Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Sở giao dịch I
3.1. Định hướng hoạt động cho vay của Sở giao dịch I trong những năm tới
3.1.1. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Nền kinh tế nước ta trong những năm qua tăng trưởng tương đối ổn định, là
điều kiện thuận lợi cho các DN mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng
thời, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng
phát triển trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Số lượng các doanh nghiệp mới
thành lập ngày càng nhiều và tăng trưởng nhanh chóng mà chủ yếu là các
DNV&N. Các DN này chiếm một số lượng đông đảo và đóng góp quan trọng
vào phát triển kinh tế. Các DN vừa và nhỏ chịu sự giới hạn về vốn, trình độ
công nghệ thấp, trang thiết bị lạc hậu, thiếu đồng bộ… nên dẫn đến việc các
DNV&N gặp khó khăn trong việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh
tranh và chiếm lĩnh thị trường kém… Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa và tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, khi mà Việt Nam đã gia nhập AFTA,
hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực từ 2001 và
trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO thì các
DNV&N trong nước nếu không nâng cao được khả năng cạnh tranh, cải thiện
tình hình sản xuất kinh doanh thì rất khó có thể đứng vững trước sức ép cạnh
tranh từ bên ngoài. Chính vì thế, trong những năm tới nhu cầu vay vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực cạnh tranh
của các DN này là rất lớn.
Nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế giai đoạn 2005 – 2010 thì định hướng
phát triển DNV&N trong thời gian tới được xác định như sau:
- Thứ nhất: Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, có ưu thế là tạo được nhiều công ăn việc làm. Điều này hết sức quan
trọng đối với một nước đang phát triển có tiềm năng về lao động nhưng cũng lại
là một gánh nặng đối với xã hội như Việt Nam. Phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ vừa góp phần thu hút thêm lao động, giảm sức ép về việc làm, tăng thêm
thu nhập để cải thiện đời sống cho người lao động; vừa góp phần sử dụng tốt
hơn nguồn lực sẵn có của nền kinh tế là lao động, tạo tiền đề cho các giai đoạn
phát triển về sau. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là một cơ hội cho
các nhà đầu tư tự huy động vốn của mình và những người khác để tham gia vào
kinh doanh. Đây cũng là một biện pháp nhằm làm tăng tỷ lệ tích lũy của nền
kinh tế để đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
- Thứ hai: Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được ưu tiên phát triển trong một số
ngành nghề có lựa chọn là:
Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và
hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh.
Các ngành tại đầu vào cho các doanh nghiệp lớn, cũng như trong
các lĩnh vực phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của doanh nghiệp
lớn (tức là phân phối sản phẩm, chế biến sâu…).
Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản
phẩm thuộc các ngành nghề truyền thống .
- Thứ ba: Doanh nghiệp vừa và nhỏ được khuyến khích phát triển trong một
số ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia.
- Thứ tư: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết chặt chẽ với
các doanh nghiệp lớn. Mối liên kết chặt chẽ phải được thể hiện qua các khía
cạnh sau:
Phân công chuyên môn hóa giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với
doanh nghiệp lớn sao cho có hiệu quả. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
vừa tạo đầu vào vừa góp phần tạo đầu ra cho các doanh nghiệp
lớn.
Doanh nghiệp lớn hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ về đào tạo
tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh
nghiệm quản lý.
Giao thầu lại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ những phần việc trong
những hợp đồng lớn mà các doanh nghiệp lớn ký kết với Nhà
nước.
- Thứ năm: Nên có một khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn dành
riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, sự ra
đời của các khu công nghiệp vừa và nhỏ tập trung sẽ có một số tác dụng sau:
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về cơ sở
hạ tầng: điện, nước, thông tin liên lạc, tiếp cận thị trường, giải
quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Nhà nước dễ dàng thực hiện chính sách ưu đãi và tiến hành hỗ trợ
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong khu công nghiệp.
Như vậy, có thể nói rằng trong những năm tới bên cạnh số lượng các
DNV&N đã thành lập (khoảng 300.000 DN) thì sẽ có rất nhiều các DNV&N
được thành lập ở tất cả các ngành nghề. Vì thế, nên nhu cầu vay vốn của các đối
tượng này trong tương lai là rất lớn, và là một nhu cầu bức xúc đối với nền kinh
tế. Tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam, hoạt động cho vay
đối với DNV&N đã và đang được chú ý, và tầm quan trọng của loại hình DN
này cũng đang ngày càng được nâng cao. Nhận thức của Sở về đối với các
DNV&N mà nhất là các DN ngoài quốc doanh đã có những thay đổi theo chiều
hướng tích cực và Sở cũng đã và đang từng bước thay đổi cho phù hợp định
hướng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.
