Tải bản đầy đủ (.docx) (181 trang)

Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học hệ đại học tại trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh vĩnh phúc trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 181 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THƯỜNG

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY
HỌC HỆ ĐẠI HỌC TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG
XUYÊN TỈNH VĨNH PHÚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2008


Đại học quốc gia hà nội
Khoa sư phạm

Nguyễn Thị Thường

Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học
Hệ Đại học tại Trung tâm giáo dục thường xuyên
Tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 1405
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Đức Chính

Hà Nội - 2008



LỜI CẢM ƠN

Tập luận văn này được hoà thành là kết quả của sự cố gắng của bản thân
cùng sự giúp đỡ của quý thầy cô và bạn bè. Tác giả xin trân trọng cảm ơn
GS.TS Nguyễn Đức Chính, người trực tiếp hướng dẫn cho tác giả hoàn thành
luận văn. Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các Giáo sư, Phó giáo sư tiến sĩ Khoa
sư phạm - Đại học Quốc Gia Hà Nội đã cung cấp nhiều kiến thức bổ ích trong
quá trình dạy các chuyên đề của khóa học và đã quan tâm nhiệt tình góp ý cho
tác giả trong quá trình thực hiện đề tài. Xin cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa và
các đơn vị chức năng Khoa sư phạm - Đại học Quốc gia Hà nội đã tạo điều
kiện cho tác giả suốt thời gian học.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo và tập thể cán bộ, giáo viên, công
nhân viên Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc và các bạn lớp 2, Cao học QLGD
Khoá 6, Khoa sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội đã động viên giúp đỡ và
cộng tác để tác giả hoàn thành luận văn này.
Trong luận văn này, tác giả muốn trao đổi cùng quý bạn đọc về biện
pháp nâng cao chất lượng dạy học hệ Đại học tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh
Phúc. Hy vọng rằng nó có thể góp phần giúp bạn đọc hiểu thêm một phần về
công tác quản lý hệ Đại học đào tạo liên kết nói chung và quản lý hệ Đại học
đào tạo liên kết tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Mặc dù đã cố gắng nhưng tập luận văn này không khỏi còn có những
bất cập, hạn chế. Tác giả rất mong quý bạn đọc thông cảm và đóng góp ý kiến.
Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 2007

Tác giả

Nguyễn Thị Thường



KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

GDT X

: Giáo dục thường xuyên

GDKCQ

: Giáo dục không chính quy

KCQ

: Không chính quy

THCS

:Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

THCN

: Trung học chuyên nghiệp

ĐH

: Đại học


HV

: Học viên

ĐHSP

: Đại học sư phạm

ĐHQG

: Đại học quốc gia

GD

: Giáo dục

GD&TĐ

: Giáo dục và thời đại

GD-ĐT

: Giáo dục - Đào tạo

QL

: Quản lý

QLGD


: Quản lý giáo dục

KT-XH

: Kinh tế – Xã hội

CNH – HĐH

: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá

KHCN

: Khoa học công nghệ

CB–CC

: Cán bộ - Công chức

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

TCVN

: Tiêu chuẩn Việt Nam.

CSVC&TTB

: Cơ sở vật chất và trang thiết bị



MỞ Đầu
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................
2. Mục đích nghiên cứu....................................................................................................
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ...........................................................................
4. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................................
5. Giả thuyết khoa học ....................................................................................................
6. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu ..................................................................................
7. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..................................................................
8. Phương pháp nghiên cứu khoa học..............................................................................
9. Cấu trúc luận văn ..........................................................................................................
Chương 1: Cơ sỞ lý luận của vấn Đề nghiên cứu..............................
1.1. Vài nét về lịch sử của vấn đề đào tạo liên kết...........................................................
1.2. Một số khái niệm cơ bản.........................................................................................
1.2.1. Khái niệm về quản lý............................................................................................
1.2.2. Khái niệm về giáo dục thường xuyên .................................................................
1.2.3. Khái niệm về dạy học về chất lượng quá trình dạy học.....................................
1.3. Giáo dục Đại học và các phương thức đào tạo bậc Đại
học..................................
1.3.1. Đào tạo phương thức chính quy Tập
trung..........................................................

1.3.2. Đào tạo phương thức liên kết...............................................................................
1.3.3. Vai trò của Trung tâm giáo dục thường xuyên Tỉnh……………………......32

1.3.4. Vai trò của trường Đại học...................................................................................
1.4. Những yêu cầu về chất lượng của phương thức đào tạo liên kết trong
giai đoạn mới.....................................................................................................
1.4.1. Đáp ứng được nhu cầu hiện tại về tương lai của địa phương về nguồn



nhân lực được đào tạo Đại
học........................................................................................
1.4.2. Thủ tục quy trình quản lý lớp đào tạo liên kết
....................................................34
1.4.3. Đảm bảo các điều kiện vật chất kỹ thuật.............................................................
1.4.4. Cải tiến liên tục......................................................................................................

