ ràng. Các định nghĩa và quan điểm phản
ánh các nội dung đó chưa được xây dựng như một hệ thống vận động và phát triển;
chưa thể hiện như là các yếu tố, bộ phận, các giai đoạn cấu thành một chỉnh thể
đang vận động và phát triển, chưa thấy nổi rõ vai trò khái niệm chủ - khái niệm
GCCN trong quan hệ với các khái niệm khác của CNXH khoa học. Mặc dù vậy,
chúng vẫn là dữ liệu rất quý báu để chúng tôi tái hiện logic vận động của khái niệm
GCCN.
Nghiên cứu về từng nội dung trong quá trình GCCN hiện thực hóa bản chất
có công trình Đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong điều kiện chủ nghĩa
tư bản phát triển - đặc điểm và xu thế [64] của Nguyễn Thế Lực (1994). Tác giả
công trình này đã chỉ ra một số quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về
đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp của GCCN như sau: sự tồn tại của đấu tranh
giai cấp chỉ gắn liền với những điều kiện lịch sử nhất định; cuộc đấu tranh giai cấp
tất yếu sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản, bản thân chuyên chính chỉ là bước quá độ

tiến tới thủ tiêu tất cả mọi giai cấp, tiến tới xã hội không còn giai cấp; các hình thức
đấu tranh giai cấp của GCCN và vị trí của chúng.
Đấu tranh giai cấp của GCCN lại tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản. Nghiên
cứu về vấn đề này có bài báo Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về cách mạng vô
sản và ý nghĩa của nó trong thời đại hiện nay [31] của Nguyễn Đình Hòa (2006).
Trong bài báo này, tác giả đã chỉ ra một số quan điểm về cách mạng vô sản trong
tác phẩm Hệ tư tưởng Đức như sau:


16

-

Trong xã hội TBCN, mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX biểu hiện về mặt xã

hội là mâu thuẫn giữa GCCN và GCTS chỉ có thể được giải quyết bằng cách mạng
vô sản.
-

Cách mạng vô sản diễn ra theo quy luật lịch sử tất yếu.

-

Cơ sở vật chất để cuộc cách mạng vô sản nổ ra là sự phát triển của LLSX

và sự hình thành giai cấp vô sản cách mạng. Sự phát triển ấy là sự phát triển về
lượng, để tới một giới hạn nhất định sẽ tạo ra “bước nhảy vọt”, tức cuộc cách mạng
vô sản nổ ra.
-


Mục đích cũng như kết quả của cuộc cách mạng này khác về chất so với tất

cả các cuộc cách mạng trong lịch sử.
Phản ánh về cách mạng vô sản còn có cuốn sách Thế giới phẳng - tóm lược
Lịch sử Thế giới Thế kỷ 21 [23] của Thomas L.Friendman (2008). Cuốn sách này
đã diễn đạt thêm quan điểm của C.Mác về mối quan hệ giữa quá trình toàn cầu hóa
với cách mạng vô sản. Michael J. Sandel - nhà lý thuyết chính trị nổi tiếng của Đại
học Hardvard - giải thích, sự mô tả của L.Friendman trong cuốn sách về quá trình
“làm phẳng thế giới” đã được C.Mác, Ph.Ăngghen lần đầu tiên chỉ ra trong tác
phẩm Tuyên ngôn của đảng Cộng sản (1848). Tuy có đôi chút khác biệt về mức độ,
nhưng quá trình “làm phẳng thế giới” ngày nay thực chất là một phần, là sự tiếp
tục của xu hướng lịch sử mà C.Mác đã đề cập trong tác phẩm của ông - đó chính là
dòng chảy của công nghệ và tư bản mà không sức mạnh nào có thể ngăn cản nổi.
Michael J. Sandel còn giải thích thêm, C.Mác coi “quá trình làm phẳng thế
giới” là điềm báo trước một cuộc cách mạng vô sản bằng cách dẫn ra sự phân tích
quan điểm này của C.Mác bởi L.Friendman “… vì một khi chủ nghĩa tư bản đã phá
hủy lòng trung thành dân tộc và tôn giáo, nó sẽ bóc trần toàn bộ cuộc đấu tranh
giữa tư bản và lao động. Buộc phải cạnh tranh trong một cuộc đua toàn cầu đến
cùng kiệt, những người lao động trên thế giới sẽ liên hiệp lại trong một cuộc cách
mạng toàn cầu để chấm dứt sự áp bức. Do không còn bị ru ngủ bởi chủ nghĩa yêu
nước và tôn giáo, họ sẽ thấy việc bị bóc lột một cách rõ ràng và sẽ đứng lên để
chấm dứt nó [23, 349-350].