3.1.2. Định hướng hoạt động cho vay DNV&N của Sở giao dịch I – Ngân
hàng Công thương Việt Nam
Nhận thấy được xu hướng và diễn biến của nền kinh tế trong những năm tới,
Ban Giám Đốc Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam đã đề ra
định hướng trong hoạt động của Sở trong thời gian tới như sau:
- Tiếp cận, rà soát, phân loại DNV&N, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển
sản xuất kinh doanh, làm tốt công tác tiếp thị để thu hút khách hàng, tăng cơ cấu
tỷ trọng dư nợ DN ngoài quốc doanh lên đến trên 50% dư nợ cho vay DNV&N.
- Mở rộng đối tượng khách hàng
Đối với các DN xuất khẩu có quy mô vừa và nhỏ, ưu tiên tập
trung vào các lĩnh vực hàng thủ công mỹ nghệ, nông sản xuất
khẩu.
Các DN sản xuất có quy mô vừa và nhỏ, đặc biệt quan tâm đến
lĩnh vực chế biến nông lâm, sản xuất hàng tiêu dùng có chất
lượng cao, lắp ráp và chế tạo các phương tiện vận tải.
- Tiếp tục tăng trưởng dư nợ lành mạnh, an toàn, hiệu quả, nâng cao chất
lượng thẩm định dự án đầu tư.
- Duy trì tỷ trọng cho vay DNV&N ở mức cao, phấn đấu đến năm 2010 tỷ
trọng cho vay DNV&N chiếm 70% tổng dư nợ cho vay và chú trọng hơn nữa
đến việc cho vay trung, dài hạn đối với các DNV&N, đạt chỉ tiêu từ 30 - 40%
dư nợ cho vay DNV&N là cho vay trung, dài hạn mà Ngân hàng Công thương
Việt Nam đề ra cho Sở giao dịch I.
- Công tác quản trị rủi ro phải được đặc biệt chú ý và xây dựng theo định
hướng của một ngân hàng hiện đại.
- Các quy chế tín dụng cần phải được củng cố và hoàn thiện, tiếp tục cải
tiến quy trình tín dụng cho phù hợp với thực tế hoạt động cho vay DNV&N của
Sở giao dịch I.
- Nâng cao chất lượng của đội ngũ CBTD làm công tác cho vay thông qua
việc tuyển dụng, đào tạo lại, tập huấn… để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt
động cho vay của Sở.
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Sở giao dịch I
Trên cơ sở nhận xét, phân tích về vai trò của DNV&N trong nền kinh tế,
cũng như thực trạng hoạt động cho vay đối với DNV&N tại Sở giao dịch I –
Ngân hàng Công thương Việt Nam, em xin đề xuất một số giải pháp sau:
3.2.1. Hoàn thiện chính sách cho vay & đơn giản hóa quy trình cho vay đối
với các DNV&N
Chính sách cho vay là một hệ thống các nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và
đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Chính sách cho vay là
cơ sở tham khảo cho các CBTD thực hiện công việc trong quyền hạn của mình.
Chính sách cho vay của Sở nên đề ra quy trình cụ thể trong việc kiểm tra, giám
sát hoạt động cho vay, xây dựng mục tiêu hoạt động cho vay hợp lý theo định
hướng phát triển của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, Sở cần phải xây dựng quy trình cho vay riêng đối với các
DNV&N. Theo số liệu thống kê chưa chính thức của Tổng cục thống kê, đến
cuối năm 2007, các DNV&N chiếm khoảng 96% tổng số DN trên cả nước, đóng
góp 42% vào GDP. Với mức tăng trưởng trung bình dự kiến trong những năm
tới đạt mức 30%/năm làm cho nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh
của các DN này gia tăng mạnh mẽ. Thêm vào đó, hoạt động cho vay đối với
DNV&N là một hoạt động chính trong việc sử dụng vốn và mang lại lợi nhuận
không nhỏ cho Sở. Chính vì thế mà một chính sách cho vay hợp lý đóng vai trò
rất quan trọng trong chiến lược phát triển của Sở giao dịch I.
Hiện nay, thủ tục cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I vẫn còn rất
phức tạp. Các DN khi gửi hồ sơ vay vốn đến Sở giao dịch phải qua rất nhiều
khâu thẩm định, thủ tục về mặt giấy tờ vẫn là một gánh nặng với DN. Vì thế,
Sở giao dịch cần phải đơn giản hóa hơn nữa quy trình cho vay để các DNV&N
có thể tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn. Cùng với việc hoàn thiện chính sách
cho vay và đơn giản hóa quy trình cho vay, Sở giao dịch I cũng cần phải kết hợp
với việc hoàn thiện và bổ sung các sản phẩm phù hợp với đối tượng khách hàng
DNV&N theo 02 hướng: Thiết kế lại sản phẩm hiện có cho phù hợp với nhu cầu
DNV&N; và triển khai nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới thông qua điều tra,
khảo sát nhu cầu khách hàng và học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng trong
và ngoài nước.