Tiểu kết chương 1………………………………………………..…………….....36

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý quá trình dạy
học hệ Đại học tại Trung tâm Giáo dỤc thường xuyên tỉnh Vĩnh
Phúc……………………………...………….…………………..37
2.1. Tình hình Kinh tế - Xã hội và Giáo dục- Đào tạo tỉnh Vĩnh
Phúc……………37
2.1.1. Tình hình Kinh tế- Xã hội............................................................................................... 37
2.1.2. Tình hình Giáo dục - Đào tạo........................................................................................ 39
2.2. Vài nét khái quát về Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc...42
2.2.1. Tiến trình phát triển, chức năng và nhiệm vụ........................................................ 42
2.2.2. Cơ cấu tổ chức....................................................................................................................... 43
2.3. Thực trạng hoạt động dạy học hệ Đại học tại Trung tâm Giáo dục thường
xuyên tỉnh Vĩnh Phúc...................................................................................................................... 45
2.4. Thực trạng quản lý quá trình dạy học hệ Đại học tại Trung tâm Giáo dục
thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc…………………………………………………….54

2.5. Những điểm mạnh và hạn chế trong công tác quản lý hệ Đại học tại
Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc…………………………..…..66

2.5.1. Những điểm mạnh………………………………………………………....66


2.5.2. Hạn chế..................................................................................................................................... 67
2.5.3. Nguyên nhân của những hạn chế................................................................................. 68
Tiểu kết chương 2............................................................................................................................. 68


Chương 3: Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học hệ Đại học tại
Trung tâm Giáo dỤc thường xuyên tỉnh Vĩnh
Phúc..................................................................................................................
3.1. Các nguyên tắc để xây dựng biện pháp…………………….……………....
3.2. Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học hệ Đại học tại Trung tâm
Giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc .......................................................................
3.2.1. Biện pháp 1: Quy hoạch nguồn nhân lực có trình độ Đại học đáp ứng
yêu cầu hiện tại và tương lai của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời kỳ mới…………….....70

3.2.2. Biện pháp 2: Xây dựng quy trình đào tạo đặc thù cho phương thức liên kết
và quản lý chặt chẽ quá trình dạy học……………………………………….........75

3.2.3. Biện pháp 3: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và các trang thiết bị ngày
càng hiện đại phục vụ quá trình dạy học………………………………………......85

3.2.4. Biện pháp 4: Cải tiến liên
tục…………………………………………….…89
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp………………………………………….......93
3.4. Khảo nghiệm tính cấp thiết, tính khả thi của các biện pháp …………………..94

Tiểu kết chương 3……………………………..…………………………..............
Kết luận và khuyến nghị…………………………………......….......100
1. Kết
luận………………………………………………………………….........100
2.

Khuyến nghị
………………………………………………………….............101

DANH MỤC TàI LIệU THAM KHảO…………………………………….103

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục thường xuyên (GDTX) hay còn gọi là giáo dục không chính
quy (KCQ), học tập suốt đời là phương thức giáo dục xuất hiện nhiều ở khắp
các quốc gia trên thế giới đặc biệt là nước phát triển. Ở nước ta, hình thức giáo
dục giáo dục này có từ lâu. Theo số lượng thống kê của Bộ giáo dục và đào
tạo, qui mô giáo dục KCQ chiếm khoảng 50% trong hệ đào ở bậc Đại học,
Cao đẳng theo 3 hình thức: Tại chức (vừa học vừa làm), từ xa và chuyên tu
(Hoàn chỉnh kiến thức, liên thông).Trong những năm qua, Đào tạo không
chính quy đặc biệt là hình thức liên kết đào tạo đã góp phần vào việc đáp ứng
yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực tại địa phương góp phần nâng cao dân trí, đào
tạo nhân nguồn nhân lực. Tuy nhiên, với tốc độ gia tăng qui mô trong khi điều
kiện đáp ứng của các cơ sở đào tạo không tương thích, người học với mục
đích hoàn thiện bằng cấp, việc quản lý ở một số cơ sở đào tạo còn lúng túng…
khiến chất lượng đào tạo còn có những bất cập gây dư luận không tốt đối với
hình thức giáo dục này, khoảng cách chất lượng giữa hệ chính quy và không
chính quy bị “Phân biệt đối xử”.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, sự ra đời của nền kinh tế tri
thức, xã hội thông tin và sự toàn cầu hóa đã và đang tác động trực tiếp đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có giáo dục và đào tạo. Trước tình
hình ấy nhiều quốc gia đã đề ra chiến lược phát triển giáo dục để đào tạo và
nâng cao chất lượng lao động lên ngang tầm với các tiến bộ của Khoa học và

Công nghệ. Chiến lược phát triển giáo dục quốc gia 2001-2010 ở nước ta nhấn
mạnh: “Phát triển giáo dục KCQ như là một hình thức huy động tiềm năng
của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi
trình độ, mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp với hoàn cảnh
và điều kiện của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn
nhân lực”.

1


Xây dựng “xã hội học tập” là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta
trong xã hội hiện đại. Trong “xã hội học tập” đó, GDTX như là một hiện diện
tất yếu và có sức sống mạnh mẽ, GDTX đã tự khẳng định vị trí, vai trò của
mình trong hệ thống giáo dục quốc dân. Luật giáo dục được nước cộng hòa
XHCN Việt Nam thông qua ngày 14/06/2005, có hiệu lực từ 1/1/2006 đã
khẳng định: “ Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo
dục thường xuyên”. “GDTX giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục,
học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình
độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm
việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội” ( Điều 44). “Cơ sở
giáo dục Đại học khi thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên lấy bằng
tốt nghiệp Cao đẳng, bằng tốt nghiệp Đại học chỉ được liên kết với cơ sở giáo
dục tại địa phương là trường Đại học Trưỡng Cao đẳng, Trường Trung cấp,
Trung tâm GDTX các Tỉnh với điều kiện cơ sở tại địa phương đảm bảo các
yêu cầu về vật chất, thiết bị và cán bộ quản lý cho việc đào tạo trình độ Cao
đẳng, trình độ Đại học” (Điều 46).
Giáo dục thường xuyên được đưa vào luật giáo dục là sự khẳng định về
mặt pháp lý Quốc gia, sự tồn tại và phát triển của các Trung tâm GDTX. Luật
giáo dục sửa đổi năm 2005 vừa mở rộng lực lượng tham gia, vừa đặt ra những
yêu cầu cao hơn về chất lượng. Vấn đề liên kết đào tạo tại địa phương được