17

Sự phân tích trên đây cho chúng ta thấy, quan điểm của C.Mác về quá trình
GCTS biến cả thế giới theo hình ảnh của nó và quan hệ của quá trình ấy với việc nổ
ra cuộc cách mạng vô sản cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.
Cách mạng XHCN có nhiều nội dung, trong đó có một nội dung quan trọng

là cách mạng xã hội trên lĩnh vực chính trị. Nhận thức vấn đề này có cuốn Cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị [42] của Nguyễn Thọ Khang (2013).
Bằng việc khảo sát các tác phẩm tiêu biểu của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, tác
giả đã cho thấy sự vận động tư tưởng của các nhà kinh điển về cách mạng xã hội
trên lĩnh vực chính trị; các khái niệm cấu thành lý luận về cách mạng xã hội trên
lĩnh vực này; hệ thống các quy luật trong cách mạng xã hội trên lĩnh vực chính trị.
Thực hiện thành công cuộc cách mạng xã hội trên lĩnh vực chính trị mới là
bước thứ nhất trong tiến trình thực hiện sứ mệnh lịch sử, bước thứ hai, GCCN phải
xây dựng hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa nhằm giải phóng chính bản thân
mình, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin về hình thái xã hội cộng sản chủ
nghĩa, tiêu biểu là cuốn sách Những quan điểm cơ bản của C. Mác - Ph. Ăngghen V.I. Lênin về Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ [14] của Nguyễn Trọng Chuẩn,…
(1997), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học [36] của Hội đồng Trung ương…
(2002); Quan điểm của V.I. Lênin về nhà nước và vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [61] của Trần Ngọc Liêu (2007); Giới thiệu một
số tác phẩm của V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học [122] của Đỗ Công Tuấn
(2013); Giới thiệu một số tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăngghen về chủ nghĩa xã
hội khoa học [43] của Nguyễn Thọ Khang (2013); Quan điểm của C. Mác, Ph.
Ăngghen về thời kỳ quá độ và một số vấn đề đặt ra [45] của Nguyễn Linh Khiếu
(2013). Các công trình này có thể giúp nắm được các giai đoạn và đặc điểm từng
giai đoạn của hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng mà quá trình vận động mâu thuẫn của GCCN phải trải qua.
Bàn về mô hình xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tư tưởng của C.Mác còn có
cuốn Tại sao chúng ta phải kiên định chủ nghĩa Mác [6] của Lê Kim Bình và Đỗ
Minh Hợp (2014). Các tác giả cho rằng quan niệm sở hữu xã hội là sở hữu của mọi


18

người về một cái gì đó là hiểu sai C.Mác, vì sở hữu như thế có thể có về pháp lý

nhưng bất hợp lý về mặt kinh tế. Hơn nữa thay thế chủ thể tư nhân bằng chủ thể tập
thể (mọi người) hoàn toàn không làm thay đổi bản chất của sở hữu. Theo các tác
giả sở hữu xã hội nên được hiểu là sở hữu của mỗi người về tất cả. “Nếu tự do của
mỗi người là điều kiện tự do của mọi người, thì sở hữu của mỗi người (đối với toàn
bộ của cải) là điều kiện cho sở hữu của mọi người, cho sở hữu xã hội. Sở hữu xã
hội (…) là sở hữu thuộc về mỗi người và, do vậy, thuộc về mọi người cùng nhau”
[6, 137]. Thứ của cải có thể vừa thuộc về mỗi người đồng thời là điều kiện thuộc về
mọi người như thế là khoa học và văn hóa nói chung vì chúng không thể bị tư hữu
hóa và không thể bị phân chia ra từng phần được. Sở hữu xã hội được hiểu như vậy
theo hai tác giả mới là con đường dẫn đến “vương quốc của tư do”.
Ý