3.2.2. Đổi mới cơ cấu huy động vốn
Vốn huy động của ngân hàng chưa được sử dụng có hiệu quả tối đa. Tỷ lệ
Dư nợ/ Tổng vốn huy động trong 3 năm đều không vượt quá 20%. Lý giải cho
vấn đề này là tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trong tổng vốn huy động của Sở
chiếm tỷ trọng lớn, mà đây là một nguồn không thích hợp để cho vay của ngân
hàng như đã nói ở trên. Cũng bởi vì tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp lớn mà đây
là một nguồn không có tính ổn định, nên ảnh hưởng trực tiếp đến việc cho vay
đối với DNV&N. Như đã phân tích ở trên, có đến 70-80% dư nợ cho vay đối
với DNV&N là dư nợ ngắn hạn, còn dư nợ trung, dài hạn chỉ chiếm tỷ trọng
nhỏ so với mục tiêu đề ra của Ngân hàng Công thương Việt Nam là từ 30 - 40%
dư nợ cho vay DNV&N.
Trong những năm tới, Sở giao dịch I cần đổi mới cơ cấu nguồn vốn huy
động theo hướng giảm tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp, tăng tỷ trọng nguồn vốn
huy động trung, dài hạn từ trong dân cư và các thành phần kinh tế khác để gia
tăng nguồn vốn có thể cho vay trung, dài hạn của Sở. Thêm vào đó, tích cực
khai thác tối đa các nguồn vốn rẻ, dài hạn khác để tài trợ cho DNV&N để bổ
sung nguồn tài trợ cho các DNV&N. Qua đó có thể mở rộng được Dư nợ cho
vay đối với nền kinh tế nói chung và dư nợ đối với các DNV&N nói riêng.
3.2.3. Đa dạng hóa các loại tài sản đảm bảo tiền vay và tính đúng giá trị tài
sản đảm bảo theo giá trị thị trường
Trong những năm tới, Sở giao dịch I cần thiết phải từng bước đa dạng hóa
các loại tài sản đảm bảo tiền vay nhằm tạo điều kiện nâng cao khả năng đáp ứng
tài sản đảm bảo cho DN vay vốn. Ngân hàng có thể xem xét chấp nhận toàn bộ
hoặc chấp nhận từng phần các loại tài sản đảm bảo là bất động sản và các tài sản
gắn liền với đất đai. Hiện nay, tài sản đảm bảo của khách hàng chủ yếu là quyền
sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất. Vì thế, ngoài các tài sản đảm bảo thông
thường, Sở giao dịch I cũng nên mở rộng việc nhận thế chấp đối với các loại tài
sản khác như các giấy tờ trị giá bằng tiến, cổ phiếu, trái phiếu… Từng bước mở
rộng đối tượng tài sản đảm bảo theo hướng: giá trị của tài sản đảm bảo đủ lớn
để thực hiện nghĩa vụ bảo đảm; tài sản đảm bảo có khả năng thanh khoản tốt và
có cơ sở pháp lý, thuận tiện cho ngân hàng trong việc xử lý.
Như đã đề cập ở trên về việc tính toán giá trị tài sản đảm bảo của khách
hàng, có một nghịch lý là khi nhận thế chấp tài sản quyền sử dụng đất ở và
quyền sở hữu nhà ở, Sở giao dịch I vẫn tính theo khung giá quy định của UBND
thành phố Hà Nội và theo Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Thủ tướng Chính
Phủ về thi hành luật đất đai để xác định mức cho vay. Chính vì vậy, giá trị tài
sản đảm bảo của khách hàng thường không tương xứng với giá trị thực, nhất là
quyền sử dụng đất ở; bởi vì giá trị quyền sử dụng đất ở mà UBND các tỉnh,
thành phố đưa ra chỉ để tính thuế chứ không phải để bán và trao đổi trên thị
trường. Do đó đã làm hạn chế khả năng vay vốn của khách hàng. Thêm vào đó,
việc quy định mức cho vay tối đa là 70% giá trị tài sản đảm bảo là bất động sản
lại càng cho vốn vay ngân hàng của các DNV&N đã ít thì nay càng ít hơn. Do
đó, Sở giao dịch cần có những quy định cụ thể về phương pháp xác định giá trị
tài sản đảm bảo là đất ở, tài sản gắn liền với đất để giúp cho DN có cơ hội vay
được vốn nhiều hơn.
Việc đa dạng các loại hình tài sản đảm bảo và tính giá trị tài sản đảm bảo
theo giá trị thị trường sẽ tháo gỡ cho các doanh nghiệp nhất là các DNV&N