Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

Các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện lục nam tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

NGUYỄN ĐÌNH THẮNG

CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG
XUYÊN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

TÓM TẮT

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 05

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Kiểm

HÀ NỘI, NĂM 2006
0


MỤC LỤC
Mở đầu
1.

Lý do chọn đề tài

2.

Mục đích nghiên cứu


3.

Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu

4.

Giả thuyết khoa học

5.

Nhiệm vụ nghiên cứu

6.

Giới hạn đề tài

7.

Phƣơng pháp nghiên cứu

8.

Kế hoạch và tiến độ nghiên cứu

9.

Cấu trúc luận văn

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của việc quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng
giáo dục ở Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến Trung tâm GDTX
1.2.1. Một số khái niệm về GDTX, Trung tâm GDTX
1.2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta và thế giới về GDTX
1.2.3. Vị trí của GDTX trong hệ thống Giáo dục quốc dân
1.2.4. Vai trò của GDTX trong việc phát triển nguồn nhân lực
1.3. Quản lý chất lượng hệ Bổ túc THPT tại trung tâm GDTX
1.3.1. Đặc điểm hệ Bổ túc THPT trong Trung tâm GDTX
1.3.2. Một số khái niệm
1.3.3. Quản lý chất lƣợng giáo dục hệ Bổ túc THPT
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý chất lượng giáo dục tại
Trung tâm GDTX
1.4.1. Yếu tố chủ quan

6


1.4.2. Yếu tố khách quan
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý chất lƣợng giáo dục hệ Bổ túc Trung
học phổ thông ở Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang
2.1. Tình hình kinh tế xã hội và giáo dục ở huyện Lục Nam, tỉnh
Bắc Giang.
2.1.1. Tình hình kinh tế xã hội
2.1.2. Tình hình Giáo dục
2.2. Thực trạng phát triển GD-ĐT của Trung tâm GDTX Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang
2.3. Đánh giá chất lượng giáo dục tại Trung tâm GDTX Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang.
2.4. Thực trạng công tác quản lý chất lượng giáo dục của Trung

tâm GDTX Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
2.4.1. Thực trạng quản lý chất lƣợng đầu vào
2.4.2. Thực trạng quản lý nội dung chƣơng trình
2.4.3. Thực trạng quản lý bồi dƣỡng giáo viên
2.4.4. Thực trạng quản lý hoạt động dạy và học
2.4.5. Thực trạng quản lý CSVC và các trang thiết bị dạy học
2.4.6. Thực trạng quản lý việc kiểm tra, đánh giá.
2.5. Đánh giá ưu, nhược điểm và phân tích nguyên nhân của công
tác quản lý chất lượng giáo dục tại Trung tâm GDTX Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang.
2.5.1.Ƣu điểm
2.5.2. Nhƣợc điểm
2.5.3 Nguyên nhân
Chƣơng 3: Đề xuất biện pháp quản lý chất lƣợng giáo dục hệ bổ túc

7


trung học phổ thông ở Trung tâm giáo dụcthƣờng xuyên
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
3.1. Yêu cầu của việc đề xuất biện pháp
3.2. Các nhóm biện pháp cụ thể
3.2.1. Tăng cƣờng tuyên truyền nhận thức về vị trí và vai trò của
Trung tâm GDTX
3.2.2. Quản lý chặt chẽ công tác tuyển sinh và đánh giá học lực của
học viên đầu năm học.
3.2.3. Quản lý chặt chẽ việc thực hiện nội dung chƣơng trình học tập
3.2.4. Tăng cƣờng bồi dƣỡng giáo viên
3.2.5. Quản lý hoạt động học của học viên
3.2.6.Nghiêm túc thực hiện kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy và học

3.2.7. Quản lý đảm bảo cung cấp đầy đủ CSVC, trang thiết bị phục vụ
dạy và học
3.2.8. Mối quan hệ giữa các biện pháp
3.3. Khảo nghiệm các biện pháp đề xuất
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận
2. Khuyến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

8


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục - đào tạo là động lực quan trọng trong sự phát triển kinh tế- xã
hội của mỗi quốc gia. Trong cuộc xây dựng và phát triển, con ngƣời đƣợc
đánh giá là nhân tố quan trọng hàng đầu. Để có đƣợc những con ngƣời có
phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội thì giáo dục đóng vai trò hết
sức to lớn.
Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nƣớc ta
hiện nay, Đảng và nhà nƣớc ta đã khẳng định:… “Cùng với khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [13, tr107]. Nghị quyết trung ƣơng 4 khoá
VII của Đảng cũng đã chỉ rõ:…“Cần phải thực hiện một nền giáo dục thường
xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm
của mỗi công dân”. Giáo dục thƣờng xuyên có vai trò rất quan trọng trong
việc đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực, nhằm thúc đẩy sự phát triển tài
nguyên con ngƣời, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng “nâng cao

dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Luật giáo dục 2005 đã khẳng
định vị trí của giáo dục thƣờng xuyên trong hệ thống giáo dục quốc dân tại
Điều 4: “hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính qui và giáo dục
thường xuyên”. Giáo dục thƣờng xuyên vừa là phƣơng thức học tập vừa là
nhu cầu phát triển và đã trở thành một bộ phận quan trọng bên cạnh giáo dục
chính qui trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Chính vì vậy, để nâng cao dân trí không thể chỉ dựa vào phƣơng thức
giáo dục chính quy mà phải kết hợp giữa các loại hình chính quy với các loại
hình đào tạo khác. Trong đó giáo dục thƣờng xuyên có một vai trò đặc biệt
quan trọng bởi lẽ mục tiêu của giáo dục thƣờng xuyên là: “ tạo ra một xã hội
học tập nhằm cung cấp những cơ hội học tập thường xuyên, suốt đời phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của từng người, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã
9


