Tải bản đầy đủ (.docx) (131 trang)

Phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930 1945 ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.82 KB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐỖ THANH HÒA

PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN
HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930 – 1945 Ở
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐỖ THANH HÒA

PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠYTÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN
THỰC PHÊ PHÁN1930 – 1945 ỞTRƢỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ
MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 10

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Đoàn Đức Phƣơng

HÀ NỘI - 2011




KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

GV:

Giáo viên

HS:

Học sinh

NXB:

Nhà xuất bản

SGK:

Sách giáo khoa

THPT:

Trung học phổ thông

PPDH:

Phương pháp dạy học


ĐMPPDH:

Đổi mới phương pháp dạy học

GS. TS:

Giáo sư, Tiến sĩ

PGS. TS:

Phó Giáo sư, Tiến sĩ


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề.............................................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu................................................................................................................ 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................................................... 6
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu................................................................... 6
6. Câu hỏi nghiên cứu................................................................................................................... 7
7. Giả thuyết nghiên cứu.............................................................................................................. 7
8. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................................ 7
9. Đóng góp của luận văn............................................................................................................ 8
10. Cấu trúc của luận văn............................................................................................................ 8
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM
VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930-1945 Ở TRƢỜNG THPT....9

1.1. Quan niệm về đồi mới phương pháp dạy học......................................................... 9
1.2. Phương pháp dạy học Ngữ Văn và định hướng đổi mới phương pháp dạy
học Ngữ Văn...................................................................................................................................... 10
1.3. Tổng quan về văn học hiện thực phê phán 1930-1945....................................... 14
1.4. Phong cách nghệ thuật......................................................................................................... 16
1.4.1. Phong cách nghệ thuật Vũ Trọng Phụng qua tác phẩm “Số đỏ”.............18
1.4.2. Phong cách nghệ thuật Nam Cao qua tác phẩm “Chí Phèo”....................22
Chƣơng 2: THỰC TIỄN GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN
THỰC PHÊ PHÁN Ở TRƢỜNG THPT...................................................................... 27
2.1. Thực trạng dạy học Ngữ Văn ở trường THPT hiện nay.................................... 27
2.2. Thực tiễn việc dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán trong
chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản................................................................................ 29


2.3. Những vấn đề đặt ra khi dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán
trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản................................................................... 36
Chƣơng 3: ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN
HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930-1945 TRONG CHƢƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN LỚP 11 BAN CƠ BẢN.................................................................................... 39
3.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.......................................................................................... 39
3.2. Những đề xuất nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học
hiện thực phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản......................... 40
3.2.1. Phương pháp đọc tác phẩm.......................................................................................... 40
3.2.2. Phương pháp diễn giảng................................................................................................ 45
3.2.3. Phương pháp đàm thoại................................................................................................. 47
3.2.4. Phương pháp trực quan.................................................................................................. 53
3.2.5. Phương pháp dạy học nêu vấn đề............................................................................. 61
3.3. Giáo án thể nghiệm............................................................................................................... 65
3.3.1 Giáo án..................................................................................................................................... 65
3.3.2. Tự đánh giá giáo án thể nghiệm................................................................................ 99

3.3.3 Thể nghiệm sư phạm.......................................................................................................... 99
3.3.4 Kết luận chung về quá trình thể nghiệm................................................................. 100
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..................................................................................... 101
1.1. Kết luận....................................................................................................................................... 101
1.2. Khuyến nghị.............................................................................................................................. 102
1.2.1. Đối với Sở Giáo dục và đào tạo................................................................................. 102
1.2.2. Đối với nhà trường............................................................................................................ 102
1.2.3. Đối với giáo viên................................................................................................................ 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 103
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay
Trong những năm gần đây, vấn đề chất lượng giáo dục đã trở thành mối
quan tâm lớn không chỉ của riêng ngành giáo dục mà của toàn xã hội. Chính
vì thế, đổi mới phương pháp dạy học được coi là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của cải cách giáo dục nói chung cũng như cải cách cấp trung học
phổ thông nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Điều này đã được đề cập tại
Điều 5 Luật Giáo Dục nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam:
“Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy
sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên” [30, tr. 15]. Trong Những định hướng đổi mới chương trình –
sách giáo khoa trung học phổ thông cũng đã nêu rõ: “Tập trung đổi mới
phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động học tập tích cực,
chủ động, sáng tạo với sự tổ chức, hướng dẫn đúng mức của giáo viên, góp
phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học…” [1, tr. 109]. Thực tế việc
thực hiện ở các nhà trường đã có nhiều cố gắng và đạt được những tiến bộ
nhất định. Tuy nhiên cần phải có sự tích cực hơn nữa từ phía các giáo viên để

