Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Hướng dẫn học sinh trung học phổ thông tự học vật lý thông qua hệ thống bài tập từ trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.05 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÙI THỊ HƯƠNG THẢO

HƯỚNG DẪN HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỰ HỌC
VẬT LÝ THÔNG QUA HỆ THỐNG BÀI TẬP TỪ TRƯỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM VẬT LÝ

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÙI THỊ HƯƠNG THẢO

HƯỚNG DẪN HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỰ HỌC
VẬT LÝ THÔNG QUA HỆ THỐNG BÀI TẬP TỪ TRƯỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM VẬT LÝ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MÔN VẬT LÝ
Mã số: 8.14.01.11

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đinh Văn Dũng

HÀ NỘI - 2019



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS Đinh Văn Dũng
đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện đề
tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Sư phạm, trường Đại
học Giáo dục, Đại học Quốc Gia Hà Nội, cùng toàn thể các thầy cô giáo đã tham
gia giảng dạy, giúp đỡ tôi trưởng thành trong thời gian học tập tại trường, cũng
như đã tạo điều kiện và đóng góp rất nhiều ý kiến quý báu giúp cho tôi có thể
hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu, các thầy cô giáo giảng dạy Vật
lý tại trường THPT Lý Thường Kiệt thành phố Bắc Ninh, cùng các thầy cô giáo
trong Hội đồng giáo dục Nhà trường đã tạo điều kiện về thời gian và đóng góp ý
kiến trong thời gian tôi làm thực nghiệm sư phạm tại nhà trường.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến các đồng nghiệp, gia đình
và bạn bè tôi đã luôn tạo điều kiện, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập và thực hiện luận văn.
Bắc Ninh, ngày 25 tháng 9 năm
2019
Tác giả

Bùi Thị Hương Thảo

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt/ kí hiệu
ĐC
NXB
PGS

SGK
SBT
TNSP
TN
TS
THCS
THPT

ii


DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Quá trình tự học…….…………………………………………. 28
Bảng 1.1. Phiếu khảo sát việc tự học……………………………………… 29
Sơ đồ 2.1. Tư duy chương Từ trường…………………………………….
Bảng 3.1. Thống kê kết quả kiểm tra (nhóm TN và nhóm ĐC)……….....
Bảng 3.2. Bảng so sánh đối chứng của lớp TN và lớp ĐC ………………
Bảng 3.3. Tổng hợp các tham số…………………………………………
Bảng 3.4. Phân bố tần số, tần suất, tần suất tích lũy……………………..
Đồ thị 3.1. Phân loại kết quả học sinh theo điểm sau lần kiểm tra………
Đồ thị 3.2. Phân bố tần suất tích lũy ( hội tụ lùi)………………………...

iii


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ...........................................................iii
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................2
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.............................................................. 2
4.1. Khách thể nghiên cứu................................................................................ 2
4.2. Đối tượng nghiên cứu................................................................................ 2
5. Vấn đề nghiên cứu........................................................................................ 2
6. Giả thuyết nghiên cứu...................................................................................3
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu........................................................................3
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài...................................................... 3
9. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................3
10. Cấu trúc đề tài.............................................................................................4
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.......................................... 5
1.1. Quan niệm về tự học.................................................................................. 5
1.1.1. Quan niệm cổ đại của các nền văn minh về tự học.................................5
1.1.2. Quan niệm về tự học hiện nay................................................................ 6
1.2. Lý luận về tự học....................................................................................... 7

iv


1.2.1. Một số quan điểm về tự học....................................................................7
1.2.2. Vai trò của tự học.................................................................................... 8
1.2.3. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học..........................................10
1.3. Hướng dẫn hoạt động tự học môn Vật lý.................................................12
1.3.1. Đặc điểm của môn Vật lý......................................................................12
1.3.2. Mục đích và ý nghĩa của hoạt động tự học môn Vật lý........................ 13
1.3.3. Quy trình hướng dẫn hoạt động tự học môn Vật lý.............................. 16
1.3.4. Khó khăn khi hướng dẫn hoạt động tự học môn Vật lý........................20
1.3.5. Các tiêu chí đánh giá tự học môn Vật lý:..............................................21

1.4. Vài nét về trường trung học phổ thông Lý Thường Kiệt, Bắc Ninh........29
1.5. Tìm hiểu hoạt động tự học môn Vật Lý ở trường trung học phổ thông Lý
Thường Kiệt, Bắc Ninh...................................................................................30
CHƯƠNG 2.XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP VÀ KẾ HOẠCH DẠY
HỌC ………………………………………………………………………...34
2.1. Mục tiêu, nội dung dạy học phần từ trường theo chuẩn kiến thức kĩ năng
.........................................................................................................................34
2.1.1. Mục tiêu dạy học phần từ trường theo chuẩn kiến thức kĩ năng...........34
2.1.2. Cấu trúc nội dung phần Từ trường........................................................35
2.1.3. Sơ đồ tư duy chương Từ trường............................................................38
2.2. Xây dựng hệ thống bài tập chương từ trường ở Trung học phổ thông.....38
2.2.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập..................................................38
2.2.2. Quy trình xây dựng bài tập................................................................... 39
2.2.3. Hướng dẫn học sinh tự học qua việc giải hệ bài tập........................................ 41
2.3. Các dạng bài tập và sử dụng bài tập trong việc bồi dưỡng năng lực tự học 43

v


2.3.1. Bài tập về từ trường, từ trường của dòng điện chạy trong các dây dẫn có
hình dạng đặc biệt........................................................................................... 43
2.3.2. Bài tập về lực từ....................................................................................51
2.3.3. Bài tập về lực lorenxo...........................................................................58
CHƯƠNG 3.THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM.................................................... 65
3.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm.........................................................65
3.1.1 Mục đích thực nghiệm........................................................................... 65
3.1.2. Nhiệm vụ thực nghiệm..........................................................................65
3.2. Đối tượng thực nghiệm............................................................................66
3.3. Thời gian thực nghiệm.............................................................................66
3.4. Thuận lợi và khó khăn khi thực nghiệm sư phạm....................................66