kiến của các tác giả về quan điểm của C.Mác đối với sở hữu xã hội và tự

do là khá mới mẻ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu văn hóa và khoa học đúng là có
tính chất thuộc về mỗi người đồng thời thuộc về mọi người, nhưng trong điều kiện
còn chế độ tư hữu thì điều đó không cản trở việc chúng trở thành của cải độc chiếm
của ai đó. Sự thật là những phát minh, sáng chế… trong quan hệ làm thuê, thì nó
không thuộc về tất cả mọi người. Nó vẫn là những bí mật của nhà kinh doanh, của
những người có tiền.
Với sự vận động của kinh tế, ngày nay trong GCCN đã và đang nảy sinh
thêm thành phần công nhân trí thức. Tuy nhiên, công nhân trí thức đã được các nhà
kinh điển mácxít bàn tới từ thời của các ông rồi. Đề cập tới tư tưởng về công nhân
trí thức của C.Mác, Ph.Ăngghen có công trình Trí thức hóa công nhân Việt Nam
trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay [24] của Bùi Thị Kim Hậu (2012) và Công
nhân trí thức ở thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa [100] của Trần Thị Như Quỳnh (2102). Trong cuốn sách của mình, Bùi Thị
Kim Hậu đã cho thấy một số quan điểm về công nhân trí thức của C.Mác,
Ph.Ăngghen. Thứ nhất, điều kiện để GCCN hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình,
là họ phải có ý thức chính trị, lập trường giai cấp, trình độ học vấn, chuyên môn và

tay nghề cao. Thứ hai, khẳng định tầm quan trọng của tri thức khoa học và yếu tố
tinh thần của lao động trong LLSX đại công nghiệp. GCTS thấy rõ tầm quan trọng
đặc biệt của yếu tố này nên đã tìm mọi cách buộc công nhân phải nâng cao trình độ


19

chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và lợi
nhuận. Nhờ đó, tri thức khoa học ngày càng thâm nhập vào công nhân. Thứ ba,
khẳng định với sự tăng lên tính trí tuệ trong quá trình sản xuất với máy móc ngày
càng hiện đại thì “thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, người công
nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy”. Khi chuyển nốt những tri thức điểu khiển vào
cho máy thực hiện, con người chỉ đóng vai trò người kiểm soát toàn bộ quá trình
sản xuất, lúc đó con người mới hoàn toàn được giải phóng. Thứ tư, khẳng định xu
hướng ra đời và phát triển ngày càng tăng của bộ phận “giai cấp vô sản trí thức”
trong cơ cấu GCCN gắn liền với quá trình phát triển giáo dục đại học. Thứ năm, dự
báo về sự xích lại gần nhau và “mất tính độc lập” giữa lao động chân tay và lao
động trí óc trong quá trình sản xuất. Thứ sáu, khẳng định tầm quan trọng của ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất với việc xóa bỏ XHTB và đem lại tự do cho
con người. Dưới CNTB, việc giảm thời gian lao động cần thiết là nhằm tăng thời
gian lao động thặng dư; trong XHCN, việc giảm thời gian lao động cần thiết xuống
mức tối thiểu nhằm giải phóng con người.
Đỗ Minh Hợp, Lê Kim Bình (2014) trong Tại sao chúng ta phải kiên định
chủ nghĩa Mác [6] và Ngô Thị Huyền, Chung Thị Vân Anh (2016) trong bài Vấn
đề tha hóa và giải phóng lao động khỏi sự tha hóa trong triết học Mác [38] đã đề
cập tới cách hiểu của C.Mác về lao động bị tha hóa, biểu hiện, nguyên nhân và con
đường giải phóng lao động khỏi sự tha hóa. Các tác giả cho thấy, trong tư tưởng của
C.Mác, muốn giải phóng lao động khỏi sự tha hóa, trả lại cho con người bản chất
“Người” của mình, phải xóa bỏ chế độ tư hữu, trực tiếp là chế độ sở hữu tư nhân
TBCN. Muốn đạt được điều đó, cần phải có cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp

vô sản nhằm xóa bỏ sự thống trị của GCTS, xác lập sự thống trị của giai cấp vô sản.
Sau khi xóa bỏ chế độ TBCN, GCCN và nhân dân lao động bắt đầu xây dựng một
xã hội mới mà ở đó, sự tự do và phát triển toàn diện của mỗi người là điều kiện cho
sự tự do và phát triển toàn diện của mọi người.
Vấn đề tha hóa được đề cập bên trên chứa đựng một “đường dẫn logic” giúp
chúng ta có thể xâu chuỗi các tính quy định của công nhân trong một trình tự tất
yếu nhất định. Tuy nhiên, “đường dẫn” này cần được tiếp tục nghiên cứu thêm.


×