hội, khoa học công nghệ…nhất là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước trong giai đoạn hiện
nay”.
Trong những năm qua, đặc biệt là khoảng 10 năm trở lại đây GDTX
nƣớc ta đã phát triển nhanh chóng. GDTX đã đạt đƣợc những thành tựu đáng
kể về mọi mặt, góp phần to lớn trong công cuộc xoá mù chữ, phổ cập bậc tiểu
học… từng bƣớc nâng cao mặt bằng dân trí, tỉ lệ ngƣời lao động đƣợc đào
tạo ngày càng cao. Bên cạnh hệ thống giáo dục chính qui tập trung cho đào
tạo thế hệ trẻ đƣợc tổ chức chặt chẽ về thời gian, độ tuổi, giáo dục thƣờng
xuyên linh hoạt hơn về thời gian, độ tuổi, phƣơng thức; có thể vừa học, vừa
làm, học từ xa, tự học có đăng ký. Từ việc xây dựng mục tiêu, xác định nội
dung, chƣơng trình, phƣơng pháp giáo dục, tổ chức thi cử, cấp văn bằng,
chứng chỉ đến việc xây dựng hệ thống cơ sở giáo dục thƣờng xuyên trong hệ
thống giáo dục ngày càng đƣợc quan tâm và phát triển để thực hiện chức
năng quan trọng đó là xây dựng xã hội học tập.

Bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc của hệ thống GDTX thì GDTX
vẫn bộc lộ những yếu kém, nhƣợc điểm. Thể hiện ở chỗ còn nặng về số
lƣợng đào tạo, chƣa có biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lƣợng giáo dục
đào tạo. Những hạn chế trên bộc lộ ở việc thể hiện vai trò quản lý trong quá
trình đào tạo nhƣ quản lý giáo viên, quản lý học viên, quản lý cơ sở vật chất,
việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của giáo viên đối với học viên.
Để khắc phục những mặt hạn chế trên và từng bƣớc nâng cao chất
lƣợng giáo dục đào tạo ở Trung tâm GDTX cấp huyện, góp phần xây dựng và
phát triển nền kinh tế địa phƣơng ngày một vững chắc trong công cuộc công
nghiệp hoá-hiện đại hoá của đất nƣớc hiện nay tôi quyết định chọn đề tài “
Các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở Trung tâm Giáo
dục thường xuyên Huyện Lục Nam, Tỉnh Bắc Giang ” cho luận văn tốt nghiệp
của mình.
10


2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục ở Trung
tâm GDTX thƣờng xuyên huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: công tác quản lý giáo dục đào tạo ở Trung tâm
GDTX Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
- Đối tƣợng nghiên cứu: công tác quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục
hệ BT THPT ở Trung tâm GDTX Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đƣa ra đƣợc một số biện pháp quản lý phù hợp thì sẽ nâng cao đƣợc chất
lƣợng giáo dục hệ BT THPT ở Trung tâm GDTX Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
-


Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài

- Nghiên cứu thực trạng quản lý giáo dục đào tạo ở trung tâm GDTX Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang.
dục

Đề xuất một số biện pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lƣợng giáo

ở Trung tâm GDTX Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
- Khảo nghiệm các biện pháp đề xuất.
6. Giới hạn đề tài:
- Đề tài tập trung nghiên cứu một số biện pháp quản lý chất lƣợng giáo dục ở
một số Trung tâm GDTX trong tỉnh Bắc Giang.
-

Tập trung nghiên cứu hệ Bổ túc THPT

- Tiến hành áp dụng thử nghiệm các biện pháp đó trong việc quản lý chỉ đạo
quá trình giáo dục đào tạo tại Trung tâm GDTX Lục Nam.
-

Số liệu điều tra từ năm 2000 đến nay.

7. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận: Tham khảo các văn kiện của Đảng,
nhà nƣớc, Bộ GD-ĐT, Luật giáo dục, các văn bản, tài liệu có liên quan đến
11


vấn đề nghiên cứu.

- Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn: phƣơng pháp điều tra xã hội học,
trò chuyện, phỏng vấn, làm phiếu điều tra. Từ đó đánh giá thực trạng quá trình
giáo dục hệ BT THPT ở Trung tâm GDTX Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
-

Nhóm phƣơng pháp bổ trợ:
+

Phƣơng pháp chuyên gia

+

Sử dụng toán thống kê xử lý số liệu.

8. Kế hoạch và tiến độ nghiên cứu
Đề tài dự kiến nghiên cứu trong 2 năm, bắt đầu từ tháng 09 năm 2004.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn đƣợc cấu trúc trong ba chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng
giáo dục ở Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý chất lƣợng giáo dục hệ Bổ túc Trung học phổ thông
ở Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

Chƣơng 3: Đề xuất các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục
hệ Bổ túc Trung học phổ thông ở Trung tâm Giáo dục thƣờng
xuyên
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

12



Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƢỜNG

XUYÊN

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động nhằm đạt hiệu quả
nhiều hơn, năng suất cao hơn trong công việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy phối
hợp điều hành, kiểm tra, chỉnh lý…do đó yêu cầu đặt ra là phải có ngƣời
đứng đầu để điều hành các thành viên trong nhóm, trong tổ chức đạt mục tiêu
đề ra.
K-Marx giải thích một cách khái quát rằng quản lý là sự xác lập tƣơng hợp
giữa công việc của từng cá nhân nhằm thực hiện những chức năng cũng xuất
hiện trong sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, khác với sự vận động của
những cơ quan độc lập của nó. Một cách hình ảnh K-Marx đã lột tả bản chất
của quản lý là hoạt động lao động để điều khiển lao động, ông đã nói: “ một
nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển mình còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng” để
nêu bật sự tất yếu và vô cùng quan trọng của hoạt động quản lý trong quá
trình phát triển của xã hội loài ngƣời.
W.Taylor cho rằng: “ Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người
khác làm và sau đó thấy họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ
nhất”.
H.Koontz khẳng định: “ Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó bảo
đảm phối hợp những phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt
được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi
trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với
thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất,..”.
Theo tác giả Trần Kiểm thì “ quản lý là những tác động của chủ thể

quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối
13


các nguồn lực ( nhân lực ,tài lực, vật lực) trong và ngoài tổ chức ( chủ yếu là
nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao
nhất” [18, tr15].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí- Nguyễn Thị Mỹ Lộc “ Hoạt động quản
lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể ( ngƣời quản lý) đến
khách thể quản lý ( ngƣời bị quản lý), nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt
được mục đích của tổ chức”[8].
Theo GS.TSKH Lê Du Phong thì quản lý là hoạt động có ý thức của
con ngƣời nhằm phối hợp hành động của một nhóm ngƣời hay một cộng
đồng ngƣời để đạt đƣợc các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
Theo Đại Bách khoa toàn Liên xô, 1977, quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau ( xã hội, sinh vật, kỹ
thuật), nó bảo toàn cấu trúc xác định, duy trì chế độ hoạt động , thực hiện
những chƣơng trình, mục đích hoạt động.
Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên cấp huyện là một trong những cơ sở
của phƣơng thức giáo dục không chính qui. Nhiệm vụ chính của trung tâm
GDTX cấp huyện là:
-

Dạy Bổ túc văn hoá cho bậc Tiểu học, THCS và THPT .

Làm công tác Hƣớng nghiệp và dạy nghề phổ thông cho học sinh

THCS và THPT trong toàn huyện.
-


Điều tra nhu cầu học tập trên địa bàn, xác định nội dung học tập cần

thiết, đề xuất việc tổ chức các hình thức học phù hợp với từng loại đối
tƣợng…
lao

Chuyển giao kiến thức chuyên đề khoa học kỹ thuật cho ngƣời

-

Dạy nghề ngắn hạn, dài hạn .

-

Làm công tác phổ cập THCS .

động .

14


Dạy Bổ túc văn hoá THPT là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
Trung tâm GDTX. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc đặt ra
yêu cầu cho ngành Giáo dục - Đào tạo là phải đào tạo những con ngƣời lao
động mới "năng động, sáng tạo, giàu lòng nhân ái". Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX tiếp tục khẳng định Giáo dục - Đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát
triển giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con ngƣời - yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững; một
trong những phƣơng hƣớng phát triển giáo dục và đào tạo là tiếp tục nâng

cao chất lƣợng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phƣơng pháp dạy và
học, hệ thống trƣờng lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện "Chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa"; Đội ngũ giáo viên của Trung tâm còn hạn chế về số
lƣợng, phần lớn phải hợp đồng với các giáo viên của các trƣờng xung quanh;
Chất lƣợng đầu vào lớp 10 hàng năm tƣơng đối thấp chính vì vậy phải luôn
tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lƣợng giáo dục. Đặc biệt là việc quản lý
đội ngũ giáo viên.
Quản lý có vai trò quan trọng trong tất cả các công việc. Vì vậy trong
giáo dục rất cần thiết phải có quản lý. Quản lý để nâng cao đƣợc chất lƣợng
cũng nhƣ tất cả các lĩnh vực liên quan đến giáo dục nhƣng quản lý bằng cách
nào và quản lý nhƣ thế nào để nâng cao đƣợc chất lƣợng giáo dục đối với các
Trung tâm GDTX nói chung và Trung tâm GDTX Lục Nam nói riêng thì
trong chƣơng trình của luận văn phần chƣơng 3 tác giả mạnh rạn đƣa ra một
vài biện pháp để cùng trao đổi.
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến Trung tâm GDTX
1.2.1. Một số khái niệm về GDTX, Trung tâm GDTX
1.2.1.1 Khái niệm về GDTX
Thuật ngữ “ Giáo dục thƣờng xuyên” đƣợc hiểu là sự giáo dục dành

15


cho hay tiến hành bởi những ngƣời đã hoàn thành vòng giáo dục ban đầu
trong thời niên thiếu. Với tƣ cách trên, trong nhiều trƣờng hợp, thuật ngữ này
đƣợc coi là đồng nghĩa với “ Giáo dục ngƣời lớn”.
Tuy nhiên, đây là một khái niệm mà nội hàm của nó đang phát triển và
hoàn thiện dần. Khái niệm GDTX trong mỗi thời gian cũng đƣợc hiểu theo
cách khác nhau và ở mỗi nƣớc cũng có cách hiểu khác nhau.
Để thúc đẩy GDTX phát triển cả về quy mô và chất lƣợng , UNESCO
khu vực Châu Á Thái Bình Dƣơng đã xây dựng một quan niệm về GDTX

tƣơng đối phù hợp với các nƣớc trong vùng.
Trong khuôn khổ của “ chƣơng trình giáo dục cho mọi ngƣời: Châu Á
Thái Bình Dƣơng, GDTX đƣợc hiểu là “ một khái niệm rộng lớn, bao gồm
tất cả các cơ hội học tập và mọi ngƣời muốn hoặc cần có sau xoá mù chữ và
giáo dục Tiểu học”.
Theo quan niệm này GDTX là một khái niệm rộng, bao gồm cả GDCQ,
GDKCQ và GDPCQ cho những ngƣời lớn hoặc thanh niên cần và có nhu cầu
sau khi biết chữ hoặc tƣơng đƣơng tiểu học, không bao gồm XMC. Định
nghĩa này ta có thể hiểu là:
- GDTX là dành cho ngƣời lớn( hoặc ngƣời đƣợc xã hội coi là ngƣời
lớn)
GDTX đáp ứng các nhu cầu mong muốn học tập của mọi
ngƣời.
-

GDTX có thể bao gồm những bộ phận do các bộ phận giáo dục chính

quy, giáo dục không chính quy và giáo dục không chính thức tiến hành.
-

GDTX đƣợc định nghĩa là “ cơ hội tham gia vào quá trình học tập

suốt đời sau khi kết thúc Tiểu học hoặc tƣơng đƣơng”.
Định nghĩa trên cũng chứa đựng một gợi ý là XMC không thuộc lĩnh
vực “GDTX”. Với quan niệm này của UNESCO khu vực thì GDTX và
GDKCQ không đồng nhất với nhau. GDTX là một khái niệm rộng nó vừa là
GD chính quy vừa là GD không chính quy và GD phi chính quy. Ba bộ phận
16



này của GDTX không đứng riêng lẻ, tách rời nhau mà chúng xen kẽ, kế tiếp
nhau trong suốt cuộc đời của mỗi ngƣời.