3.5. Tiến trình thực nghiệm sư phạm.............................................................. 67
3.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm................................................................. 67
3.6.1. Tiêu chí để đánh giá..............................................................................67
3.6.2. Phân tích, đánh giá kết quả thực nghiệm về mặt định tính...................68
3.6.3. Phân tích, đánh giá kết quả thực nghiệm về mặt định lượng................69
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ................................................................. 75
1. Kết luận.......................................................................................................75
2. Khuyến nghị................................................................................................76
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................78
PHỤ LỤC

vi


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong một kỉ nguyên phát triển như vũ bão về công
nghiệp, công nghệ, kinh tế…đòi hỏi nguồn nhân lực cũng phải ngày được
nâng cao để đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. Khi đó, con người
không những phải tái hiện lại những tri thức cũ mà phải tìm tòi, sáng tạo ra
những tri thức mới. Chính vì vậy mà vai trò của người dạy và người học cũng
thay đổi. Nếu trước đây là lối dạy học truyền thụ theo một chiều, thầy đọc trò
chép, người dạy có vai trò là chính, cách học thụ động thì hiện nay người học
được coi là trung tâm, người dạy đóng vai trò là người hướng dẫn, định
hướng, cách học thụ động, máy móc được thay thế bởi rất nhiều hình thức học
tập mới. Để có thể chủ động lĩnh hội kiến thức thì đòi hỏi người học phải chủ
động, phải nỗ lực trong việc học, đặc biệt phải giành nhiều thời gian cho việc
tự học. Vấn đề tự học là vô cùng cần thiết và quan trọng để giúp học sinh có
thể hoàn toàn làm chủ được kiến thức đồng thời phát huy được năng lực của
bản thân trên cơ sở hướng dẫn của giáo viên.

Là một học viên cao học, cũng là một giáo viên Vật lý trung học phổ
thông (THPT), tôi nhận thấy rằng việc phát triển năng lực tự học cho HS là
hết sức cần thiết vì những lí do sau:
-

Lượng tri thức ngày càng tăng, không thể tổ chức dạy học hết được nội

dung ở trên lớp, không thể đưa hết được kiến thức vào trong chương trình, cần
thiết phải hướng dẫn HS biết cách tự đọc tài liệu, tự nghiên cứu tài liệu để hình

thành năng lực tự học, để có thể tự học suốt đời.
-

Môn vật lý với nội dung tri thức về khoa học tự nhiên, gần gũi với đời

sống hàng ngày. Nếu tổ chức tốt cách tự học cho học sinh thông qua dạy học
vật lý, sẽ giúp cho học sinh vừa phát triển năng lực tự học, vừa phát triển khả
năng biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống.

1


- Các tài liệu, nguồn nghiên cứu quá nhiều dẫn đến tình trạng mơ hồ, khó
khăn cho học sinh thậm chí còn dẫn đến tình trạng sai mục đích học tập.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, chúng tôi đã nghiên cứu đề tài:
“Hướng dẫn học sinh Trung học phổ thông tự học Vật lý thông qua hệ thống
bài tập Từ trường” để góp phần nâng cao quá trình dạy và học được chất lượng

hơn.
2.


Mục đích nghiên cứu
Từ các lý luận về năng lực tự học có thể xây dựng được hệ thống bài tập

chương Từ trường giúp phát triển năng lực tự học Vật lý của học sinh THPT.
3.

Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận liên quan đến đề tài.

-

Nghiên cứu mục tiêu dạy học, nội dung, cấu trúc kiến thức chương Từ

trường, Vật lý lớp 11.
- Lựa chọn và xây dựng hệ thống bài tập chương Từ trường, Vật lý 11.
-

Sử dụng hệ thống bài tập chương Từ trường, Vật lý 11 để hướng dẫn

hoạt động tự học của học sinh.
-

Thực nghiệm sư phạm để đánh giá chất lượng, hiệu quả và tính khả thi

của việc hướng dẫn học sinh hoạt động tự học.
4.

Khách thể và đối tượng nghiên cứu


4.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy và học ở THPT.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 11A5, 11A6, 11A7 THPT Lý
Thường Kiệt.
5. Vấn đề nghiên cứu
Đề tài tập trung vào 2 vấn đề chính như sau:
- Xây dựng được hệ thống bài tập chương Từ trường, Vật lý 11 thế nào để

có thể hướng dẫn hoạt động tự học của học sinh?

2


- Hướng dẫn học sinh như thế nào thông qua hệ thống bài tập Từ trường
để hiệu quả và đúng mục đích đề ra?
6. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu có thể hướng dẫn học sinh THPT tự học Vật lý thông qua hệ thống
bài tập Từ trường thì từ đó học sinh có thể tự tìm tòi tìm hiểu, tự nghiên cứu,
lĩnh hội kiến thức mới sẽ giúp cho chất lượng dạy và học ngày càng nâng cao.
7.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Kiến thức nằm trong chương Từ trường, Vật lý 11.

