Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh phổ thông tại trung tâm giáo dục thường xuyên thanh ba

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.57 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRƢƠNG THỊ THUÝ NINH

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG TẠI TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƢỜNG XUYÊN THANH BA

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRƢƠNG THI ̣THÚY NINH

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG TẠI TRUNG
TÂM GIÁO DỤC THƢỜNG XUYÊTHANH BA

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÍ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05

Ngƣời hƣớng dẫn khoa hoc ̣:

̃


PGS.TS. NGUYÊN THI ̣PHƢƠNG HOA

HÀNỘI – 2010


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, tri thức có vai trò thúc đẩy

sự tiến bộ của xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia đều dựa trên
nền tảng tri thức và muốn có tri thức thì phải phát triển giáo dục. Đặc biệt khi
chúng ta đang bước sang một kỷ nguyên mới, kỉ nguyên của nền kinh tế tri thức, kỉ
nguyên thông tin với những thay đổi to lớn và nhanh chóng do vậy mà triết lý giáo
dục trong thế kỉ XXI cũng có những thay đổi mạnh mẽ, hướng tới một xã hội học
tập, “học thường xuyên, học suốt đời”. Giáo dục với tư cách là yếu tố quan trọng
cho sự phát triển của xã hội cần phải đáp ứng được xu thế thay đổi ấy. Do vậy mà
giáo dục ngày nay ở nước ta đang được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, để đáp
ứng yêu cầu nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Giáo dục đã được xem là động lực quan trọng để
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Giáo dục đang ngày một đổi mới với phương
châm: Lấy người học làm trung tâm, phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học, nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Đảng và nhà nước
ta đang nỗ lực xây dựng một xã hội học tập với phương hướng, con đường thực
hiện là kết hợp đến trường, giáo dục từ xa và tự học. Trong đó tự học để trưởng
thành là vô cùng quan trọng.
Một trong những đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất trong xã hội tự học là tư
tưởng tự học tập suốt đời. Vì “việc học không bao giờ là muộn” (Ngạn ngữ), hay

“Bác học không có nghĩa là ngừng học” (Đác-uyn). Quan niệm tự học suốt đời nổi
lên trong thời đại ngày nay như một chìa khoá mở cửa đi vào thế kỉ XXI - thế giới
của nền kinh tế tri thức. Nó đáp ứng những thách thức của một thế giới đang thay
đổi nhanh chóng trên mọi lĩnh vực. Trong xã hội tự học suốt đời người ta học vì:
học để biết, học để làm người, học để làm việc, học để chung sống - bốn động cơ
này luôn thôi thúc con người ta phải luôn học tập để đạt đến Chân- Thiện - Mỹ.
Bên cạnh đó,với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, lượng tri thức của loài
người được tăng lên từng ngày, từng giờ, thời gian học tập trong các nhà trường chỉ

1


có hạn, do vậy vấn đề trang bị cho người học có được phương pháp tự học để
chiếm lĩnh tri thức là xu thế tất yếu. Bằng phương pháp tự học, người học có thể
học thường xuyên, học suốt đời, học mọi nơi, mọi lúc nhằm đáp ứng các yêu cầu
của xã hội. Để có được chất lượng giáo dục phải đặc biệt coi trọng hai thành tố cơ
bản của quá trình dạy học là dạy và học. Trong quá trình dạy học, dưới sự tổ chức,
điều khiển của giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều
khiển hoạt động học tập của bản thân và phải biến quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục. Như vậy, tự học là con đường phát triển suốt đời của mỗi con
người.
Đối với bậc giáo dục phổ thông, yêu cầu về phương pháp giáo dục trong Điều
28 Luật Giáo dục (2005) đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo
nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập choHS”.
Đối với Giáo dục thường xuyên, yêu cầu về phương pháp giáo dục trong
Điều 45 Luật Giáo dục (2005) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục thường xuyên
phải phát huy vai trò chủ động, khai thác kinh nghiệm của người học, coi trọng

việc bồi dưỡng năng lực tự học... để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học."
Như vậy, tự học đóng một vai trò rất quan trọng đối với HS để hoàn thành
nhiệm vụ học tập của mình. Tự học là sự thể hiện đầy đủ nhất vai trò chủ thể trong
quá trình nhận thức của HS. Có những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng
đến kết quả tự học của HS, một trong những yếu tố đó là tổ chức quản lý. Vì vậy,
nghiên cứu các biện pháp quản lý HĐTH của HS để không ngừng nâng cao chất
lượng dạy và học là một việc làm cần thiết.
Trung tâm GDTX Thanh Ba do đặc thù, xứ mệnh riêng của trung tâm nên
chất lượng học sinh hệ bổ túc tuyển đầu vào là rất kém, phần nhiều các em không
xác định được động cơ học tập, ý thức tự giác kém. Bên cạnh những khó khăn về
chất lượng đầu vào của học sinh, về vấn đề đội ngũ còn thiếu chưa đồng đều, cơ sở

2


vật chất còn hạn chế thì còn yếu tố nữa là công tác quản lý HĐTH của HS đã ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo của nhà trường.
Từ những lý do trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: "Biện pháp quản lý
hoạt động tự học của học sinh phổ thông tại Trung tâm giáo dục thường xuyên
Thanh Ba" làm đề tài luận văn tốt nghiệp.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác quản lý HĐTH của HS
phổ thông tại Trung tâm GDTX Thanh Ba, đề xuất các biện pháp quản lý HĐTH
nhằm mục đích nâng cao kết quả học tập của HS phổ thông tại Trung tâm GDTX
Thanh ba.

3. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động tự học của HS phổ thông tại Trung tâm GDTX Thanh Ba.


4. Đối tƣợng nghiên cứu
Quản lý hoạt động tự học của HS phổ thông ở Trung tâm GDTX Thanh Ba.
5. Giả thuyết khoa học
Trung tâm GDTX Thanh Ba trong những năm qua đã quan tâm đến công tác
quản lý HĐTH của HS, nhưng hiệu quả của công tác vẫn chưa cao.
Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý HĐTH phù hợp với đặc điểm tình hình
hình thực tế của Trung tâm sẽ góp phần nâng cao kết quả HĐTH của HS.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu thì tác giả tiến hành thực hiện các nhiệm vụ
sau:
6.1. Nghiên cứu lý luận về quản lý giáo dục và quản lý HĐTH tại Trung tâm
GDTX Thanh Ba.
6.2. Nghiên cứu thực trạng HĐTH, thực trạng các biện pháp quản lý HĐTH
của HS phổ thông tại Trung tâm GDTX Thanh Ba.
6.3. Đề xuất các biện pháp quản lý HĐTH của HS phổ thông tại Trung tâm
GDTX Thanh Ba.

3


7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện nghiên cứu có hạn, tác giả chỉ khảo sát thực trạng HĐTH của
HS học chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông ở 03 khối lớp
tại Trung tâm GDTX Thanh Ba.

8.
a.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp những tư

liệu và các văn bản có liên quan.
b.

Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát bằng phiếu, phỏng

vấn, trò chuyện, quan sát; xin ý kiến chuyên gia.
c.
Phương pháp hỗ trợ: Sử dụng phương pháp thống kê để phân tích,
xử lý
các thông tin, số liệu thu được từ phương pháp cụ thể.

9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu , kết luận và khuyến nghị , danh mục tài liệu tham khảo ,
phụ lục, nội dung luâṇ văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu
Chƣơng 2: Thực trạng HĐTH và quản lý HĐTH của HS phổ thông tại
Trung tâm GDTX Thanh Ba
Chƣơng 3: Các biện pháp quản lý HĐTH của HS phổ thông tại Trung tâm
GDTX Thanh Ba

4


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. 1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lịch sử phát triển giáo dục của nhân loại, yếu tố tự học của con người
luôn được quan tâm nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. Trong từng giai đoạn

phát triển, vấn đề tự học được đề cập và nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau
và đã được nhiều học giả nghiên cứu.
Ngay từ thời Trung Hoa cổ đại, nhà giáo dục lỗi lạc, Khổng Tử (551-479
Tr.CN) đã sớm đề cập đến vai trò chủ động, tích cực suy nghĩ của người học. Ông
cho rằng: "Học mà không suy nghĩ sẽ chẳng có thu hoạch gì, chỉ suy nghĩ mà không
học thì sẽ rất nguy hiểm". Theo ông người học không những phải chủ động tích cực
học tập, mà phải học ở mọi nơi mọi lúc: "Học bất cứ ai, học bất cứ nơi nào, lúc nào.
Trong ba người đồng hành tất phải có một người là thầy ta". Khổng Tử còn yêu cầu
môn sinh: bác học, thâm vấn, thận tư, minh biện, đốc hành (học cho rộng, hỏi cho
sâu/ kỹ, tư duy, suy nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho rõ ràng, làm cho hết sức). Ông
còn nhấn mạnh:
Cũng có điều chưa học, nhưng đã học điều gì mà không được thì không thôi.
Cũng có điều chưa hỏi, nhưng đã hỏi điều gì mà chưa rõ thì không thôi. Cũng có
điều chưa phân biệt được, nhưng đã phân biệt được thì phân biệt cho minh bạch.
Cũng có điều chưa làm, nhưng đã làm điều gì mà không xong thì không buông xuôi.
Người ta dùng công mười mà được, ta cũng dùng công mười mà chưa được thì
dùng công gấp ngàn lần kỳ được mới thôi.
Nếu làm được theo điều ấy thì đầu ngu cũng hoá sáng, yếu cũng thành mạnh.
Và "Nếu môn đệ không tự hỏi phải làm ra sao? phải làm ra sao? Thì ta cũng chẳng
làm thế nào được.
Khổng Tử cho rằng, thầy giáo chỉ giúp học trò cái mấu chốt nhất, còn mọi vấn
đề khác học trò phải từ đó mà tự tìm ra, thầy không được làm thay tất cả cho trò.
Ông đòi hỏi người học phải biết suy nghĩ, phải biết phát huy tính năng động, tích
cực của bản thân trong học tập.