quan tâm hơn.
Đảm bảo chất lượng và hiệu quả của quá trình đào tạo hệ Đại học theo
hình thức liên kết phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Đối tượng tham gia học tập,
chất lượng giờ giảng, việc tổ chức và quản lý lớp học, điều kiện kinh phí, cơ
sở vật chất và các trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập. Hiện nay, khó
khăn lớn nhất đối với các cơ sở liên kết đào tạo là đối tượng tham gia học tập
(học viên) khác nhau về độ tuổi, về khả năng tư duy và vận dụng thực tiễn, về
ý trí, động cơ, mục đích học tập…Để nâng cao chất lượng Dạy học cần có
biện pháp quản lý. Phát biểu tại hội nghị tổng kết về giáo dục KCQ năm 2007,
2


Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân cho rằng: “Kiểu
đào tạo tốc hành ở hệ KCQ khó có thể đạt được chất lượng như mong muốn”…,
“phải thay đổi nhận thức của nhiều người coi chất lượng đào tạo KCQ đương
nhiên thấp hơn chính quy, từ đó không có sự đầu tư tương thích và có động cơ
phấn đấu cho chất lượng” (Báo GD&Thời đại số ra ngày 23/02/208). Để khắc
phục bất cập về chất lượng, Bộ GD &ĐT yêu cầu thời gian tới phải tăng cường
quản lý chặt chẽ, chuẩn bị các điều kiện tương xứng với quy mô đào tạo, quy
trình đào tạo mềm dẻo.... Với những vẫn đề nóng bỏng đó,

vai trò của các Trung tâm GDTX cấp Tỉnh, đơn vị có chức năng và nhiệm vụ
hỗ trợ, liên kết đào tạo cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải trăn trở. Việc tìm ra
các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học là một vấn đề cấp thiết đối
với các cơ sở liên kết đào tạo hiện nay. Mười năm xây dựng và trưởng thành,
với chức năng , nhiệm vụ được UBND tỉnh giao, Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh
Phúc đã duy trì ổn định quy mô đào tạo, song chất lượng Dạy học chưa được
nâng cao . Là người quản lý tại cơ sở liên kết đào tạo tại địa phương (Trung
tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc), tôi càng nhận thấy trách nhiệm của mình trong
việc quản lý nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng

với yêu cầu phát triển KT- XH của tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn mới, bởi
vậy việc tìm ra các biện pháp nâng cao chất lượng Dạy học hệ Đại học theo
hình thức liên kết là rất cần thiết.
Với những lý do đó, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp quản lý
nâng cao chất lượng Dạy học hệ Đại học tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc
trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp quản lý
nâng cao chất lượng Dạy học hệ Đại học tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc
trong giai đoạn hiện nay.
3.

Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu

3.

1. Khách thể nghiên cứu

3


Quy trình đào tạo hệ Đại học nói chung và đào tạo hệ Đại học theo hình
thức liên kết nói riêng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học hệ Đại học tại Trung
tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
4.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích đề ra trong luận văn, đề tài nghiên cứu dự


kiến triển khai 3 nhiệm vụ sau:
-

Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý quá trình dạy học hệ Đại học

theo hình thức liên kết và chất lượng dạy học của các lớp này.
-

Đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân thực trạng của công tác

quản lý hệ Đại học tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc.
-

Đề xuất các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học hệ Đại

học tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc, khảo nghiệm các biện pháp quản lý
nhằm khẳng định tính cấp thiết và tính khả thi của biện pháp để nâng cao chất
lượng đào tạo hệ Đại học tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn
hiện nay.
5.

Giả thuyết khoa học
Hiện nay chất lượng đào tạo các lớp hệ Đại học tại Trung tâm GDTX

tỉnh Vĩnh Phúc đã đảm bảo nhưng chưa cao, nguyên nhân chủ yếu là do công
tác quản lý. Đề xuất được các biện pháp quản lý thì sẽ nâng cao được chất
lượng dạy học hệ Đại học tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc, đáp ứng được
yêu cầu đổi mới của sự nghiệp giáo dục hiện nay.
6.


Phạm vi và giới hạn nghiên cứu

6.

1 Phạm vi nghiên cứu

Đề tài chỉ dừng lại ở việc đề xuất một số biện pháp quản lý nâng cao
chất lượng dạy học hệ Đại học tại Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc trong giai
đoạn hiện nay, khảo nghiệm về tính cấp thiết và tính khả thi của biện pháp.
6.2. Giới hạn nghiên cứu: Giới hạn đề tài tập trung nghiên cứu trong thời
gian 5 năm (Từ năm 2003 đến nay).
4


7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
công tác quản lý hệ Đại học theo hình thức liên kết.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu đề tài sẽ là một cơ hội để tìm hiểu, đánh
giá và đề xuất biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học hệ Đại học tại
Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc nơi mà tác giả đang trực tiếp làm công tác
quản lý. Đề tài này nếu được thông qua và chấp thuận sẽ có ý nghĩa thiết thực
cho hoạt động quản lý của Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc theo tinh thần
khoa học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học hệ Đại học tại Trung tâm
GDTX tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, tôi sử dụng
nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
8.1. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những tư liệu, các tài liệu, các báo cáo

khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Nghiên cứu luật giáo dục, các chỉ thị, nghị quyết, văn kiện của Đảng,
Nhà nước, Các quy chế về tổ chức và hoạt động của Trung tâm GDTX của Bộ
Giáo dục và đào tạo, các văn bản hướng dẫn về phương thức hoạt động không
chính quy trên địa bàn Tỉnh Vĩnh Phúc của UBND Tỉnh, các báo cáo và các
văn bản khác có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Khảo sát điều tra.
-

Trưng cầu ý kiến (Phòng Đào tạo và giảng viên các trường ĐH liên

kết, cán bộ quản lý, giáo viên Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc; Chuyên viên
phòng GDTX – GDCN; Cán bộ quản lý các trường học, các đơn vị có học
viên học; Học viên các khối, ngành đào tạo)
-Thống kê, xử lý số liệu.
-Tổng kết kinh nghiệm.

-Phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia.
9.

Cấu trúc luận văn
5


Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, luận văn được trình bày theo 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận
của vấn đề nghiên cứu.
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động dạy học và công tác quản lý quá trình dạy
học hệ Đại học tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc

Chƣơng 3: Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học hệ Đại học tại
Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU 1.1. Vài nét về lịch sử của vấn đề đào tạo liên kết
Giáo dục giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi
quốc gia. Do vậy bất cứ nước nào, dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù phát triển
hay đang phát triển và trong bất cứ hoàn cảnh nào, tất cả đều phải quan tâm đến giáo
dục và phải tư duy cho giáo dục. Tư duy giáo dục phải phù hợp với từng thời kỳ
phát triển KT-XH của đất nước, do vậy tư duy cho giáo dục luôn cần được đổi mới.
Nói cách khác: Những suy nghĩ, những ý tưởng về giáo dục cần được nghiên cứu,
lập luận lôgíc, hệ thống, có chứng cứ thực tiễn, sáng tạo từ thực tiễn giáo dục để giải
quyết các vấn đề giáo dục cũng chính từ thực tiễn giáo dục đặt ra.

Như chúng ta đã biết: Luật giáo dục được quốc hội nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực thi hành từ
01/01/2006 đã khẳng định: “Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục
chính quy và giáo dục thường xuyên”.
Ra đời ngay sau khi nước nhà giành độc lập, trải qua hơn 60 năm xây dựng
và phát triển, GDTX mang trong mình một hành trang đầy giá trị, rất phong phú, đa
dạng và tiến bước theo lộ trình xây dựng đất nước. Khởi đầu là phong trào bình dân
học vụ để xoá nạn mù chữ cho hơn 90% dân số khỏi vòng ngu dốt của chế độ thực
dân phong kiến để lại, rồi đến xây dựng hệ thống trường bổ túc văn hoá các cấp,
trường vừa học vừa làm, bổ túc công nông, đến phổ cập giáo dục tiểu học cho các
Xã, Huyện, Tỉnh, tiến đến phổ cập giáo dục THCS và tiến tới phổ cập giáo dục
THPT. Một bước tiến quan trọng mà cũng là khởi nguồn cho GDTX được đưa vào

6


luật giáo dục là việc hình thành hệ thống Trung tâm GDTX từ Huyện, Thị lên

Tỉnh, Thành được tổ chức và hoạt động theo quy chế ban hành từ quyết định số
2461/QĐ-BGD ngày 07/11/1992 đến quyết định số 43/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày
25/9/2000 và này là quyết định số 01/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/01/2007 của Bộ
trưởng Bộ GD - ĐT. Từ đây, các hình thức thực hiện của GDTX thực sự đa dạng,
phong phú, linh hoạt, phù hợp và đáp ứng cho phát triển nguồn nhân lực tại địa
phương ở các lĩnh vực: Kinh tế, văn hoá, xã hội..., phục vụ đắc lực cho việc phát
triển KT-XH, cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960) đề ra chủ trương “vừa
đào tạo tập trung, vừa đào tạo Tại chức”.
Thuật ngữ “Đại học Tại chức” được sử dụng với nghĩa là học không tập
trung toàn thời gian, vừa làm vừa học, có các văn bằng Đại học với từ ghi Hệ
đào tạo: Tại chức.
Năm 1975 đất nước được thống nhất. Đại hội IV (năm 1975) của Đảng đã

chỉ rõ: “Phải tích cực xây dựng hệ thống đào tạo bồi dưỡng tại chức với
nhiều hình thức học tập đảm bảo cho mọi người lao động có thể suốt đời
tham gia học tập, trau dồi nghề nghiệp mở rộng kiến thức” [8, tr.298].
Công tác đào tạo Đại học Tại chức được phát triển mạnh mẽ và có sự
quản lý chặt chẽ. Nghị quyết XIV của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục
(1979) đã nhấn mạnh: “Hệ thống mạng lưới tại chức phải được tổ chức rộng
khắp, bao gồm nhiều hình thức học tập linh hoạt thuận tiện cho người học.
Hệ thống đó phải gắn liền với hệ thống đào tạo tập trung nhưng có tổ chức
và người phụ trách riêng” [299].
Trong 10 năm 1975-1985, theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo
tuyển vào hệ Đại học Tại chức khoảng 60.000 Học viên và 80% số tỉnh từ Bắc
chí Nam có Trung tâm GDTX Tỉnh hoặc Trung tâm đào tạo bồi dưỡng Tại
chức, trạm đào tạo Đại học Tại chức....
Như vậy đã xuất hiện cụm từ “Đào tạo và bồi dưỡng tại chức”, “Mạng lưới
tại chức” với nghĩa là học không tập trung, có thể cấp hoặc không cấp văn bằng.