Việt Nam, thuật ngữ GDTX chƣa đƣợc phân biệt rạch ròi nhƣ thế,

GDTX đƣợc hiểu và quan niệm dựa trên các bình diện khác nhau.
Tại hội thảo về chiến lƣợc phát triển giáo dục đến năm 2020, báo cáo
của Vụ giáo dục thƣờng xuyên- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu: “ Giáo dục
thường xuyên được hiểu một cách khái quát là cung ứng cơ hội cho mọi
người để học tập suốt đời nhằm thúc đẩy tài nguyên con người thông qua các
chương trình XMC, chương trình tương tương, chương trình nâng cao chất
lượng cuộc sống, chương trình tạo thu nhập, chương trình đáp ứng sở thích
cá nhân, chương trình định hướng tương lai”.[10]
Với quan niệm này, GDTX đồng nghĩa với giáo dục tiếp, tức là mở
rộng chủ yếu của XMC và PCGDTH nhằm thúc đẩy sự phát triển tài nguyên
con ngƣời. Giáo dục thƣờng xuyên có chức năng thay thế, nối tiếp, bổ sung
và hoàn thiện kiến thức cho giáo dục chính quy. GDTX không phải hoạt động
xảy ra một lần rồi chấm dứt mà là một quá trình kéo dài suốt cả cuộc đời. Ở
Việt Nam, nhiều thuật ngữ đã đƣợc sử dụng nhƣ “Bình dân học vụ”, “Bổ túc
văn hoá”, “Giáo dục bổ túc”, “Giáo dục phổ thông người lớn”, “Giáo dục
thường xuyên, “GDKCQ” đã phản ánh đƣợc sự tiến triển trong quan niệm về
GDTX ở Việt Nam và xu thế hoà nhập với các nƣớc trong khu vực. Quan
niệm về GDTX ngày càng mở rộng, từ chỗ chỉ quan tâm đến XMC, BTVH,
nay đã quan tâm đến nhiều loại hình học tập khác nhau.
Qua những khái niệm trên ta có thể nói GDTX, học tập thƣờng xuyên
sẽ mở rộng thành giáo dục suốt đời, học tập suốt đời, trở thành một nguyên
tắc chi phối cả nền giáo dục, kết hợp hài hoà với nguyên tắc giáo dục cho mọi
ngƣời, ai cũng đƣợc học hành. Đó chính là nguyên tắc cơ bản của nền giáo
dục thế kỉ 21 của nƣớc ta.

1.2.1.2. Khái niệm về Trung tâm GDTX
17


Trung tâm GDTX đƣợc coi là đồng nghĩa với Trung tâm giáo dục
ngƣời lớn. Hai thuật ngữ này đƣợc hiểu là diễn ra những hoạt động có tổ
chức cho việc giáo dục ngƣời lớn.
Trong Hội nghị về Trung tâm GDTX đƣợc tổ chức tại Srilanca tháng
11
năm 1994 đã định nghĩa: “ Trung tâm GDTX là tổ chức giáo dục địa phương,
ngoài hệ thống giáo dục chính quy, thuộc các làng hoặc các cộng đồng thành
phố, thường được quản lý bởi nhân dân địa phương, có nhiệm vụ cung cấp
nguồn lực cho sự phát triển địa phương và việc học tập định hướng theo gia
đình và cung cấp thông tin về câu hỏi: Cái gì?, làm sao? ở đâu? khi nào? các
cá nhân có thể tham gia vào các hình thức học tập khác nhau của GDTX”.


nƣớc ta, Trung tâm GDTX đƣợc hiểu là tổ chức căn bản của hệ thống

GDTX. Vai trò của Trung tâm GDTX trong hệ thống GDTX cũng tƣơng tự

nhƣ vai trò của nhà trƣờng trong hệ thống giáo dục chính quy, truyền thống.
Trung tâm GDTX vừa là nơi trực tiếp, vừa là đầu mối liên kết với các
tổ chức khác nhau trong cộng đồng cung cấp các cơ hội học tập cho những
ngƣời không có điều kiện học trong nhà trƣờng chính quy. Các Trung tâm
GDTX đƣợc bố trí thành một mạng lƣới, mỗi Trung tâm GDTX phục vụ cho
một địa bàn dân cƣ. Hiện nay trong hệ thống GDTX của nƣớc ta có các Trung
tâm GDTX cấp tỉnh và Trung tâm GDTX cấp huyện. Tuy nhiên quan hệ giữa các
Trung tâm GDTX này không phải là quan hệ “ trên, dƣới” trong quản lý.


1.2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta và thế giới về GDTX
1.2.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về GDTX
Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về GDTX ở Việt Nam, phải bắt đầu từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam đƣợc thành lập. Phong trào học chữ quốc ngữ, xóa
nạn mù chữ cho ngƣời lớn phát triển mạnh mẽ. Trƣớc Cách mạng tháng Tám, cả
nƣớc ta chỉ có 3% dân số đƣợc học hành, chủ yếu là những ngƣời đƣợc đào tạo
ra nhằm phục vụ cho bộ máy cai trị của thực dân Pháp, do đó,

18


chống nạn thất học, nâng cao dân trí là nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà
nƣớc ta. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề
nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”. Sau đó liên tục các sắc lệnh 17,
19, 20 đã ra đời nhằm chống nạn thất học, bắt buộc và miễn phí cho mọi ngƣời
học chữ quốc ngữ. Cuối năm 1958, chiến dịch 3 năm (1956