5


Nhà sư phạm lỗi lạc Tiệp Khắc JA Comenxky (1592-1670), ông tổ của nền
giáo dục cận đại đã khẳng định: "Không có khát vọng học tập thì không thể trở

thành tài năng"; và "Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán
đúng đắn, phát triển nhân cách... hãy tìm ra phương pháp cho giáo viên dạy ít hơn,
học sinh học nhiều hơn”. Như vậy, Comenxky đã đánh giá rất cao vai trò của tự học,
sự tích cực chủ động của người học sẽ là yếu tố quyết định đối với hoạt động học
tập của người học.[11]
Tsunesaburo Makiguchi (1871- 1944), nhà giáo dục học nổi tiếng người Nhật
Bản cho rằng: "Mục đích của giáo dục không phải là truyền đạt tri thức. Nhiệm vụ
của nó là hướng dẫn quá trình học tập và đặt trách nhiệm học tập vào trong tay mỗi
học sinh". [44, tr. 236]
Như vậy, giáo dục được xem như một quá trình hướng dẫn học sinh tự học,
là hòn đá tảng của phương pháp sư phạm của Makiguchi thời bấy giờ.
Tác giả Jamshid Gharajedaghi, trong cuốn "Tư duy hệ thống", trong phần
"Hệ thống học tập" đã mô hình hoá cơ cấu hệ thống này, trong đó có 3 điểm quan
trọng là: Học cách học; Học cách làm; Học làm người. Theo ông: Phải biến người
học thành người tự dạy mình học, làm cho người học gia tăng mạnh mẽ nguyện
vọng và năng lực tiến vào một quá trình không bao giờ chấm dứt của việc học. Bỏ
những điều lỗi thời của cái học cũ, học thêm cái mới. [42]
Vào thế kỷ XVIII-IXX, các nhà giáo dục nổi tiếng thế giới như: J.J Rutxo
(1712-1778), K.D. Usinxky (1824-1890) trong các tác phẩm nghiên cứu của mình
đã khẳng định: Tự mình giành lấy tri thức bằng con đường tự khám phá, tự tìm tòi,
tự suy nghĩ là con đường quan trọng để chiếm lĩnh tri thức. [40]
Triết lý giáo dục thế kỷ XXI (theo J.Delors, UNESCO, 1996) đó là:
* Học suốt đời (Lifelong learning). Năng lực tự học suốt đời nhờ vào cách
học.
* Bốn trụ cột của giáo dục:
-

Học để biết (cốt lõi là hiểu)

-


Học để làm (trên cơ sở hiểu)

-

Học để cùng chung sống với nhau (trên cơ sở hiểu nhau)

6


-

Học để làm người (trên cơ sở hiểu bản thân)

* Xây dựng một xã hội học tập (learning society)


Học thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời.
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những ý kiến rất quý báu về vấn

đề tự học, và chính Người là một tấm gương sáng ngời về ý chí tự học. Người đã
từng dạy: “Cách học tập... phải lấy tự học làm cốt” [30, tr. 18]. Người còn nhấn
mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học” Người khuyên: “Không phải có
thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập” [30, tr. 79]. Trong
tác phẩm "Tự học - một tư tưởng lớn của Hồ Chủ Tịch về dạy học" Nguyễn Hoàng
Yến đã khái quát tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự học như sau:
1.

Một là, trong việc tự học, điều quan trọng hàng đầu là xác định rõ mục


đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn.
2.
Hai là, phải tự mình lao động để tạo điều kiện cho việc tự học suốt
đời.
3.

Ba là, muốn tự học thành công phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học tập,

phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước mọi trở
ngại.
4.
Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình
thức để
tự học.
5.

Học đến đâu, ra sức luyện tập, thực hành đến đó.

Hơn nửa thế kỷ qua, tư tưởng giáo dục của Người đã trở thành tư tưởng và lý
luận cho đường lối chính sách giáo dục đã và đang tiến hành ở nước ta. Nghị quyết
Trung ương 2 khoá VIII đã chỉ rõ: "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào
tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy - học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo
thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên." [13, tr. 41]
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và quán triệt đường lối của Đảng về phát
triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là vấn đề đổi mới cách dạy, cách học
trong các nhà trường, nhiều nhà nghiên cứu giáo dục đã làm rõ vai trò của tự học để