7


Nghị quyết 73 năm 1983 của Hội đồng Bộ trưởng đã cho phép thành lập
Trung tâm GDTX Tỉnh, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng Tại chức Tỉnh trên cơ sở
các tổ chức đa dạng ở địa phương đã hình thành từ trước. Đây là một mô hình
cơ sở giáo dục mới dựa trên sự liên kết của các trường Đại học với các Tỉnh,
thường là một Trung tâm GDTX Tỉnh liên kết với nhiều trường Đại học. Đây
là một sáng kiến rất quan trọng, tạo một bước tiến cao trong công tác đào tạo
Đại học Tại chức tại địa phương (các Tỉnh). Sự liên kết này đã tạo điều kiện
cho người học, đồng thời nâng cao vai trò của các Trung tâm GDTX cấp Tỉnh
trong đào tạo liên kết ở các bậc học, cấp học, hình thức học khác nhau.
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước. Đối với lĩnh vực GD-ĐT, Nghị quyết đã nêu:
“Phải bố trí hợp lý cơ cấu hệ thống giáo dục, thể hiện tính thống nhất của
quá trình giáo dục, bao gồm nhiều hình thức đào tạo và bồi dưỡng: Chính
quy và không chính quy, tập trung và bán tập trung...” [26].
Cơ chế quản lý thay đổi, ngành GD-ĐT thực hiện chủ trương đa dạng hoá các
loại hình trường lớp nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Bước chuyển đổi quan trọng của các Trung tâm GDTX cấp Tỉnh giai đoạn này là:
Chuyển từ quan hệ hợp tác, giúp đỡ các trường Đại học, Cao đẳng trước đây sang
quan hệ liên kết đào tạo, thông qua các hợp đồng có tính đến chi phí. Quá trình
chuyển đổi sang quan hệ liên kết đào tạo vừa thể hiện sự bình đẳng, vừa thể hiện sự
gắn kết nghĩa vụ, trách nhiệm giữa địa phương, với đơn vị liên kết (giữa trung tâm
GDTX cấp Tỉnh với các Trường Đại học Trung ương và khu vực).

Ngoài việc liên kết đào tạo Đại học Tại chức, từ những năm 1988-1991 đã
thí điểm đào tạo Đại học không chính quy với những hình thức mới đi đôi với
những tên gọi mới như: Đại học mở rộng, tự học có hướng dẫn, đào tạo Từ xa...

(thành lập viện Đại học mở). Đến nay hình thức đào tạo Từ xa đã phát triển rất
nhanh. Theo số liệu thống kê tại Hội nghị tổng kết 10 năm đào tạo Từ xa ngày
27/4/2005 ta thấy thị phần đào tạo Từ xa mang tính tập trung cao tại 3 cơ sở đào

8


tạo là: Đại học Huế, ĐHSP Hà Nội và Viện ĐH mở Hà Nội. Riêng viện ĐH
mở Hà Nội từ 2003-2007 có 30.314 HV theo học hệ ĐH Từ xa.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ:
“Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình mở - Mô hình xã
hội học tập, với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa
các bậc học, ngành học, xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi
người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu
học tập thường xuyên, tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người
học, đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục” [63].
Luật giáo dục đã được quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2006 đã khẳng định: “Cơ sở
giáo dục Đại học khi thực hiện chương trình GDTX lấy bằng tốt nghiệp Cao đẳng,
bằng tốt nghiệp Đại học chỉ được liên kết với cơ sở giáo dục tại địa phương là trường
Đại học, trường Cao đẳng, trường Trung cấp, Trung tâm GDTX Tỉnh với điều kiện
cơ sở tại địa phương đảm bảo các yêu cầu về vật chất, thiết bị và cán bộ quản lý cho
việc đào tạo trình độ Cao đẳng, trình độ Đại học” [Điều 46].

Nhà nước có chính sách phát triển GDTX, thực hiện giáo dục cho mọi
người, xây dựng xã hội học tập.
Báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội tháng 10/2004 đã nêu: “Các
chương trình giáo dục Từ xa vẫn đang trong quá trình xây dựng, tiến độ còn
chậm, chất lượng còn thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, điều kiện tổ chức
thực hành thực nghiệm còn hạn chế. Việc quản lý lỏng lẻo đối với các hệ đào

tạo liên kết có cấp văn bằng đã dẫn đến tình trạng “học giả bằng thật”. Đây là
một khâu yếu nghiêm trọng của giáo dục KCQ ở nước ta”.
Những năm gần đây, trong các báo, tạp chí thuộc chuyên ngành giáo dục như:
Báo Giáo dục thời đại, tạp chí giáo dục, nghiên cứu giáo dục, thông tin khoa học
- giáo dục, giáo dục Từ xa và Tại chức, tạp chí dạy và học... hay trong các báo
cáo tổng kết công tác GDTX hàng năm của Bộ GD - ĐT, hội thảo hàng năm của
Giám đốc các Trung tâm GDTX - Cơ sở đào tạo không chính quy Tỉnh, Thành