-

Quá trình hướng dẫn học sinh tự học Vật lý thông qua hệ thống bài tập

Từ trường.
8.


Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận của đề tài:
Đề tài phát triển lý luận về hoạt động tự học của học sinh THPT.
- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
+
Kết quả nghiên cứu có thể vận dụng vào quá trình dạy và học bậc
THPT.

+

Việc hướng dẫn học sinh THPT tự học Vật lý thông qua hệ thống bài

tập Từ trường sẽ hình thành cho học sinh năng lực tự học, và cung cấp thêm
nguồn tư liệu cho quá trình dạy và học.
9. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+

Nghiên cứu các cơ sở lý luận về bài tập Vật lý.

+ Nghiên cứu các tài liệu và cơ sở lý luận tự học, hướng dẫn hoạt động tự
học. - Phương pháp thu thập dữ kiện: Thu thập các dữ kiện khi đang thực

nghiệm sư phạm (TNSP) và xử lý số liệu thu được.
-

Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm (TN) theo

kế hoạch đã đề ra, thực nghiệm song song giữa lớp TN và lớp đối chứng (ĐC).


3


Phân tích các kết quả thu được trong quá trình TN, đối chiếu với mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu để từ đó rút ra được kết luận của đề tài.
-

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu quá trình dạy (thông qua

dự giờ, trao đổi, phỏng vấn với giáo viên) và quá trình học (thông qua trao đổi
với học sinh) để đánh giá sơ bộ tình hình bồi dưỡng năng lực tự học chương

Từ trường, Vật lý lớp 11.
10. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
dự kiến được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở thực tiễn và lý luận
Chương 2: Xây dựng hệ thống bài tập và kế hoạch dạy học
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

4


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Quan niệm về tự học
1.1.1. Quan niệm cổ đại của các nền văn minh về tự học

Tìm hiểu trong lịch sử giáo dục của nhân loại về vấn đề tự học và hoạt
động tự học, có thể thấy rằng: vấn đề tự học được quan tâm từ rất sớm, ngay
cả khi giáo dục còn chưa được coi là một môn khoa học thực sự. Ở những thời
kì đó, người ta chỉ quan tâm cách học sao cho người học chăm chỉ, có thể ghi
nhớ hết lời dạy của thầy và thực hiện theo những lời dạy đó.
Cùng một vấn đề tự học, ở các nước phương Đông và các nước phương
Tây lại có những quan điểm khác nhau nhưng cùng nêu lên một nội dung
chính: tự học chính là con đường mà người học đều phải tự tìm tòi, khám phá
tri thức, tự thực hiện các hoạt động của mình.
Từ thế kỉ XVII, các nhà giáo dục cổ đại như Xô Cơ Rát (469- 339 TCN),
J.A Comensky (1592-1670), G. Brousseau (1712-1778), Usinxki (1824-1870),
…cũng đã rất coi trọng đến sự phát triển tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng
tạo của người học và nhấn mạnh người học phải tự tìm tòi, khám phá trong
quá trình học.
Còn đối với các nước Phương Đông thì vấn đề tự học cũng đã được chú ý
từ thời Khổng Tử và Mạnh Tử, đặc biệt là Khổng Tử. Trong suốt quá trình dạy
học trò, ông luôn coi trọng sự chủ động tìm tòi và sáng tạo. Cách dạy của ông
luôn mang tính gợi mở để người học có thể dễ dàng tìm ra được chân lý mới.
Khổng Tử luôn nhắc nhở học trò của mình: “Không giận vì không muốn biết thì
không gợi mở cho, không bực vì không rõ thì không bày vẽ cho, một vật có 4
góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra 3 góc kia thì không dạy nữa” (luận

5


ngữ). Còn đối với Mạnh Tử, ông ví người dạy học như người bắn cung, chỉ
kéo thẳng dây cung mà không bắn tên đi hộ, tự người học phải bắn lấy.
Vào đầu thế kỉ XX, thì việc dạy học lấy người học là trung tâm lại càng
được quan tâm và coi trọng. Đã có rất nhiều nhà khoa học đã có nhiều công
trình nghiên cứu mang giá trị thực tiễn cao về vấn đề tự học. Nhiều nhà giáo

dục học trên thế giới đã đề cao quan điểm phải xây dựng tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh, thầy chỉ là người cố vấn, định hướng, dẫn dắt.
1.1.2. Quan niệm về tự học hiện nay


Việt Nam, việc tự học cũng biết đến từ rất sớm. Từ thời xã hội phong

kiến, giáo dục gắn liền với hình ảnh thầy đồ, thầy dạy gì, trò đọc theo thế, làm
theo thế nhưng cũng xuất hiện rất nhiều người tài giỏi xuất chúng như Nguyễn
Hiền, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi,...do khả năng học một biết mười của mình.
Những nhân tài ấy ngoài việc thầy dạy còn trên lớp, còn tự học ở nhà, đó là hình
ảnh bắt đom đóm cho vào vỏ trứng để học của Nguyễn Hiền, hình ảnh Mạc Đĩnh
Chi đốt củi, hết củi thì lấy lá rừng đốt lên để tự học,…Việc chủ động tìm tòi kiến
thức, vận dụng linh hoạt là điểm then chốt làm lên thành công của các trạng
nguyên thời đó. Tuy nhiên, giáo dục theo quan điểm “thầy dạy là trung tâm”