7


biến quá trình đào tạo của nhà trường thành quá trình tự đào tạo của bản thân. Các
tác giả như: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Đặng Bá Lãm, Nguyễn Cảnh Toàn cùng
một số nhà giáo dục khác đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động tự học
của người học. Tiêu biểu là cuốn: " Học và dạy cách học" do tác giả Nguyễn Cảnh
Toàn làm chủ biên, nhìn chung các tác giả đều khẳng định tự học có vai trò quan
trọng, nó giúp người học phát huy tính độc lập, chủ động sáng tạo để lĩnh hội và
làm chủ tri thức.
Tác giả Nguyễn Văn Đạo [14, tr.10] nhấn mạnh rằng, tự học là công việc suốt
đời của mỗi người. Theo tác giả, do cuộc sống và thực tiễn vô cùng phong phú, luôn
luôn biến động và phát triển, những kiến thức mà con người thu nhận được ở nhà
trường chỉ là những kiến thức cơ bản và tối thiểu, do đó, mỗi người sau khi ra
trường phải tự bổ túc thêm kiến thức rất nhiều. Các tác giả Đặng Thành Hưng [19],
Phạm Minh Hạc - Lê Đức Phúc [17] đã đi sâu phân tích những đặc trưng cơ bản của
hoạt động tự học. Tác giả cho rằng tự học là quá trình tự giác, chủ động, gắn với
nhu cầu, giá trị và khả năng cá nhân. Tác giả Lưu Xuân Mới [31] cho rằng việc rèn
luyện cho người học các khả năng tự học là rất quan trọng, cần tập dượt cho người
học xây dựng kế hoạch tự học một cách tỉ mỉ và thiết thực, hướng dẫn, tổ chức thực
hiện, kiểm tra - đánh giá và hướng dẫn học sinh biết cách tự kiểm tra, tự đánh giá
hoạt động tự học của mình.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã nghiên cứu vấn
đề tự học của HS ở những bình diện khác nhau, có thể khái quát một số điểm chung
như sau:
-Tự học có vai trò rất quan trọng: Tự học không chỉ quyết định kết quả học
tập mà còn là cơ sở để người học có thể học suốt đời.
-Các tác giả đều khẳng định bản chất của tự học là người học tự giác, tích
cực chủ động, độc lập lĩnh hội tri thức bằng hành động của chính mình nhưng

không tách rời sự tổ chức, điều khiển của giáo viên.
Thời gian qua, đã có một số luận văn, luận án có đề cập đến vấn đề tự học ở
những khía cạnh khác nhau như: Tìm hiểu tình hình tự học của SV; các biện pháp
nâng cao kết quả tự học của HS - SV; nghiên cứu hoạt động tự học của HS, SV; biện
pháp quản lý hoạt động tự học của HS, SV... Các tác giả đã nghiên cứu, phân tích
thực trạng của HĐTH, để từ đó đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả của

8


HĐTH từ những góc độ khác nhau. Việc đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận về tự học,
biện pháp quản lý HĐTH trên cở sở đó đề ra các biện pháp quản lý HĐTH của HS,
SV cho phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế của các trường là cần thiết. Đặc biệt,
nghiên cứu về vấn đề này để áp dụng với HS phổ thông học tập tại các Trung tâm
GDTX kết hợp với việc kế thừa tiếp thu những thành quả của các công trình nghiên
cứu trên một cách có chọn lọc để tìm ra những biện pháp quản lý HĐTH cho HS hệ
bổ túc của Trung tâm GDTX Thanh Ba, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong
giai đoạn hiện nay là rất thiết thực.

1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1.Khái niệm hoạt động học và tự học
1.2.1.1.Khái niệm hoạt động học
Học là quá trình con người lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và
những phương thức hành vi mới, do vậy ta thấy học chính là hoạt động nhằm tạo ra
sự thay đổi kinh nghiệm của người học một cách bền vững. Để lĩnh hội được những
kinh nghiệm xã hội, con người có nhiều cách thức chiếm lĩnh khác nhau, có thể là
do được người khác truyền thụ, có thể do tự quan sát, đúc kết từ lao động, môi
trường sống...v.v.
Học có thể diễn ra một cách ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày và diễn ra
ở mọi nơi, mọi lúc. Cách học này diễn ra khi tiến hành công việc lao động sản xuất,

hoạt động vui chơi..., cách học này không có chủ định dẫn đến kết quả tri thức mà
người học nắm được sẽ rời rạc và không có hệ thống. Ở người học chỉ hình thành
những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm mang lại.
Nhưng ngoài việc lĩnh hội những tri thức mang tính kinh nghiệm ra con
người cần phải nắm bắt được những tri thức khoa học, những năng lực thực tiễn
mới mà cách học ngẫu nhiên không tạo ra được. Để có được những năng lực đó
người ta tiến hành một hoạt động hướng vào để thực hiện mục tiêu đó là hoạt động
học (học có chủ đích).

1.2.1.2. Khái niệm tự học:
Có nhiều tác giả đưa ra các quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về tự học
như:

9


Nhà tâm lý học N.A. Rubakin cho rằng: "Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức
kinh nghiệm lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các quan
hệ cải tiến quan hệ ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại,
biến tri thức của loài người thành tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của bản
thân chủ thể. [43]
Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: "Tự học là tự mình động não, suy nghĩ
sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả
cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ của
mình, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu
biết nào đó thành sở hữu của mình [35, tr.59] và "Học, cốt lõi là tự học, là quá trình
phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú
giá trị của mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri
thức bên trong con người mình". [35, tr. 64]
Tác giả Nguyễn Kỳ cho rằng: Tự học là một quá trình tự đổi mới, tự phát

triển, tìm kiếm và xử lý thông tin từ môi trường bên ngoài thành tri thức bên trong
con người mình. Tự học - cốt lõi của việc học - là nội lực trọng yếu phát triển con
người, là cội nguồn của phát triển, cội nguồn của đổi mới, cội nguồn của sáng tạo.
Theo tác giả Lê Khánh Bằng: "Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng
lực trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định”. [6,
tr. 3].
Nhìn chung, theo các cách tiếp cận của các nhà nghiêm cứu thì tự học là một
hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ
năng do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp.
Tóm lại, có thể hiểu, tự học là một cách học, trong đó người học phải tự giác,
tích cực, chủ động, độc lập chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó của cuộc sống
nhằm đạt được mục đích nhất định.