9


phố (các Trung tâm GDTX Tỉnh trong cả nước. Mỗi năm tổ chức tại 1 Tỉnh)... đã
đề cập rất nhiều tới công tác quản lý nâng cao chất lượng đào tạo các lớp Đại học
theo hình thức liên kết, nhưng hiện nay còn có rất ít công trình nghiên cứu có hệ
thống, có thực nghiệm tại một cơ sở đào tạo cụ thể. PGS-TS. Lê Đức Phúc- Viện
KHGD có bài viết: “ Về đánh giá chất lượng giáo dục Đại học” ( Tạp chí khoa
học giáo dục tháng 5/ 2000 ). Trong cuốn Hội thảo “Trung tâm GDTX Tỉnh
trong việc thực hiện Luật giáo dục sửa đổi, nâng cao chất lượng GD& ĐT đáp
ứng tốt hơn nữa nhu cầu nhân lưc cho địa phương” được tổ chức tháng 2/2006
tại thành phố Đà Lạt đã có rất nhiều bài viết đề cập đến biện pháp nâng cao chất
lượng các lớp đào tạo liên kết: Thạc sĩ Trần Mạnh Hùng- Trưởng phòng Đào tạo
Trung tâm GDTX tỉnh Bạc Liêu với bài viết “Nâng cao chất lượng và hiệu quả
Đào tạo các lớp liên kết nhìn từ góc độ công tác tuyển sinh và quản lý học viên”.
Thạc sĩ Trần Thị Thanh Bình- Giám đốc Trung tâm Đại học Tại chức Cần Thơ có
đề cập đến “ Đào tạo không chính quy- Giải pháp nâng cao chất lượng Dạy học”.
Thạc sĩ Nguyễn Kim Sơn- Giám đốc Trung tâm GDTX tỉnh Yên Bái với tham
luận “ Những biện pháp để nâng cao chất lương Đào tạo các lớp liên kết tại
Trung tâm GDTX tỉnh Yên Bái”. Luận văn Thạc sĩ QLGD (2006) tại khoa Sư
phạm - ĐHQG Hà Nội của tác giả Đào Thị Lợi với đề tài nghiên cứu: “Những
biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo bậc Đại học theo hình thức

liên kết tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Bắc Giang”. Tác giả Đào Văn
Hùng- Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành QLGD (2007 ) tại trường ĐHSP Hà Nội
nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp quản lý cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
dạy học ở Trung tâm GDTX Thành phố Việt Trì- Tỉnh Phú Thọ”. Tác giả Vân
Anh có bài viết “Đào tạo không chính quy cần đặt ra lộ trình chất lượng” đăng
trên báo GD& TĐ số ra ngày 23/2/2008 ...
Trong luận văn này, chúng tôi cố gắng phân tích một cách tương đối toàn
diện, có hệ thống thực trạng của sự liên kết giữa Trung tâm GDTX Tỉnh Vĩnh Phúc
với các trường Đại học liên kết. Bước đầu đề xuất và khảo nghiệm các biện pháp
quản lý nhằm tạo ra sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa 2 đơn vị để nâng cao

10


chất lượng đào tạo các lớp Đại học theo hình thức liên kết tại Trung tâm
GDTX cấp Tỉnh nói chung và Trung tâm GDTX tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Đó
cũng là cái mới của luận văn này.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm về quản lý
1.2.1.1. Quản lý
Từ khi xuất hiện hoạt động lao động tạo ra các giá trị phục vụ cuộc sống
đã hình thành sự phân công lao động, sự hợp tác lao động trong một tổ chức
nhất định nhằm đạt hiệu quả và năng suất lao động cao hơn. Do đó cần có
người đứng đầu để chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, điều chỉnh..., xuất hiện người
quản lý và sự quản lý.
Hiện nay, khái niệm quản lý được rất nhiều tác giả định nghĩa theo
nhiều góc độ khác nhau:
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1: Quản lý khi là động từ mang ý nghĩa:

+


“Quản” là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định.

+
“Lý” là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất
định.
Hiểu theo ngôn ngữ Hán Việt, công tác “quản lý” là thực hiện hai quá trình
liên hệ chặt chẽ với nhau: “Quản” và “Lý”. Quá trình “Quản” gồm sự coi sóc, giữ
gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”; quá trình “Lý” gồm việc sửa sang, sắp xếp,
đổi mới đưa hệ vào thế “phát triển”. Nếu người quản lý chỉ lo việc “quản” tức là
chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì tổ chức dễ trì trệ; tuy nhiên nếu chỉ quan tâm đến
việc “Lý” tức là chỉ lo việc sắp xếp, tổ chức, đổi mới mà không đặt trên nền tảng
của sự ổn định thì hệ phát triển không bền vững. Nói chung, trong “quản” phải có
“lý” và trong “lý” phải có “quản”, làm cho trạng thái hoạt động của hệ ở thế cân
bằng động. Hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác
giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực). Sự
quản lý đưa đến kết quả đích thực bền vững đòi hỏi phải có mưu lược, nghệ thuật
làm cho hai quá trình “quản” và “lý” tích hợp vào nhau.

11


Nói đến quản lý không thể không nhắc đến tư tưởng sâu sắc của CácMác. Ông nhìn nhận vấn đề quản lý dưới ý tưởng phân công và hợp tác trong
lao động. Một cách hình ảnh, Mác đã lột tả bản chất của quản lý là hoạt động
lao động để điều khiển lao động: “Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển
lấy mình, còn dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [21, tr.480].
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Khổng Tử (551 - 479 TCN) cũng đã xác
định vai trò của người quản lý đó là: Người quản lý mà chính trực thì không
cần phải tốn nhiều công sức mà vẫn có thể chính tâm “Tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”.