- 1958) XMC kết thúc, vùng đồng bằng và trung du miền Bắc đã căn bản xóa
xong nạn mù chữ; 93,4% dân số từ 12 đến 50 tuổi đã biết đọc, viết chữ quốc
ngữ.
Sau chiến dịch xóa mù chữ, miền Bắc bƣớc vào giai đoạn phát triển với
quy mô lớn, Đảng và Nhà nƣớc đã chỉ đạo tổ chức dạy BTVH nhằm nâng cao
trình độ văn hóa cho đội ngũ cán bộ, công nhân - viên chức. Nghị quyết 93/TW,
ngày 2/12/1959 của Trung ƣơng Đảng đã chỉ rõ : “Trình độ văn hóa thấp kém
của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, ngày càng trở ngại lớn đến công cuộc xây
dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Yêu cầu bức thiết là phải ra
sức đẩy mạnh và lãnh đạo tốt phong trào BTVH”. Chỉ thị 97 của Ban Bí thƣ
Trung ƣơng Đảng, ngày 18/5/1965 đã nêu rõ: “Công tác BTVH phải được đặt ra
cấp thiết hơn trước và bước vào một thời kỳ phát triển mới. Trên miền Bắc, toàn

dân đã được huy động thành một lực lượng sản xuất và chiến đấu hùng hậu,
đang đòi hỏi có một trình độ văn hóa cao hơn để nhanh chóng tiếp thu được kỹ
thuật sản xuất, nghiệp vụ quản lý cũng như hiểu biết cần thiết về chiến tranh
nhân dân và quốc phòng toàn dân”. Từ đó việc học BTVH đƣợc phát triển rộng
rãi; nội dung học tập cũng đƣợc xác định phù hợp với từng loại đối tƣợng. Ngày
29/9/1996 Hội đồng Chính phủ có chỉ thị số 114
- CP xác định đầy đủ hơn về nội dung dạy - học BTVH : “Nội dung học tập phải
tinh giản thiết thực, phải kết hợp chặt chẽ việc học văn hóa với kỹ thuật và chính
trị, vừa đảm bảo kiến thức khoa học cơ bản cần thiết, vừa gắn liền với thực tiễn
sản xuất, chiến đấu và đời sống”. Chỉ thị 110 - CP ngày 13/71968

19


của HĐ Chính phủ đã bổ sung thêm : “Nội dung BTVH phải phù hợp đến
từng loại đối tượng, người đứng tuổi chỉ cần học những kiến thức trực tiếp
cho công tác sản xuất, thanh niên học tương đối toàn diện hơn”.
Sau thời kỳ XMC và BTVH, Nhà nƣớc bổ sung thêm ngoài BTVH còn
tổ chức học theo quy trình cấp lớp , tổ chức giảng dạy học tập tri thức phổ
thông cơ bản gắn với nghề nghiệp quy định cấp lớp. Từ đó chuyển đổi từ
trƣờng BTVH đơn chức năng thành trung tâm GDTX đa chức năng để đáp
ứng nhu cầu
học tập của nhân dân .
-

Nghị quyết Trung ƣơng 4 khoá VII đã khẳng định: “ Cần phải thực

hiện một nền GDTX cho mỗi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và
trách nhiệm của mỗi công dân. Đổi mới giáo dục Bổ túc và đào tạo tại chức,
khuyến khích phát triển các loại hình GD-ĐT không chính quy, khuyến khích

tự học. Mở rộng dạy học ngoại ngữ.” [15]
-

Nghị quyết Trung ƣơng 2 khoá VIII cũng đƣa ra chủ trƣơng nhằm

thực hiện công bằng xã hội: “ tạo điều kiện để ai cũng được học hành”, “ tạo
cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn
cảnh của mình”, “ mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là
hình thức học tập từ xa. Quan tâm đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý , kỹ
thuật nghiệp vụ và công nhân các doanh nghiệp… tăng cường đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp các ngành.”
-

Trong mục tiêu đến năm 2020, nghị quyết Trung ƣơng 2 đề ra hoàn

thành phổ cập THCS vào năm 2010 và THPT vào năm 2020. Phát triển giáo
dục ở các vùng dân tộc thiểu số, các vùng khó khăn. Phấn đấu giảm sự chênh
lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng lãnh thổ.
Cũng trong nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
tiếp tục
đƣa ra định hƣớng về phát triển giáo dục và đào tạo đó là đổi mới cơ bản công
tác quản lý và tổ chức giáo dục; xây dựng hệ thống giáo dục nhằm tạo điều

20


kiện cho mọi ngƣời có thể học tập suốt đời theo hƣớng thiết thực, hiện đại,
gắn chặt với yêu cầu của xã hội. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật
để bảo đảm sự nghiệp giáo dục phát triển ổn định, chất lƣợng, hiệu quả đáp
ứng nhu cầu về con ngƣời và nguồn nhân lực cho đất nƣớc phát triển nhanh

và bền vững.
Thực hiện theo tinh thần của Đảng: “Tạo điều kiện để ai cũng được học
hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập” Trong
giai đoạn 2001 - 2010 phải tập trung vào :
-

Thực hiện XMC cho đồng bào các dân tộc miền núi vùng sâu, vùng

xa, vùng khó khăn. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những ngƣời nghèo,
ngƣời thiệt thòi đƣợc nâng cao trình độ dần từng bƣớc, đặc biệt là phụ nữ.
Xây dựng loại chƣơng trình giáo dục phù hợp với nhiều loại đối
tƣợng.

-

Đa dạng hóa các loại hình học tập, địa phƣơng hóa các cách tổ chức

quản lý học tập nhƣ các trung tâm học tập cộng đồng, các lớp linh hoạt để tạo
điều kiện ai cũng đƣợc học hành.
- Có chính sách thỏa đáng giúp những ngƣời gặp nhiều khó khăn có thể
học tập đƣợc.
Phát triển GDTX nhằm thực hiện giáo dục cho mọi ngƣời với ý tƣởng
học tập suốt đời để tiến tới XHHT, ở đó mọi thành viên của xã hội đều bình
đẳng về quyền học tập, để nâng cao trình độ học vấn, nâng cao chất lƣợng
cuộc sống. Và vì thế, GDTX không thể chỉ dựa vào Nhà nƣớc mà phải biết
dựa vào cộng đồng, do cộng đồng mà phát triển các loại hình học tập phù hợp
và xem nhƣ là một hình thức huy động mọi tiềm năng của cộng đồng để xây
dựng XHHT.
Đến năm 2010 có 90% số xã có trung tâm học tập cộng đồng; trung tâm
giáo dục thƣờng xuyên, trung tâm ngoại ngữ, tin học đƣợc thành lập ở tất cả

các huyện.