1.2.2. Khái niệm và chức năng của quản lý
1.2.2.1. Khái niệm về quản lý
Quản lý là một hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm ngay khi loài người biết
lao động theo nhóm đòi hỏi có sự tổ chức, điều khiển và phối hợp hành động. Quản

10


lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, mỗi ngành khoa học nghiên
cứu quản lý từ góc độ riêng của mình và đưa ra những định nghĩa khác nhau về
quản lý.
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của cá nhân, của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến
phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và đều phải thừa nhận và chịu một sự
quản lý nào đó. C.Mác đã viết: "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ
đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát

sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí
quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn
một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng".
H. Fayol (1841 - 1925) nhà tư tưởng Pháp cho rằng: "Quản lý tức là lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra"
F.W.Taylor (1856 - 1915), người được coi là "cha đẻ của thuyết quản lý khoa
học" đã nêu lên tư tưởng cốt lõi trong quản lý là: "Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất
đều phải chuyên môn hoá và phải quản lý chặt chẽ". Theo ông: "Quản lý là nghệ
thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp
tốt nhất và rẻ nhất"
Harold Koontz cho rằng: "Quản lý là một hoạt động thiết yếu; nó đảm bảo
phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu
của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có
thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc và sự bất mãn cá nhân
ít nhất. Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật; còn kiến thức có tổ
chức về quản lý là một khoa học". [41, tr. 29]
Theo Từ điển từ và ngữ của Giáo sư Nguyễn Lân thì: “Quản: trông coi, lý:
sắp đặt” quản lý: chăm nom và sắp đặt mọi công việc trong một tổ chức [24,
tr.1483].

11


Theo PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS. Nguyễn Quốc Chí thì: "Quản lý là
quá trình đạt được đến mục đích của tổ chức bằng các hoạt động (chức năng) kế
hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra" [8; tr.1]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo và tập thể tác giả: “Quản lý là một quá trình tác
động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục
tiêu chung” [5, tr.176]
Ngoài ra, còn các khái niệm khác nhau về quản lý:

"Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý trong tổ chức, làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của
tổ chức"
"Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đã đề ra" ( Nguyễn
Minh Đạo -1997)
"Quản lý là sự tác động có hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng
quản lý bằng một hệ thống các giải pháp nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng
quản lý, đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu cuối cùng, phục vụ lợi ích con người"
(Nguyễn Bá Sơn - 2000)
Từ nhiều định nghĩa dưới các góc độ khác nhau, có thể rút ra khái niệm quản
lý như sau:
Quản lý là quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý
nhằm hướng dẫn, điều khiển các quá trình xã hội, các hành vi hoạt động của con
người để đạt tới mục đích phù hợp với ý chí của nhà quản lý và phù hợp với quy
luật khách quan.
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ lôgíc của khái niệm quản lý

Chủ thể
Mục tiêu
Khách thể

12


1.2.2.2. Các chức năng của quản lý
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ thể
quản lý, nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hoá của hoạt động quản lý. Nó là tập
hợp các nhiệm vụ mà chủ thể quản lý phải thực hiện để đạt mục tiêu đề ra. Có nhiều
cách phân chia các chức năng quản lý, song về cơ bản đều thống nhất có 4 chức

năng:
* Chức năng lập kế hoạch
Lập kế hoạch là chức năng cơ bản nhất của các chức năng quản lý. Đó là quá
trình ấn định những nhiệm vụ, những mục tiêu và phương pháp tốt nhất, để thực
hiện những mục tiêu nhiệm vụ đó. Lập kế hoạch bao gồm:

-

-

Dự báo nhu cầu phát triển;

-

Đánh giá thực trạng phát triển của tổ chức;

Xác định những mục tiêu, biện pháp và phương tiện cần thiết để thực hiện

mục tiêu đề ra.
* Chức năng tổ chức thực hiện kế hoạch
Tổ chức thực hiện kế hoạch là quá trình sắp xếp và phân phối các nguồn lực
để thực hiện mục tiêu đã đề ra, là sự sắp đặt một cách khoa học những con người,
những công việc hợp lý, là sự phối hợp để lập mối quan hệ giữa các bộ phận trong
tổ chức. Công tác tổ chức bao gồm:
-

Xác định cấu trúc cho bộ máy;

-


Tiếp nhận và phân phối các nguồn lực theo cấu trúc bộ máy;

Xác lập cơ chế phối hợp giữa các bộ phận, các thành viên trong tổ
chức.
* Chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình tác động đến con người bằng mệnh lệnh, làm cho người
dưới quyền phục tùng và làm việc đúng với kế hoạch, đúng với nhiệm vụ được
phân công. Tạo động lực để con người tích cực hoạt động bằng các biện pháp động
viên, khen thưởng, kể cả trách phạt. Nội dung của chức năng chỉ đạo bao gồm:
-

Chỉ huy, ra lệnh;

-

Động viên khen thưởng;

-

Theo dõi, giám sát;

13


-

Uốn nắn, sửa chữa, chỉnh lý.