Có thể nói hoạt động quản lý vừa là một khoa học vừa là một nghệ
thuật. Nó điều khiển một hệ thống động xã hội ở tầm vĩ mô cũng như vi mô.
Vì vậy quản lý được tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vấn đề quản lý theo khoa học mới xuất
hiện. Người khởi xướng là Fredrich Winslow Taylor với cuốn sách “Các
nguyên tắc quản lý theo khoa học”. Theo ông thì người quản lý phải là nhà tư
tưởng, nhà lên kế hoạch chỉ đạo tổ chức công việc [29].
Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS. Nguyễn Quốc Chí thì: “Quản
lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động
(chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra - Bài giảng
môn học: Cơ sở khoa học quản lý” [1].
Trong cuốn “khoa học tổ chức và quản lý”, tác giả Đặng Quốc Bảo
quan niệm rằng: “Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung” và “Quản lý là
một quá trình lập kế hoạch, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra những nỗ lực của
các thành viên trong một tổ chức và sử dụng các nguồn lực của tổ chức để đạt
được những mục tiêu cụ thể” [2].
Tác giả Đỗ Hoàng Toàn trong cuốn “Lý thuyết quản lý” cho rằng: “Quản lý là
sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản

12


lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để
đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường” [31].
Quản lý tuỳ thuộc vào điều kiện, tình huống cụ thể dẫn đến sự vận động
của đối tượng để đạt được hiệu quả tối ưu, điều đó có nghĩa là người quản lý
khi vận dụng lý thuyết quản lý vào thực tế công việc phải hết sức linh hoạt và
mềm dẻo vì “Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật”.
Từ các định nghĩa được nhìn nhận ở nhiều góc độ, chúng ta thấy rằng

tất cả các tác giả đều thống nhất về cốt lõi của khái niệm quản lý, đó là trả lời
các câu hỏi: Ai quản lý? (Chủ thể quản lý); Quản lý ai? Quản lý cái gì? (khách
thể quản lý); Quản lý như thế nào? (Phương thức quản lý); Quản lý bằng cái
gì? (công cụ quản lý); quản lý để làm gì? (Mục đích quản lý) và từ đó có thể
đưa ra định nghĩa như sau:
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy,
điều khiển, liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể
thống nhất, điều hoà hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm
đạt đến mục tiêu xác định trong điều kiện biến động của môi trường.
Tổng quát nhất, có thể xem: “Quản lý là một quá trình tác động gây
ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục
tiêu chung”.
1.2.1.2. Biện pháp quản lý:
Theo từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, biện pháp quản lý là:

“Cách làm, cách thức tiến hành” [35, tr.161].
Biện pháp là cách thức hành động để thực hiện một mục đích, là cách
làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
Các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý đã đưa ra 4 biện pháp quản lý
chính, đó là: Biện pháp giáo dục, biện pháp quản lý hành chính, biện pháp tâm
lý - xã hội, biện pháp kích thích lợi ích kinh tế.

13


Biện pháp giáo dục: Chủ thể dùng các hình thức, biện pháp tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến nhận thức, tình cảm, thái độ, hành vi của đối tượng quản
lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hoàn thành tốt nhiệm vụ của tổ chức giao.


Biện pháp quản lý hành chính: Đó là biện pháp mà chủ thể quản lý dùng
quyền lực trực tiếp đưa ra các mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu để khách thể quản
lý thực hiện.
Biện pháp này biểu hiện qua các hình thức như: Văn bản thông báo, chỉ
thị, nghị quyết, thông tư, hoặc là những quy chế nội dung, quy định trong nội
bộ, thời khoá biểu, phân công công tác, cũng có thể là chỉ thị bằng lời nói.
Đặc điểm nổi bật tích cực của biện pháp này là có căn cứ pháp lý, trên cơ
sở các văn bản chính xác cụ thể tạo ra sự thống nhất trong tổ chức, làm nên sức
mạnh tập thể. Đồng thời có sự phân công, phân nhiệm, phân cấp, phân quyền...
giữa các tổ chức và các thành viên của nó, tác động trực tiếp đến đối tượng, dứt
khoát và có hiệu lực nhanh, có tính bắt buộc phải chấp hành đồng loạt theo
nguyên tắc “phục tùng”. Tuy nhiên nếu lạm dụng tuyệt đối hoá biện pháp này dễ
dẫn đến tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, mất dân chủ, dễ gây tâm lý nặng nề, tiêu
cực, thụ động, tạo nên tâm lý tự vệ của đối tượng quản lý. Khi vận dụng phương
pháp quản lý hành chính vào thực tiễn quản lý, nhà quản lý phải nắm vững pháp
chế, nhận thức được quyền hạn và trách nhiệm của mình theo luật định khi đưa ra
văn bản, các quyết định hành chính phải có cơ sở khoa học và thực tiễn, nắm bắt
thông tin phản hồi để có những điều chỉnh kịp thời.

Biện pháp tâm lý - xã hội: Là cách tạo ra những tác động vào đối tượng
bị quản lý bằng các biện pháp lô gíc và tâm lý XH nhằm biến những yêu cầu
do người lãnh đạo quản lý đề ra thành nghĩa vụ, tự giác thực hiện.
Biện pháp kích thích lợi ích kinh tế: Là cách thức tác động gián tiếp lên
đối tượng quản lý bằng sự kích thích lợi ích vật chất để tạo ra động lực thúc đẩy
con người hoàn thành tốt nhiệm vụ, phục vụ cho lợi ích cá nhân và tập thể.

14


Tuỳ theo từng trường hợp, từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà vận dụng

các biện pháp quản lý thích hợp. Tiềm năng bản lĩnh của người quản lý là biết
lựa chọn biện pháp hữu hiệu áp dụng cho từng đối tượng.
1.2.1.3. Chức năng quản lý
Chức năng QL có thể hiểu là một dạng lao động chỉ huy, điều phối, kết hợp của
chủ thể quản lý, sinh ra một cách khách quan từ đặc trưng lao động của khách thể
quản lý. Chức năng QL là một dạng hoạt động quản lý, thông qua đó chủ thể quản lý
tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định.