21


-

Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X trong nghị quyết của Đại hội phần

định hƣớng phát triển về giáo dục và đào tạo tiếp tục khẳng định đổi mới tƣ duy
giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp
đến cơ cấu hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo đƣợc chuyển biến cơ bản và
toàn diện của nền giáo dục nƣớc nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực
và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế
hoạch đồng bộ. Xây dựng nền giáo dục của dân, do dân và vì dân; bảo đảm công
bằng về cơ hội học tập cho mọi ngƣời, tạo điều kiện để

toàn xã hội học tập và học tập suốt đời.
-

Nghị quyết 90 CP ngày24/11/1993 đã nêu: “ GDTX là một trong năm

phân hệ trong cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân với các chức
năng dạy BTVH, dạy nghề, ngoại ngữ, tin học” . Đến năm 1998 theo luật GD
thì GDTX chuyển thành phƣơng thức GDKCQ là một bộ phận của hệ thống
GD quốc dân.
-

Điều 44 của Luật giáo dục cũng đã khẳng định: “ Giáo dục thường


xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn
thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn,
nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và
thích nghi với đời sống xã hội . Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục
thường xuyên, thực hiện giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học
tập.”[21]
Trong kế hoạch hành động quốc gia cho mọi ngƣời giai đoạn 2003 2015 đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt ngày 02/7/2003, thể hiện rõ quan
điểm của Đảng, Nhà nƣớc về xây dựng và phát triển GDTX/ GDKCQ là:
+

Mục tiêu (1) : Đảm bảo rằng tất cả thiếu niên thất học (trong độ tuổi tiểu

học và THCS) đều có cơ hội học tập để đạt tới trình độ Tiểu học và THCS.
+

Mục tiêu (2) : Đảm bảo rằng tất cả ngƣời lớn, đặc biệt là phụ nữ và các

nhóm thiệt thòi đều đƣợc tiếp cận miễn phí với các chƣơng trình XMC và sau
22


XMC có chất lƣợng, các chƣơng trình đào tạo có chất lƣợng và ở mức độ phù
hợp với điều kiện kinh tế về kỹ năng sống cũng nhƣ cơ hội học tập suốt đời.

+

Mục tiêu (3) : Nâng cao chất lƣợng, sự phù hợp và kết quả của tất cả các

chƣơng trình GDTX (BT Tiểu học ; BT THCS, các chƣơng trình XMC, sau
XMC và kỹ năng sống) cho thanh thiếu niên và ngƣời lớn (cho đến 40 tuổi).

+

Mục tiêu (4) : Xây dựng một chiến lƣợc quốc gia toàn diện về GDTX và

các cơ hội học tập suốt đời có nội dung phù hợp và có tính khả thi về tài chính
và xây dựng XHHT.
+ Mục tiêu (5) : Tăng cƣờng quản lý các chƣơng trình GDKCQ và GDTX


cấp địa phƣơng.
Với hệ thống các quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo xuyên suốt, chúng ta có
thể thấy rằng Đảng và Nhà nƣớc luôn chú ý và tạo mọi điều kiện để GDNL/
GDTX phát triển xứng đáng với vị trí và vai trò của nó trong từng thời kỳ
cách mạng của đất nƣớc. GDTX đã đóng góp một phần không nhỏ vào công
cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực
hiện mục tiêu dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
1.2.2.2. Quan điểm của UNESCO về GDTX
Đó là Học suốt đời, Xã hội học tập. Ý kiến đƣợc UNESCO nêu lên lần
đầu tiên cách đây hơn 30 năm trong báo cáo nổi tiếng Học tập để tồn tại. Theo
báo cáo đó của UNESCO, một xã hội học tập là một xã hội trong đó tất cả các
tổ chức trong xã hội đều là ngƣời cung cấp giáo dục, chứ không riêng gì các
cơ quan trách nhiệm chủ yếu là giáo dục. Một khía cạnh của một xã hội học
tập là toàn thể công dân đều phải học tập và quán triệt để lợi dụng các cơ hội
do xã hội học tập cung cấp.
Theo APPEAL, Hội thảo tiểu khu vực của UNESCO về giáo dục
thƣờng xuyên họp tại Canberra, Australia, trong tháng 11 năm 1987 đã định
nghĩa giáo dục thƣờng xuyên là “ một khái niệm rộng rãi bao gồm toàn thể

23



các cơ hội học tập mà mọi người đều mong muốn hoặc cần có sau xoá mù
chữ cơ bản và giáo dục tiểu học” Định nghĩa này bao hàm những điểm sau
đây:

-

-

Giáo dục thƣờng xuyên dành cho ngƣời lớn đã biết chữ

-

Nó đáp ứng những nhu cầu và mong muốn

Nó có thể bao gồm những kinh nghiệm do giáo dục chính qui, không

chính qui và phi chính quy cung cấp.
-

Nó đƣợc định nghĩa là “ cơ hội” học tập suốt đời sau khi học xong

bậc tiểu học hoặc tƣơng đƣơng.
Giáo dục thƣờng xuyên đƣợc coi nhƣ sự mở rộng chủ yếu của xoá mù
chữ và giáo dục Tiểu học nhằm thúc đẩy sự phát triển tài nguyên con ngƣời.

1.2.3. Vị trí của GDTX trong hệ thống Giáo dục quốc dân
Với quan niệm truyền thống về hệ thống giáo dục quốc dân ở các nƣớc,
chủ yếu phát triển giáo dục trong nhà trƣờng chính quy tập trung- giáo dục
chính quy đƣợc gọi là nền giáo dục độc tôn.