* Chức năng kiểm tra đánh giá
Kiểm tra là một chức năng có liên quan đến mọi cấp quản lý để đánh giá

đúng kết quả hoạt động của hệ thống, đo lường các sai lệch nảy sinh trong quá trình
hoạt động với các mục tiêu, kế hoạch đã định. Qua việc kiểm tra, có thể thấy được
những tồn tại, tìm ra nguyên nhân những sai sót, lệch lạc, những vấn đề mới nảy
sinh, điều chỉnh kịp thời để bộ máy đạt được mục tiêu.
Kiểm tra theo lý thuyết hệ thống chính là thiết lập mối liên hệ ngược trong
quản lý. Có 3 yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra:
-

Xây dựng những chuẩn mực đối với các hoạt động;

-

Đối chiếu, đánh giá mức độ đạt được so với chuẩn đặt ra;

-

Điều chỉnh lại những chuẩn mực nếu cần.

Bốn chức năng của quản lý có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một
chu trình quản lý của một hệ thống, trong đó thông tin là một công cụ không thể
thiếu trong hoạt động quản lý. Thông tin đóng vai trò là huyết mạch của hoạt động
quản lý. Chu trình quản lý được thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2. Chu trình quản lý

LẬP KẾ HOẠCH

KIỂM TRA

CHỈ ĐẠO


14


1.2.3. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.3.1. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là quản lý một lĩnh vực xã hội. Quản lý giáo dục với nhà
nước XHCN là tập hợp những tác động hợp quy luật được thể hiện bằng pháp luật
của chủ thể quản lý đến tất cả các phân hệ làm cho hệ thực hiện được mục tiêu giáo
dục mà kết quả cuối cùng là chất lượng và hiệu quả quá trình đào tạo thế hệ hệ trẻ.
Cũng như các khái niệm quản lý nói chung, khái niệm quản lý giáo dục cũng
được biểu đạt một cách rất đa dạng tuỳ theo những phương diện nghiên cứu và tiếp
cận của nhà nghiên cứu về quản lý giáo dục.
Khái niệm quản lý giáo dục được các nhà nghiên cứu đưa ra như sau:
"Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có mục
đích của các chủ thể quản lí ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của toàn bộ hệ
thống...nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở
nhận thức và vận dụng những qui luật chung của xã hội cũng như các qui luật của
quá trình giáo dục về sự phát triển thể lực, trí lực và tâm lý trẻ em" [20, tr.16].
"Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp
các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát
triển của xã hội; "Quản lí nhà trường, quản lí giáo dục nói chung là thực hiện đường
lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường
vận hành tiến tới mục tiêu đào tạo theo nguyên lý giáo dục" [3].
"Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp
quy luật của chủ thể quản lí, nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối giáo dục của
Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ.[32]
Từ các khái niệm quản lí giáo dục đã trình bày ở trên, có thể định nghĩa khái
niệm quản lí giáo dục như sau: Quản lí giáo dục là một hình thức của quản lí xã
hội, là những hệ thống tác động có hệ thống, có kế hoạch của chủ thể quản lí vào

quá trình giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu của giáo dục đề ra.

15


1.2.3.2. Quản lý nhà trường
Trường học là nơi tổ chức giáo dục cơ sở, trực tiếp làm công tác giáo dục,
đào tạo thế hệ trẻ, trực tiếp tham gia vào quá trình thực hiện mục tiêu nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nhà trường là tế bào chủ
chốt của bất cứ hệ thống giáo dục nào từ Trung ương đến địa phương. Quản lí nhà
trường thực chất là quản lí giáo dục ở cơ sở.
Theo Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục
của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với ngành
giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh" (Phạm Minh Hạc-1986 Một số vấn đề
về giáo dục và khoa học giáo dục)
Điều 58, Luật Giáo dục 2005 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của nhà
trường như sau:
-

Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu,

chương trình giáo dục; xác nhận hoặc cấp văn bằng, chứng chỉ theo thẩm quyền;
-

Tuyển dụng, quản lý nhà giáo, cán bộ, nhân viên; tham gia vào quá trình

điều động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với nhà giáo, cán bộ
nhân viên;
-


Tuyển sinh và quản lý người học;

luật;

Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp

hoá;

Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại

Phối hợp với gia đình người học, tổ chức cá nhân trong hoạt động
giáo dục;
-

Tổ chức cho nhà giáo, cán bộ, nhân viên và người học tham gia các hoạt

động xã hội;
-

Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục

của cơ quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng giáo dục;
-

Các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Như vậy, quản lý nhà trường là một bộ phận hữu cơ trong quá trình giáo dục
tổng thể, trong đó quản lý quá trình dạy học là một trong những hoạt động chủ yếu
nhất trong toàn bộ hệ thống quản lý nhà trường. Quản lý quá trình dạy học là sự