vẫn được duy trì, thầy đồ sẽ là người đưa ra kiến thức, học trò chỉ làm theo,
học theo, thực hiện theo hoạt động của thầy.
Vấn đề tự học chỉ thực sự quan trọng, được nghiên cứu nghiêm túc, tuyên
truyền rộng rãi khi nền cách mạng cộng sản ra đời. Và người thực hiện đầu tiên
chính là chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng, đồng thời
là nhà lý luận về giáo dục, về tự học. Trong quan niệm về tự học, Người định
nghĩa “tự học” bằng một câu ngắn gọn, súc tích nhưng đầy tính tư tưởng: “Tự
học là “tự động học tập” [1]. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng, còn sống còn
phải học. Đây là biện pháp tốt nhất để nâng cao trình độ hiểu biết, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng. “Nếu không chịu khó học thì không
tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công
6



việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu khó học thì lạc
hậu, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình [2]. Những lời dạy chỉ
bảo của Người đã trở thành triết lý nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục to
lớn đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo của dân tộc ta đến nay.
Những năm đầu của thế kỉ XX, hoạt động tự học, phát triển tư duy, tính
tích cực của học sinh được nhiều nhà giáo dục học nghiên cứu như: Nguyễn
Cảnh Toàn (1995), Trần Kiều, Nguyễn Bá Kim, Thái Duy Tiên,…Đặc biệt,
GS.TSKH Nguyễn Cảnh Toàn đã nhấn mạnh việc tự học, tự rèn luyện của học
sinh. Một người thầy giỏi là người hướng dẫn cho học sinh tự học, tự nghiên
cứu.
Hiện nay, việc tự học nói chung và việc tự học nói riêng của học sinh ngày
càng được quan tâm và chú ý đến, phương pháp dạy học đang dần dần chuyển
đổi từ việc học thầy là trung tâm sang người học là trung tâm. Người thầy chỉ
đóng vai trò dẫn lối, chỉ bảo con đường chiếm lĩnh tri thức cho học sinh.

1.2. Lý luận về tự học
1.2.1. Một số quan điểm về tự học
Tự học là một việc cực kì quan trọng và cần thiết trong quá trình tiếp nhận
tri thức, là hoạt động có mục đích của con người. Tự học là cách tốt nhất để hoàn
thiện tri thức và nhân cách của mỗi người. Nhắc đến việc tự học, không thể
không kể đến chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trò quan trọng và là một trong
những yếu tố hình thành lên trí tuệ của Người. Về cách học phải “lấy tự học làm
cốt” [1] là một luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Tại sao lại là “lấy tự học làm cốt”? Người chỉ rõ:“Lấy tự học làm cốt. Do thảo
luận và chỉ đạo giúp vào” tức là thực hiện kết hợp 3 khâu: Tự học của cá nhân
phải làm nòng cốt, thảo luận của tập thể và hướng dẫn của giảng viên chỉ để bổ
sung thêm vào. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về
tinh thần tự học, lấy tự học là chính để trau dồi, nâng cao kinh

7



nghiệm của bản nhân. Người là tấm gương cao sáng về tinh thần tự học và
học tập suốt đời để chúng ta noi theo.
Về quan điểm tự học, tác giả Nguyễn Kỳ cho rằng: “Tự học là tự đặt
mình vào tình huống học, vào vị trí của người tự nghiên cứu, xử lý các tình
huống, giải quyết các vấn đề đặt ra cho mình, nhận biết vấn đề, thu thập xử lý
thông tin, tái hiện kiến thức cũ, xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, xử
lý tình huống, thực nghiệm các giải pháp, kết quả, kiến thức mới mình đã tự
lực tìm ra, tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học” [2].
Theo Đặng Vũ Hoạt: “Tự học là một hình thức hoạt động nhận thức của cá
nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do chính bản thân người học
tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp mà không theo chương trình và sách giáo
khoa đã được quy định.Tự học có quan hệ chặt chẽ đến quá trình dạy học,
nhưng có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái của cá nhân” [11].

Tóm lại, tổng hợp các quan niệm về tự học của các tác giả có thể đưa ra
khái niệm tự học như sau: Tự học là quá trình con người tự giác cao, tích cực
tiếp thu hệ thống tri thức, những kiến thức từ môi trường xung quanh, bằng
các thao tác trí tuệ, để biến những tri thức mới thành tri thức của mình, nhằm
hoàn thiện nhân cách và đạt được mục đích nhất định.
1.2.2. Vai trò của tự học
Tự học có vai trò quan trọng và quyết định sự thành đạt của mỗi con người.
Trong thực tế, chúng ta có thể thấy rằng người giáo viên luôn đóng một vai trò
quan trọng trong việc tổ chức, dẫn dắt điều khiển, hướng dẫn hoạt động học tập
của học sinh. Nhưng dù người giáo viên có kiến thức uyên bác đến đâu, có
phương pháp giảng dạy có hay đến cỡ nào mà người học sinh lười học, ỷ lại,
không có sự đầu tư về thời gian, không có sự say mê học tập, không có kế hoạch
và phương pháp học hợp lý thì kết quả học tập vẫn thấp. Hiện nay, với đất nước
công nghiệp hóa hiện đại hóa như nước ta, mọi thành tựu kĩ thuật đang phát triển