Nền khoa học và công nghệ phát triển nhanh, xã hội đòi hỏi phải có
một nguồn lao động lớn có trình độ tri thức khoa học kỹ thuật ngày càng cao.
Trong khi đó, hệ thống giáo dục chính quy chủ yếu chỉ chăm lo cho một bộ
phận công dân thành đạt trong một giai đoạn nhất định với nội dung chƣơng
trình chọn lọc, tinh tuý, kinh viện nhiều kiến thức thực tế chóng bị lạc hậu và
không đáp ứng đƣợc kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Hơn nữa, xu
hƣớng tập trung hoá, đô thị hoá giáo dục đã làm mất cân đối nghiêm trọng về
trình độ dân trí và nguồn nhân lực giữa các vùng miền, cơ cấu ngành nghề,
cấp độ đào tạo. Trƣớc tình hình đó, cần có những quan niệm mới về giáo dục.
Để đáp ứng đƣợc yêu cầu của xã hội, của ngƣời học cần phải có phƣơng thức

24


giáo dục mới thích ứng hơn cùng với giáo dục chính quy, hỗ trợ và bổ sung
cho giáo dục chính quy. Đó chính là GDTX.
Thực tế GDTX ra đời đã mở ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng về
nguồn nhân lực ở các nƣớc đang phát triển và nó giữ một vị trí quan trọng là
một bộ phận, là một phân hệ trong hệ thống giáo dục quốc dân. Cùng với hệ
thống giáo dục chính quy, nó cung ứng cơ hội học tập suốt đời cho mọi
ngƣời.
Điều 4 của luật giáo dục 2005 đã nêu rất rõ: “Hệ thống giáo dục quốc
dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên”.
Trong quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm GDTX ban hành
theo quyết định số 43/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày 25 tháng 9 năm 2000 của Bộ
trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ: “ Trung tâm GDTX là cơ sở giáo
dục không chính quy trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trung tâm GDTX có
tư cách pháp nhân, có con dấu và có tài khoản riêng”.

1.2.4. Vai trò của GDTX trong việc phát triển nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nƣớc hay
một địa phƣơng, tức là nguồn lao động, những ngƣời lao động có kỹ năng
đƣợc chuẩn bị sẵn sàng tham gia một công việc nào đó trong cơ cấu lao động
của xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực vừa là động lực vừa là mục tiêu của mỗi tổ
chức, mỗi quốc gia, việc phát triển, đào tạo nguồn nhân lực chỉ thực sự có
hiệu qủa khi chúng ta có chính sách quản lý nguồn nhân lực đúng đắn. Tƣ
tƣởng chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực là: Lấy phát triển bền vững làm trung
tâm, coi mỗi con ngƣời là một cá nhân độc lập làm chủ quá trình lao động của
mình, lấy lợi ích của ngƣời lao động là nguyên tắc cơ bản của quản lý lao
động, bảo đảm môi trƣờng dân chủ thuận lợi cho tiến hành giao lƣu đồng
25


thuận; có chính sách giải phóng và phát huy tiềm năng của ngƣời lao động, bảo
đảm hiệu qủa công việc. Phát triển nguồn nhân lực bám sát thị trƣờng lao động.
(Đây là một vấn đề rất phức tạp, trong đó mấu chốt là phải xây dựng các chính
sách quản lý phát triển giáo dục và đào tạo đúng đắn); Có chính sách đúng đắn
và hợp lý trong quá trình sử dụng nguồn nhân lực bao gồm tuyển dụng, chính
sách lao động, phân công lao động, phân bổ nhân lực, chính sách cán bộ, tiền
lƣơng và tiền thƣởng; đồng thời, phải coi vấn đề tạo ra động lực để kích thích
mọi ngƣời chăm học chăm làm, động viên tính tích cực của ngƣời lao động cho
họ năng động, thiện chí, cầu tiến bộ, từ đó đi đến sáng tạo… là một vấn đề cực kì
quan trọng trong tổ chức quản lý vĩ mô cũng nhƣ

vi mô nguồn lực con ngƣời, lực lƣợng lao động. Ở đây, cần phải chú ý cả lợi
ích vật chất cũng nhƣ nhu cầu tinh thần của con ngƣời. Để làm đƣợc việc
này, cần
nghiên cứu cơ cấu lại hệ thống đào tạo và quản lý nguồn nhân lực của cả
nƣớc.

Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một quốc gia,
một tổ chức. Xây dựng, phát triển, bồi dƣỡng, quản lý và phát huy vai trò
nguồn nhân lực là một nhiệm vụ mang tính chiến lƣợc của mỗi quốc gia, mỗi
tổ chức.
Đại hội VIII đã chỉ rõ: “ Phương hướng chung của GD-ĐT trong
những năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Công nghiệp
hoá- hiện đại hoá tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên có việc
làm, khắc phục những yếu kém trong GD-ĐT ”. [15,tr 52]
Cơ sở của sự phát triển nguồn nhân lực đó là phải đáp ứng yêu cầu
nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá về cơ cấu ngành nghề,
trình độ, năng lực, phẩm chất, giúp cho ngƣời học có tính cơ động, dễ thích
nghi với những chuyển biến nhanh chóng của kinh tế thị trƣờng, của thị
trƣờng làm việc và của thị trƣờng sức lao động.
26


Theo hƣớng này, GD-ĐT nói chung và ngành GDTX nói riêng. Đặc
biệt là vị trí, vai trò của các Trung tâm GDTX là hết sức quan trọng. Trong
điều kiện hiện nay ở nƣớc ta về việc phát triển nguồn nhân lực, các Trung tâm
GDTX cần định hƣớng vào những nhiệm vụ sau:
+

Đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực nông thôn- nông nghiệp. Hiện

nay, khu vực nông thôn- nông nghiệp nƣớc ta còn một lực lƣợng lao động
đông đảo trong đó phần lớn là lao động giản đơn chƣa qua đào tạo. Việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hƣớng ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, thâm canh đa dạng hoá, phát triển các ngành nghề thủ công
truyền thống… đã và sẽ đặt ra nhu cầu đào tạo nhân lực lao động kỹ thuật rất
phong phú và đa dạng ở mọi trình độ, mọi hình thức trong các chƣơng trình

khuyến nông, khuyến lâm, trồng rừng… Nhƣ vậy, địa bàn nông thôn rất thích
hợp cho loại hình GDTX từ các khoá đào tạo ngắn hạn, chuyển giao công
nghệ- kỹ thuật mới.
+