16


thống nhất hữu cơ giữa quản lý hoạt động dạy học của GV và quản lý hoạt động học
tập của HS. Tất cả các hoạt động quản lý nói trên đều là những tác động có phương
hướng, có mục đích, được phối hợp một cách đồng bộ nhằm giải quyết những
nhiệm vụ quản lý của nhà trường trong đó sản phẩm cuối cùng của các hoạt động
quản lý đều được biểu hiện tập trung ở sự hình thành và phát triển nhân cách HS.
Hoạt động quản lý nhà trường chịu tác động từ những chủ thể quản lý bên trên nhà
trường (các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên) nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện
cho hoạt động của nhà trường và bên ngoài nhà trường, xây dựng những định hướng
về sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhà trường phát triển.
1.2.4. Quản lý quá trình dạy học
Quá trình dạy học theo tiếp cận hệ thống bao gồm tập hợp các thành tố cấu
trúc, có quan hệ biện chứng với nhau. Trong hệ thống mỗi thành tố đều có chức
năng riêng và tuân theo chức năng chung của hệ, mỗi thành tố trong hệ thống vận
động theo quy luật riêng và quy luật chung của hệ. Các thành tố cơ bản của quá
trình dạy học: Mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp, phương tiện, hoạt
động dạy của thầy, hoạt động học của trò. Các nhân tố trên đều có mối quan hệ qua
lại rất khăng khít với nhau, tác động lẫn nhau tạo nên chất lượng, hiệu quả của quá
trình dạy học. Quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng của hai thành tố cơ
bản trong quá trình dạy học: hoạt động dạy và hoạt động học. Đây là 2 nhân tố trung
tâm của quá trình dạy học. Do vậy, trọng tâm trong công tác quản lý nhà trường là
quản lý quá trình dạy học, mà chính là quản lý hoạt động dạy của thầy và quản lý
hoạt động học của trò.
Quản lý quá trình dạy học bao gồm: quản lý nội dung chương trình, quản lý
quá trình dạy trên lớp, quản lý quá trình giáo dục ngoài giờ lên lớp. Như vậy, quản
lý quá trình dạy học là một hệ thống tác động sư phạm có mục đích của chủ thể

quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác nhằm huy
động, phối hợp sức lực, trí tuệ của các lực lượng góp phần vào việc hoàn thành
mục tiêu đào tạo đã đặt ra.

17


1.3. Những vấn đề về hoạt động tự học
1.3.1. Đặc điểm của hoạt động tự học.
Tự học là quá trình tự điều khiển, quá trình tự chiếm lĩnh tri thức (quá trình
thu nhận, chế biến, xử lý, bảo quản và truyền đạt thông tin làm gia tăng sự hiểu biết
của cá nhân) để học kỹ - nhớ lâu - hiểu sâu - vận dụng tốt. Hoạt động tự học xét về
mặt cấu trúc bao gồm:
-

Động cơ: là nhu cầu hứng thú, thu hút người học vào quá trình học

tập tích cực và duy trì tính tích cực đó trong quá trình học tập, làm cho
người học thấy được ý nghĩa của việc học tập.
hoạt

Định hướng: là mục đích của người học để xác định và ý thức được

động nhận thức của mình, nó trả lời câu hỏi: học để làm gì?
Nội dung - phương pháp: là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chủ
đạo cần
chiếm lĩnh và các cách thức chiếm lĩnh chúng; nó trả lời câu hỏi: học cái
gì? học như thế nào?
-


Năng lực học tập: là những khả năng tập trung chú ý, năng lực trí

tuệ và năng lực thực hành vốn có để phát huy trong quá trình tự học.
-

Năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá: là khả năng tự đánh giá kết quả tự

học của mình, làm cơ sở cho những hoạt động tiếp theo.
1.3.2. Vị trí, vai trò của tự học
Tự học có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giáo dục và tự giáo dục, nó
thể hiện rõ nét ý thức tự giáo dục của HS trong cuộc sống. Theo GIBRON ''mỗi
người đều nhận hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho, một thứ quan
trọng hơn nhiều do mình tự kiếm lấy". Tự học giúp cho HS tự lực nắm vững tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, làm hành trang vững bước cho nghề nghiệp và tương lai.
Trong quá trình tự học mỗi HS tự vận động, từng bước chuyển hoá vốn kinh
nghiệm, tri thức của loài người đã tích luỹ trong quá trình lịch sử thành vốn tri thức
riêng của bản thân. Trong quá trình đó, HS đã thể hiện trình độ cao vai trò chủ thể
nhận thức của mình, kết hợp và thống nhất một cách hài hoà vai trò chủ thể với vai
trò đối tượng điều khiển trong dạy học.