cũng đòi hỏi ngành giáo dục phải nâng cao tri thức dẫn đến đòi hỏi các
8


cấp bậc học phải lĩnh hội các tri thức ngày càng nặng. Chính vì vậy, đòi hỏi
người học sinh ngoài học trên lớp phải tự mày mò, tự nghiên cứu ngoài giờ
lên lớp để có thể mở rộng và đào sâu tri thức. Hoạt động tự học sẽ giúp cho
học sinh rất nhiều trong quá trình học tập.
Thứ nhất, việc tự học là hoạt động chỉ có sự tham gia của người học, không
có sự tham gia của người dạy. Chính bản thân người học phải tự tìm tòi ra tri
thức. Trong quá trình đó, chúng ta sẽ phải sử dụng các thao tác khác nhau như:
so sánh, tưởng tượng, liên tưởng thậm chí phải dùng những kiến thức cũ để, xây
dựng và hiểu được kiến thức mới. Điều đó sẽ giúp trí não chúng ta hoạt động
linh hoạt, nâng cao nhận thức, giúp cho học sinh nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo, và chính hoạt động tự học sẽ giúp học sinh biến kho tàng tri thức của nhân
loại thành tri thức của mình. Hoạt động tự học tạo điều kiện cho học sinh hiểu
sâu kiến thức, củng cố tri thức, biết vận dụng những kiến thức đã biết vào giải
quyết các nhiệm vụ học tập và giải thích một số hiện tượng cuộc sống.

Thứ hai, việc tự học cũng gia tăng được chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Giúp cho học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường có thói quen rèn luyện
bản thân khả năng tự mày mò, tự nghiên cứu để tăng thêm vốn hiểu biết của
mình. Đối với nền phát triển kinh tế, khoa học, xã hội phát triển như vũ bão,
học sinh sẽ không bị lạc hậu, thụt lùi với sự biến đổi nhanh chóng của khoa
học và công nghệ hiện nay.
Thứ ba, việc tự học thường xuyên sẽ rèn luyện tính cách và phẩm chất
đáng quý. Tạo cho họ có khả năng độc lập, kiên trì, bền bỉ, óc phán đoán, khả
năng tự phê bình, ý chí kiên cường, sự say mê nghiên cứu học tập, vượt mọi
khó khăn, gian khổ.
Tuy nhiên, không phải nói vậy mà hạ thấp vai trò của người giáo viên.

Vai trò của người giáo viên cũng vô cùng quan trọng đối với việc dẫn dắt và
khuyến khích học sinh học tập đúng đắn.

9


Việc tự học nếu được chú trọng từ bậc tiểu học, hình thành luôn khả năng
và sự ham thích học tập, nghiên cứu từ rất sớm thì sẽ góp phần vào việc tiến bộ
vượt bậc của ngành giáo dục. Là hành trang để thế hệ trẻ Việt Nam thi đua với
thế hệ trẻ thế giới, tạo điều kiện cho nước ta sánh vai với các cường quốc khác.

1.2.3. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học
Việc tự học được biết đến từ rất sớm khi con người còn coi trọng thầy đồ
của làng, coi thầy đồ là người quyền năng để thăng tiến. Nhưng thực tế lại cho
thấy chất lượng học tập lại phụ thuộc vào ý thức và phương pháp học tập của
từng người. Thời kì phong kiến, khi thầy đồ là người truyền đạt kiến thức duy
nhất nhưng trong lớp lại có những người học giỏi hơn, hiểu biết hơn đó là do
mỗi người có ý thức học tập và phương pháp khác nhau. Tự học là yếu tố
chính và quan trọng quyết định chất lượng học tập, còn hoạt động dạy chỉ là
yếu tố có tác dụng kích thích, định hướng, điều khiển trực tiếp hoặc gián tiếp
quá trình học. Tự học thường xuyên, có kế hoạch, có mục đích sẽ hình thành
thói quen và phong cách làm việc lâu dài của từng cá nhân. Tự học giúp con
người có khả năng theo kịp thông tin, tri thức trong thời đại hiện nay.
Việc tự học được diễn ra dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau:
-

Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú của mình

không theo sách hoặc không có sự hướng dẫn của giáo viên.
Thông qua sở thích và đam mê của bản thân mà người học sinh tự nghiên

cứu, tự mày mò tìm ra được kiến thức mới. Đây là hoạt động tự học của các nhà
khoa học, cũng là đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này sẽ bao gồm
niềm đam mê tột độ, sự khao khát khám phá và sáng tạo cái mới. Tới trình độ

tự học này, người học sinh không cần sách, không cần thầy hướng dẫn chỉ cần
cọ sát thực tế và rút ra được những kinh nghiệm của riêng mình.
-

Hình thức thứ 2: Tự học có sách, có tài liệu nhưng không có sự hướng

dẫn, hỗ trợ của giáo viên.