Đào tạo, bồi dƣỡng và đào tạo lại lực lƣợng lao động cho khu công

nghiệp. Sự phát triển của lực lƣợng sản xuất và tiến bộ khoa học- công nghệ
đã và đang là những nhu cầu to lớn về đội ngũ nhân lực lao động kỹ thuật ở
mọi trình độ đƣợc đào tạo đặc biệt là nhu cầu lao động kỹ thuật ở các khu
công nghiệp, xí nghiệp…
Nhƣ vậy để thoả mãn nhu cầu to lớn về nhân lực, lao động kỹ thuật của
các khu công nghiệp thì bên cạnh việc củng cố nâng cấp mạng lƣới các
trƣờng đào tạo nghề chính quy cần phải mở rộng loại hình đào tạo theo yêu
cầu chuyển giao công nghệ, đào tạo thích ứng tại các vị trí làm việc, tổ chức
đào tạo lại, bồi dƣỡng ngắn hạn.
Từ những nhận định trong việc phát triển nguồn nhận lực nêu trên có
thể cho rằng việc hiện đại hoá nông thôn, hiện đại hoá vùng công nghiệp là
nhiệm vụ rất nặng nề của ngành học GDTX.

27


Trong những năm qua sự đóng góp của GDTX trong đó có chƣơng
trình giáo dục Bổ túc đã góp phần nâng trình độ dân trí lên một bƣớc quan
trọng trong đời sống kinh tế xã hội.
Hiện nay xu thế trên thế giới hầu hết các nƣớc đều thực hiện đa dạng
hoá giáo dục, làm mềm hoá hệ thống giáo dục quốc dân. Nhờ đó giáo dục có
khả năng đáp ứng cao những đòi hỏi của ngƣời học, những yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia. Vì vậy có thể khẳng định rằng giáo dục

thƣờng xuyên, giáo dục suốt đời là phƣơng thức giáo dục không chính quy
nhƣng nó tồn tại duy nhất chính quy cùng với toàn bộ lịch sử loài ngƣời.
Giáo dục không chính quy sẽ vẫn còn tiếp tục vai trò của nó. Giáo dục
thƣờng xuyên là nhu cầu của mọi ngƣời, là phƣơng thức cho mọi ngƣời
trong thời đại mới, là chìa khoá vàng mở lối cho những nƣớc nghèo đi tắt,
đón đầu trong cuộc chạy đua, cạnh tranh thắng lợi trong tƣơng lai.
1.3. Quản lý chất lượng hệ Bổ túc THPT tại trung tâm GDTX
1.3.1. Đặc điểm hệ Bổ túc THPT trong Trung tâm GDTX
Học viên của ngành học rất đa dạng về độ tuổi, trình độ, về nhu cầu học
tập cũng khác nhau (ngay cả cùng trong một lớp học, cấp học, ngành học).
Đối với học viên bổ túc văn hoá, mục đích chung là học bổ túc văn hóa
để nâng cao trình độ, để có điều kiện học lên cao nữa, trong đó cũng cần học
lấy tấm bằng tốt nghiệp để đảm bảo cho cƣơng vị công tác cần có. Độ tuổi
học viên cũng khác nhau, gồm thanh niên ở lứa tuổi học viên do không có
điều kiện, hoặc thi trƣợt không vào đƣợc lớp 10 phổ thông vào học bổ túc
văn hoá, một bộ phận khác học viên là cán bộ xã, huyện, công nhân viên chức
các cơ quan học tập do yêu cầu chuẩn hoá trình độ văn hoá.
Các đối tƣợng trên, phần do lâu không động đến sách vở, phần do học
lực yếu dẫn tới chất lƣợng đầu vào ở các Trung tâm GDTX là rất thấp. Đặc
biệt là những đối tƣợng thuộc diện không xếp loại hạnh kiểm có nhiều học
viên đã có tuổi, do yêu cầu của xã hội họ cần phải có một tấm bằng chính vì
28


vậy họ đến với Trung tâm. Những đối tƣợng này vừa đi làm vừa đi học, thời
gian dành cho việc học tập không đƣợc nhiều.
1.3.2. Một số khái niệm
1.3.2.1. Khái niệm về chất lượng:
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về chất lƣợng. ở đây ta có thể liệt kê
một số các khái niệm đƣợc coi là điển hình, dễ hiểu nhất.

-

“ Chất lượng được coi là sự phù hợp với mục đích, hay sự thoả mãn

khách hàng , hoặc sự phù hợp với yêu cầu,…” [17;tr16]
Chất lƣợng là “ tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản
của sự
vật (sự việc)… làm cho sự vật ( sự việc) này phân biệt với sự vật ( sự việc)
khác” ( Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB Khoa học xã hội , H.,1987).
-

Chất lƣợng là “mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng

tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ kiện, các thông số cơ bản” [17;tr30]
Chất lƣợng là “ tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm
thoả
mãn nhu cầu người sử dụng” [17;tr30]
-

Chất lƣợng là “ tập hợp các đặc tính của một thực thể( đối tượng) tạo

cho thực thể ( đối tượng) đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra
hoặc nhu cầu tiềm ẩn” (TCVN-ISO 8402).
Theo định nghĩa của ISO 9000-2000 thì “ Chất lượng là mức
độ đáp
ứng các yêu cầu của một tập hợp các đặc tính vốn có, trong đó yêu cầu được
hiểu là các nhu cầu hay mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu hay bắt
buộc”.[17,tr30]
1.3.2.2. Khái niệm về Giáo dục
Ngay từ khi xã hội loài ngƣời xuất hiện , để tồn tại và phát triển con

ngƣời luôn phải vận động và biến đổi để tìm ra phƣơng thức cùng tồn tại.
Trong quá trình đó con ngƣời đã dần tích luỹ đƣợc kinh nghiệm sống. Kinh
nghiệm này đƣợc truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ


×