18


Tự học không chỉ giúp HS không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả học
tập khi còn ở các nhà trường mà trong tương lai sẽ trở thành một con người trưởng
thành có năng lực, có hứng thú, thói quen và có phương pháp tự học, tự nghiên cứu
thường xuyên, nhất là trong thời đại kinh tế tri thức, trong xã hội học tập hiện nay.
Tự học để mở mang trí tuệ, trau dồi nghề nghiệp mà nhất là tu thân, luyện tính, bổ
túc những chỗ khuyết lớn trong nền giáo dục nhà trường; nói như Nguyễn Hiến Lê

"Tự học bổ khuyết cho nền giáo dục của nhà trường" và theo ông "Người nào đã
kiên tâm tự học thì sớm muộn gì cũng vượt hẳn lên trên những người khác, không
giàu hơn thì cũng được kính trọng hơn" [25; tr.15]. Nó sẽ giúp chủ thể nhận thức
thường xuyên cập nhật kiến thức giải quyết được các yêu cầu bức xúc của cuộc
sống đặt ra, tránh được sự lạc hậu trước sự phát triển ngày càng gia tăng của xã hội
trong thời đại ngày nay.
Tự học - một hoạt động của người học (HS) giúp cho chính người học vươn
lên trong cuộc sống, tự khẳng định mình bằng các đức tính kiên trì, chịu khó, xây
dựng ý chí phấn đấu vì khoa học, vì cuộc sống, sớm xác định được định hướng,
niềm tin và lòng say mê nghiên cứu khoa học. Do vậy, hoạt động tự học cần phải có
kế hoạch khoa học, thời gian biểu hợp lý thì mới đem lại hiệu quả, chất lượng, đồng
thời nó góp phần thúc đẩy chất lượng tự học, tự nghiên cứu như mong muốn.
1.3.3. Các hình thức và kỹ năng tự học
Tự học của HS có ba hình thức bao gồm:
Tự học diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của giáo viên, hay tự học diễn ra
có sự hướng dẫn "mặt đối mặt" của thầy với trò và các phương tiện kỹ thuật ở trên
lớp. Ngay trong trường hợp này, để có thể học được dưới sự hướng dẫn của thầy
(ngoại lực) HS phải tự động não, tự quan sát, tự phân tích, tự tổng hợp, tự trừu
tượng hoá, tự khái quát hoá, tự lựa chọn những tri thức cần ghi chép,... Nói cách
khác, HS phải huy động toàn bộ nhân cách (nội lực) để tiếp thu tri thức.
Hình thức thứ hai là tự học diễn ra không có sự hướng dẫn "mặt đối mặt" của
thầy mà chỉ có sự hướng dẫn của thầy một cách gián tiếp (thầy hướng dẫn, giao
nhiệm vụ trên lớp hoặc hướng dẫn từ xa một cách gián tiếp thông qua thư hay các
phương tiện kỹ thuật của công nghệ thông tin)

19


Hình thức thứ ba là tự học diễn ra hoàn toàn thoát ly khỏi sự hướng dẫn của
thầy: HS tiến hành tự học nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết riêng của mình về

những tri thức mà thầy không bắt buộc.
Kỹ năng tự học của HS sẽ dần được hình thành và phát triển trong khi thực
hiện ba hình thức tự học trên. Kỹ năng tự học được hiểu là những phương thức tiến
hành tự học phù hợp với mục đích và điều kiện tự học nhằm giải quyết có kết quả
các nhiệm vụ học tập đã đề ra. Kỹ năng tự học của HS rất đa dạng, trong đó kỹ năng
đọc sách và kỹ năng thực hành cung cấp những tri thức cơ bản nhất.
Để thực hiện có kết quả tự học, điều quan trọng là HS phải có các kỹ năng tự
học. Chính những kỹ năng tự học giúp HS hoàn thành những nhiệm vụ tự học, làm
thoả mãn nhu cầu nhận thức của bản thân. Do đó, việc hình thành và rèn luyện các
kỹ năng tự học là rất cần thiết đối với HS, không chỉ giúp HS đạt được kết quả học
tập cao ở trường mà còn giúp các em có năng lực tự học, có khả năng đáp ứng được
nhu cầu hiểu biết của bản thân sau này cũng như đáp ứng được các yêu cầu liên tục
phát triển của xã hội.
Việc hình thành và rèn luyện kỹ năng tự học của HS chịu ảnh hưởng của các
yếu tố khách quan (yếu tố ngoại lực) và yếu tố chủ quan (yếu tố nội lực).
Các yếu tố khách quan đó là: mục tiêu, nội dung giảng dạy; phương pháp
giảng dạy của giáo viên; những điều kiện vật chất và tinh thần do nhà trường tạo ra
phục vụ cho việc học tập của HS; tập thể HS; cách kiểm tra thi cử và đánh giá kết
quả học tập của nhà trường; điều kiện sống và sinh hoạt của HS; gia đình HS....
Các yếu tố chủ quan đó là: động cơ học tập; hứng thú học tập; ý trí, ý thức tự
giác trong học tập; phương pháp kỹ năng học tập; trình độ ngoại ngữ...
Các yếu tố khách quan (yếu tố ngoại lực) và yếu tố chủ quan (yếu tố nội lực)
có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ cho nhau. "Nội lực là quyết định, ngoại lực là
quan trọng và cũng chỉ quan trọng trong chừng mực nó kích thích được nội lực"
[36; tr.14]. "Ngoại lực tác động đến nội lực như thế nào là thước đo chất lượng dạy
học. Tác động có thể là kìm hãm (nếu thầy áp đặt) là kích thích nội lực (nếu thầy
gợi mở, khuyến khích) mà đỉnh cao là tạo nên sự cộng hưởng của nội lực"
[34;tr.60]. Có thể thấy rằng một điều lý tưởng sẽ đem lại hiệu quả học tập cao là có

20



×