* Phân loại chức năng quản lý:
Có nhiều cách phân loại chức năng quản lý:
- Theo Tayol (1841-1925), quản lý có 5 chức năng:
Chức năng kế hoạch; chức năng tổ chức; chức năng chỉ huy; chức năng
phối hợp; chức năng kiểm tra.
- Theo Afaracop (Nhà quản lý Nga), quản lý có 4 chức năng: Xử lý và
thông qua quyết định; Tổ chức; Điều chỉnh; Kiểm kê và kiểm tra.
-

Ở Việt Nam, Hà Sĩ Hồ trước đây phân chức năng quản lý thành 3 loại:

Chức năng kế hoạch hoá; Chức năng tổ chức; Chức năng kiểm tra.
Theo PGS-TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS. Nguyễn Quốc Chí, quản lý
gồm 4 chức năng chủ yếu, cơ bản, kế hoạch hoá (Planning) tổ chức
(organizing), chỉ đạo - lãnh đạo (leading) và kiểm tra (Controlling).
Từ các chức năng khái quát của quản lý, ta thấy QLGD cũng bao gồm 4
chức năng, đó là:
+ Lập kế hoạch: Đây là quá trình dự báo xác định mục tiêu, lựa chọn
biện pháp để đạt mục tiêu.
Vai trò của chức năng lập kế hoạch:
 Khởi đầu một quá trình quản lý, quyết định các hoạt động về sau.
 Là sơ sở huy động nguồn lực

 Là cơ sở cho việc kiểm tra.
Nội dung chủ yếu của việc lập kế hoạch:
15


 Xác định mục tiêu
 Xây dựng kế hoạch thực hiện mục
tiêu: + Tổ chức:
Đây là quá trính biến ý tưởng của kế hoạch thành hiện thực, là quá trình
thu nhận, sắp xếp các nguồn nhân lực. Để thực hiện chức năng này, người
quản lý phải xây dựng bộ máy, cơ cấu các bộ phận, quy định chức năng,
nhiệm vụ từng bộ phận, mối quan hệ giữa chúng nhằm thực hiện thắng lợi kế
hoạch và mục tiêu tổng thể của tổ chức.
+ Chỉ đạo (điều hành, tổ chức thực hiện)
Là quá trình tác động của chủ thể quản lý tới thái độ, hành vi của cấp dưới và tác
động tới các bộ phận của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu của quản lý đã xác định.

Vai trò của chức năng chỉ đạo:
Cùng với chức năng tổ chức để thực hiện hoá kế hoạch và là cơ sở phát
huy động lực, làm cho cấp dưới phấn khởi làm việc hoặc ngược lại. Đây là
khâu quan trọng tạo nên thành công hay thất bại của kế hoạch hoá. Để thực
hiện có hiệu quả khâu này, nhà quản lý phải vận dụng khéo léo các phương
pháp và nghệ thuật quản lý.
+ Kiểm tra:
Là quá trình đánh giá và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho các hoạt động đạt
được mục tiêu đã xác định. Đây là chức năng cuối cùng của chu trình quản lý.

Vai trò của chức năng kiểm tra:
 Nắm thông tin phản hồi (ngược lại)
 Không có kiểm tra coi như không có quản

lý. Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý:
Các chức năng quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng có mối quan

hệ mật thiết với nhau, có thể mô hình hoá dưới dạng sơ đồ sau:
Kế hoạch

16


Kiểm tra, đánh giá

Chỉ đạo

Các chức năng trên lập thành chu trình quản lý. Trong một chu trình quản
lý cả 4 chức năng trên phải được thực hiện liên tiếp và đan xen vào nhau, phối
hợp bổ sung cho nhau tạo sự kết nối giữa chu trình này sang chu trình kia theo
hướng phát triển, trong đó thông tin luôn là yếu tố xuyên suốt không thể thiếu
được trong việc thực hiện các chức năng quản lý và là cơ sở cho việc ra quyết
định trong quản lý, nếu chu trình trên vận hành hoàn hảo thì nhà quản lý sẽ thành
công vì đạt được mục tiêu xác định. Có thể sơ đồ hoá chu trình quản lý như sau:

Chức năng
kế hoạch

Thông tin phục vụ quản lý
(Chu trình quản lý)
1.2.1.4. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt
và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục
mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc, nhân loại được kế

thừa, bổ sung và phát triển. Giáo dục tồn tại, vận động và phát triển với tư cách là
một hệ thống. Theo cách nói của Max thì “dàn nhạc” giáo dục trong quá trình tồn tại
và phát triển tất yếu phải có “nhạc trưởng” là quản lý giáo dục. Về khái niệm

17


quản lý giáo dục có khá nhiều quan điểm, được hiểu khá rộng trong nhiều
phạm vi, có nhiều định nghĩa như sau:
Theo chuyên gia giáo dục M.I Konđacốp (Liên Xô cũ) trong cuốn “Cơ sở lý
luận của khoa học quản lý giáo dục” thì: “Quản lý giáo dục là tập hợp các biện
pháp tổ chức cán bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính... nhằm đảm bảo sự vận
hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển
và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như mặt chất lượng” [22, 23].
Theo N.M. Mat Chtizade: “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục,
bảo đảm sự liên tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng và chất lượng”.

Theo GS. Viện sĩ Phạm minh Hạc thì: “Quản lý giáo dục là hệ thống
tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực
hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội
tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu
dự kiến lên trạng thái mới về chất” [20, 61].
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo thì: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy
mạnh mẽ công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [2, 31].
Theo Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện

các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học. Giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái mới về chất” [25, 37].
UNESCO định nghĩa QLGD là cách thức điều hành hệ thống giáo dục,
nhất là các quy trình, thủ tục, quy định, quy chế... và cách thức vận hành của
hệ thống giáo dục, tất cả các cấu phần hoạt động của hệ thống.

18


×