10


Ở hình thức tự học này đòi hỏi người học sinh phải có khả năng bao quát
và chắt lọc kiến thức trước khối lượng sách nghiên cứu khổng lồ. Người học
sẽ tự học để hiểu, để chiếm lĩnh kiến thức từ sách và biến nó thành tri thức
của mình, qua đó sẽ phát triển được khả năng tư duy, sự tổng hợp, và việc tự
học hoàn toàn với sách là điều cần thiết mà xã hội ngày nay đang hướng đến.
- Hình thức thứ 3: Tự học có sách, có giáo viên hướng dẫn nhưng giáo
viên ở xa.
Việc tự học này đơn giản hơn so với hình thức tự học bằng sách và
không có sự hướng dẫn của học sinh. Dù giáo viên ở xa nhưng vẫn có sự trao
đổi thông tin của học sinh và giáo viên thông qua các phương tiện thông tin.
Người giáo viên có thể định hướng, gợi ý và giải đáp các thắc mắc, các vướng
mắc của học sinh. So với việc tự học ở hình thức 2, việc tự học này sẽ giúp
người học sinh nhanh đạt được mục đích của mình.
- Hình thức thứ 4: Tự học có sự hướng dẫn của thầy.



hình thức này, học sinh sẽ học tập trên lớp với giáo viên vài tiết sau đó

người học sẽ tự học ở nhà. Trong quá trình học tập trên lớp, người giáo viên đã
có thể hình thành kiến thức mới, rồi giao nhiệm vụ về nhà để học sinh đào sâu,
mở rộng kiến thức ấy hoặc người giáo viên chưa hình thành kiến thức kiến thức
mới nhưng đã có sự định hướng, dẫn dắt quá trình để học sinh có thể tự tìm ra
được. Nhưng cả 2 mức độ học này, người thầy cũng chỉ đóng vai trò xúc tác, hỗ
trợ, tạo điều kiện để người học chiếm lĩnh tri thức. Người học vẫn là nhân tố
quyết định quá trình nhận thức: tự giác, độc lập, say mê, sáng tạo và tham gia
vào quá trình học tập. Trong quá trình học tập ở nhà, tuy người học không gặp
thầy, nhưng vẫn có sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, bản thân người học lúc này
phải tự giác, biết cách sắp xếp và có kế hoạch học tập cụ thể, huy động mọi trí
tuệ và kỹ năng của bản thân để thực hiện những mục tiêu do giáo viên yêu cầu.
Tự học này có sự liên kết chặt chẽ với giáo viên, được giáo viên định hướng về
nội dung, phương pháp cụ thể, không những vậy, việc tự học bằng
11


hình thức còn tránh cho việc đi sai mục đích đặt ra, không tốn nhiều thời gian,
công sức mà vẫn đạt kết quả tốt nhất. Như vậy, quá trình học gắn liền với quá
trình dạy nhưng chịu sự chi phối, điều tiết, hỗ trợ, hướng dẫn của người dạy.
Nhưng trong tất cả các hình thức trên, hình thức thứ 4 là con đường nhanh
nhất để đạt được mục tiêu đề ra.
1.3. Hướng dẫn hoạt động tự học môn Vật lý
1.3.1. Đặc điểm của môn Vật lý
Môn Vật lý ở trường phổ thông là một môn được coi là khó nhưng cũng là
một môn học rất hay và thú vị. Nó là một môn học cung cấp những tri thức để
giải thích cho các hiện tượng trong tự nhiên, tìm ra các quy luật tự nhiên để vận
dụng, phục vụ vào cuộc sống của con người. Môn Vật lý cũng được coi là một

môn khoa học, nó bao gồm rất nhiều các quy luật, các định luật và các hiện
tượng khác nhau, có những hiện tượng quan sát được bằng mắt thường và cũng
có hiện tượng khó có thể quan sát nên đây được coi là bộ môn tương đối khó và
khô. Mặc dù khô và khó nhưng lại gắn liền với khoa học kĩ thuật, với các hiện
tượng thiên nhiên nên dễ gây hứng thú với học sinh tìm tòi, nghiên cứu.

Bản thân môn Vật lý còn gắn liền với các định luật, giả thuyết khá trừu
tượng nên buộc người học phải tư duy, hình dung, vận dụng óc sáng tạo, tuy
nhiên hiện nay trong chương trình học ở THPT đã có rất nhiều thí nghiệm mô
phỏng các định luật, hiện tượng đó.
Kiến thức bộ môn Vật lý còn liên quan đến rất nhiều các bộ môn khác
như Hóa học, Sinh học, Địa lý,…nên đòi hỏi người học phải có kiến thức bao
quát, đồng đều và biết liên hệ giữa các bộ môn khác với nhau.
Trong hệ thống các cấp học, dù đã có sự đầu tư trang thiết bị để phục vụ
cho việc giảng dạy bộ môn Vật lý tuy nhiên vẫn chưa được đầy đủ nên một số
định luật mang tính quy ước, chấp nhận gây mơ hồ cho học sinh.

12


Với những đặc thù trên, việc học môn Vật lý cũng đề ra cho học sinh
những yêu cầu sau [3]:
Về kiến thức: Nắm và hiểu một số kiến thức cơ bản và phù hợp với quan
điểm hiện đại như:
- Các khái niệm về các hiện tượng, các sự vật thường gặp trong tự nhiên
và đời sống.
- Các đại lượng, các định luật và nguyên lý Vật lý cơ bản.
- Nội dung chính của những thuyết Vật lý quan trọng.
- Những ứng dụng phổ biến của Vật lý trong đời sống và sản xuất.
- Các phương pháp đặc thù của bộ môn Vật lý: Phương pháp thực nghiệm


và phương pháp mô hình.
-

Biết quan sát các hiện tượng và quá trình Vật lý trong tự nhiên, trong đời

sống hàng ngày hoặc trong các thí nghiệm, biết điều tra, sưu tầm từ các nguồn

khác nhau để thu thập thông tin cần thiết.
-

Sử dụng được các dụng cụ đo, biết lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm

Vật lý cơ bản.
-

Biết đọc số liệu, phân tích, tổng hợp và xử lý thông tin để rút ra kết

luận, biết đề xuất các phương án thí nghiệm để kiểm chúng dự đoán đề ra.
- Vận dụng kiến thức Vật lý để giải thích các hiện tượng, các quá trình
và giải quyết các vấn đề đơn giản trong đời sống và sản xuất.
-

Sử dụng được các bảng biểu, các sơ đồ, các đồ thị để trình bày rõ ràng,

chính xác, dễ hiểu các kết quả mà mình thu được.
1.3.2. Mục đích và ý nghĩa của hoạt động tự học môn Vật lý
Từ ngàn đời xưa đến nay, cùng với tinh thần yêu nước nồng nàn thì tinh
thần hiếu học cũng trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Biểu hiện
trước hết của truyền thống hiếu học đó là tinh thần ham học hỏi, thích tìm tòi

một cách tự nguyện và lâu dài. Người hiếu học là người luôn luôn cầu tiến, tìm
13


tòi, học hỏi cho bản thân. Từ thời xa xưa, khi trường lớp còn thiếu thốn, trong
làng chỉ có một ông đồ chuyên dạy học cho trẻ con thì lịch sử dân tộc ta cũng
đã có rất nhiều những tấm gương hiếu học của các bậc hiền tài, đức cao vọng
trọng như: Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo, Chu Văn An,…cùng rất nhiều dòng
họ hiếu học trên khắp cả nước. Những tấm gương này cũng cho ta thấy không
nhất thiết phải đến lớp và không phải bắt buộc có người dạy thì quá trình lĩnh
hội tri thức mới diễn ra, quá trình này có thể diễn ra ở nhiều mức độ và nhiều
phạm vi khác nhau: có thể ở trên lớp, có thể ở ngoài lớp, với các phương pháp
khác nhau. Phương pháp dạy học mà người thầy chỉ đóng vai trò là người
hướng dẫn, tổ chức còn người học là trung tâm, là chủ thể trong việc tìm tòi
tri thức gọi là quá trình tự học. Mục tiêu của nền giáo dục nước ta hiện nay đó
là tập trung hướng vào người học, xuất phát từ người học, phát huy tính tự
giác, tích cực, độc lập, sáng tạo và mọi tiềm năng của người học. Vì vậy, nhu
cầu tự học được nâng cao và cần thiết, quá trình học biến thành quá trình tự
học, việc đào tạo sẽ thành tự đào tạo.
Môn Vật lý là môn khoa học ứng dụng rất nhiều vào cuộc sống, người học
Vật lý cũng có thể coi là nhà nghiên cứu khoa học, dù mức độ còn đơn giản, cơ
bản thì vẫn rất cần sự tìm tòi, sáng tạo của người tham gia. Chính vì vậy, việc bồi
dưỡng hoạt động tự học Vật lý cho các em học sinh THPT cũng là cung cấp cho
các em hành trang để nghiên cứu khoa học sau này. Tất cả các kiến thức Vật lý
đều xuất phát từ quá trình thí nghiệm hoặc dựa trên cơ sở các thí nghiệm. Như
vậy người học Vật lý phải đòi hỏi sự linh hoạt, cẩn thận, chính xác cả về trí não
và tay chân thì mới hoàn thiện được kiến thức. Ngay cả việc các em học trên lớp,
nếu chỉ quan sát thầy cô thực hiện thí nghiệm thì bản thân người học sinh sẽ khó
nhớ và hình thành kiến thức, bỏ qua cơ hội trải nghiệm, thử thách trong quá trình
thí nghiệm, không thể hiện khả năng, năng lực của chính bản thân, không hình

thành được năng lực tư duy, giải quyết vấn đề.

14


Ngoài ra, môn Vật lý cũng có tính logic khoa học, liên kết lẫn nhau nên
người học phải tham gia vào quá trình tìm hiểu thì mới hiểu được bản chất
của vấn đề, mới cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc của bài học. Có những định
luật, những khái niệm mà các nhà khoa học phải tốn nhiều năm trời để tìm
hiểu nên đòi hỏi người học phải tự mày mò nghiên cứu thêm.
Muốn nắm vững và giải quyết một vấn đề vật lý thì người tham gia giải
quyết cũng phải có sự vận dụng linh hoạt từ các kinh nghiệm bản thân và sự
phối hợp ăn ý của nhiều kĩ năng cá nhân đã được rèn luyện từ trước. Việc
trông chờ vào kinh nghiệm và kĩ năng của người khác thì người học sẽ không
thể giải quyết được các vấn đề khác. Những kinh nghiệm và kĩ năng của
người khác chỉ nên tham khảo và hỗ trợ.
Việc nắm vững kiến thức môn Vật lý còn đòi hỏi người học sinh phải tư
duy, tổng hợp chính vì vậy cần có thời gian. Việc tư duy của mỗi con người
lại có mức độ và cần thời gian khác nhau. Đối với các học sinh khá giỏi thì
việc hình thành và hiểu kiến thức mới sẽ nhanh hơn với học sinh trung bình
và yếu. Trong khoảng thời gian học trên lớp rất ngắn để hình thành một khái
niệm, một định luật mới thì đối với nhận thức của học sinh trung bình, yếu thì
quả thật quá khó. Chính vì vậy, một vấn đề được đặt ra là: có nên chuẩn bị ở
nhà trước khi đến lớp? Việc chuẩn bị trước ở nhà sẽ giúp cho học sinh ít nhiều
hình thành nên một nền tảng nội dung kiến thức trong nhận thức, giúp học
sinh tìm được chỗ khúc mắc trong quá trình học tập trên lớp, như vậy thì việc
tiếp thu kiến thức mới sẽ nhanh chóng và dễ hiểu hơn.
Như vậy để học tốt môn Vật lý, học sinh phải biết tự học, tự mày mò
nghiên cứu, tự tìm hiểu vấn đề trước khi đến lớp nhận được sự hướng dẫn và
giúp đỡ của thầy.


15


1.3.3. Quy trình hướng dẫn hoạt động tự học môn Vật lý
1.3.3.1. Điều kiện cho hoạt động tự học môn Vật lý
Hoạt động tự học đòi hỏi cần nhiều sự nỗ lực, sự kiên trì bền bỉ, với niềm
ham thích của người học. Để đáp ứng những yêu cầu trên thì đòi hỏi người
học phải:
-

Có niềm đam mê, có động lực học tập đúng đắn: Trong quá trình dạy học

người giáo viên phải kích thích khả năng ham muốn tìm tòi, khám phá của các
em học sinh để làm cho các em hứng thú khi học tập. Ngoài ra, việc kiểm
tra đánh giá các hoạt động tự học cũng phải công bằng, minh bạch, rõ ràng và
hợp lý sao cho người thực hiện công việc khó khăn phải có điểm số cao hơn
người thực hiện công việc dễ dàng. Tránh trường hợp, người làm công việc dễ lại
có kết quả cao hơn so với người làm công việc khó, dẫn đến sự chán nản, mất
niềm tin dẫn đến mất động cơ, động lực học tập. Người giáo viên cũng phải chú
ý đến các hoạt động học tập cụ thể ngoài điểm số để đánh giá học sinh cho chính
xác. Hiện nay với thang điểm của chương trình Vật lý 11 còn ít chưa thể hiện và
đánh giá được mức độ của học sinh, nên đưa thêm các thang điểm trọng số việc
thực hiện các hoạt động học tập theo cá nhân và theo tập thể,…
-

Có nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của việc tự học. Thông

qua các hoạt động cụ thể, GV giúp HS nhận thực đúng đắn về tự học: Giao công
việc cụ thể cho từng cá nhân, từng nhóm, khen ngợi và biểu dương (có


thể bằng hình thức tặng thưởng) thành quả hoạt động tự học của từng cá nhân,
từng nhóm, phê bình với những cá nhân, tập thể ỷ lại, lười nhác và thụ động,
theo dõi quá trình tự học của các em để kịp thời đôn đốc, chỉ bảo, định hướng
giúp các em không bị nản chí. Hiện nay, nhu cầu tìm hiểu cái mới của học
sinh cũng rất cao, chính vì vậy, người giáo viên phải tạo ra những nội dung
mới, đột ngột, bất ngờ, những yếu tố mâu thuẫn để kích thích các em.
-

Khả năng phán đoán, tổng hợp, chắt lọc các kiến thức trên tài liệu: Hiện

nay, nguồn tài liệu là vô tận nhưng nó lại là vấn đề quyết định cho quá trình tự
16


học của học sinh. Tài liệu bao gồm SGK, giáo trình, các địa chỉ truy cập trên
internet, sách tham khảo,…Để giúp ích cho quá trình tự học của học sinh
được dễ dàng thì người giáo viên phải chuẩn bị kỹ càng, đã đưa được cho học
sinh những gợi ý hữu ích, như vậy sẽ góp phần vào chất lượng vào quá trình
tự học của học sinh: chọn được con đường đi đúng và nhanh nhất. Tuy nhiên,
nếu không có sự giúp đỡ gợi ý của người giáo viên thì đòi hỏi người học sinh
phải có tư duy tổng hợp, óc phán đoán bao quát, biết chắt lọc kiến thức thì
mới dẫn đến mục đích đã đề ra.
1.3.3.2. Quy trình hướng dẫn hoạt động tự học môn Vật lý
Xuất phát từ việc đổi mới quá trình dạy học, và yêu cầu về nhiệm vụ của
giáo viên và học sinh mà việc hướng dẫn hoạt động tự học được thực hiện như
sau:
- Giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh
- Hướng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ ở nhà
- Tổ chức các buổi thảo luận nhóm trên lớp về nhiệm vụ được giao

- Tổng kết và kết luận quá trình thực hiện nhiệm vụ



Công đoạn giao nhiệm vụ cho học sinh: nhiệm vụ của học sinh là nghiên cứu trước

bài mới, có thể giao dưới hình thức cá nhân hoặc hình thức tập thể.

Đối với cá nhân, tất cả các thành viên trong lớp đều chung một nhiệm vụ như
nhau, còn đối với nhiệm vụ tập thể thì có thể khác nhau. Cụ thể, có thể nhóm
tập thể này nghiên cứu khái niệm phản xạ toàn phần nhưng nhóm tập thể khác
lại nghiên cứu mở rộng của kiến thức trên lớp: ứng dụng của phản xạ toàn
phần. Công đoạn này có thể giao vào đầu tiết học hoặc cuối một tiết học. Đặc
biệt, người giáo viên phải chuẩn bị sẵn các câu hỏi và các bài tập chi tiết để
định hướng cho việc đọc và nghiên cứu nhiệm vụ, nó phải đảm bảo dẫn dắt
được học sinh tìm ra được các khái niệm, các kiến thức, các định luật cơ bản,
giúp học sinh tìm được mối liên quan giữa các phần, các đơn vị kiến thức,…
và ý nghĩa của từng phần, từng bài học.
17


×