ĐMPPDH thực sự đem lại hiệu quả lâu dài và toàn diện.
Trong xu thế chung đó, môn Ngữ Văn cũng đã có những bước đổi mới
quan trọng nhưng vẫn chưa thấy rõ được hiệu quả. Thực trạng dạy và học Văn
trong nhà trường phổ thông hiện nay vẫn còn nhiều điều hạn chế, tồn tại: “đó
là sự khủng hoảng về nội dung, chất lượng và phương pháp” [25, tr. 14], GV
còn lúng túng trong ĐMPPDH, một số ít GV còn có tâm lí ngại đổi mới trong

1


khi HS ngày càng ít hứng thú đối với môn Văn. Chính vì thế, ĐMPP trong
dạy học Ngữ Văn ngày càng trở thành yêu cầu cấp thiết.
1.2. Thực trạng dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở
trường THPT
Trong chương trình Ngữ Văn 11 ban Cơ bản có hai bài học về văn học
hiện thực phê phán là Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số đỏ - Vũ Trọng
Phụng) và Chí Phèo (Nam Cao). Đây là hai tác phẩm đã có trong chương
trình cũ tiếp tục được đưa vào chương trình mới. Việc nghiên cứu hai tác
phẩm này được quan tâm khá sâu sắc, việc giảng dạy đã được áp dụng nhiều
phương pháp trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên việc giảng dạy phần
chương trình này vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Chính vì thế, với việc thực hiện luận văn này, tôi mong muốn tìm ra
được một phương pháp giảng dạy phù hợp, mang tính khoa học và nghệ thuật
với phần chương trình này, góp nâng cao hiệu quả giờ giảng dạy Ngữ Văn,
bồi dưỡng cho học tình yêu với môn học này, cũng là góp thêm một phần tích
cực nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học.
2.

Lịch sử vấn đề


2.1. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học đang là một vấn đề trọng tâm, một đòi
hỏi cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của nền giáo dục Việt
Nam. Nhiều tác giả tham gia nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học nói
chung hoặc những hình thức, biện pháp góp phần đổi mới phương pháp dạy
học:
-Đổi mới phương pháp dạy học – chương trình và sách giáo khoa
(Trần
Bá Hoành, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2006)

2


-

Mô hình dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm (Nguyễn Kì,

Trường Cán bộ Quản lí giáo dục và đào tạo, 1996)
-Những vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại (Thái Duy Tuyên,
Nhà
xuất bản Giáo dục, 1999)
phổ

Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ Văn trung học

thông (Đỗ Ngọc Thống, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006)
2.2. Phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán 19301945
Phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán 19301945 đã được một số tác giả quan tâm, nghiên cứu, tuy nhiên mới chỉ dừng lại
ở góc độ từng bài học tác phẩm cụ thể hoặc áp dụng một phương pháp nhất
định nào đó trong dạy học một tác phẩm:

-

Dạy học Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số đỏ - Ngữ văn 11 ban

cơ bản) từ thi pháp tiểu thuyết của nhà văn Vũ Trọng Phụng (Luận văn Thạc
sĩ Sư phạm Ngữ Văn, Vũ Thị Mận, Đại học Giáo dục, 2010)
-

Rèn luyện tư duy văn học cho học sinh trung học phổ thông bằng câu

hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
(Sách giáo khoa Ngữ văn 11 Ban Cơ bản) (Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ
Văn, Nguyễn Văn Tuấn, Đại học Giáo dục, 2010)
Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường
(PGS.
TS Nguyễn Viết Chữ, Nhà xuất bản Giáo dục, 2010)
-Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông (tập 1)
(GS Phan Trọng Luận, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998)
-

Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 11 (tập 1) (TS Nguyễn Văn Đường, Nhà

xuất bản Hà Nội, 2009)


3


2.3. Về văn học hiện thực phê phán 1930-1945
Văn học hiện thực phê phán là một trào lưu văn học công khai, tồn tại

hợp pháp, xuất hiện trong giai đoạn 1930-1945. Đây là một dòng văn học lớn,
ra đời nhằm đáp ứng một phần những yêu cầu cơ bản của cuộc đấu tranh giai
cấp và đấu tranh dân tộc lúc bấy giờ. Các nhà văn tiến bộ - bạn đường của giai
cấp công nhân, như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao… đã sử dụng chủ nghĩa hiện thực phê phán như một
vũ khí chiến đấu. Có rất nhiều các nghiên cứu về dòng văn học này, thể hiện
qua:
-

Giáo trình Văn học Việt Nam 1930-1945 (Phan Cự Đệ, Trần Đình

Hượu, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007)
Văn học Việt Nam thế kỉ XX – Những vấn đề lịch sử và lí luận
(Phan
Cự Đệ, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007)
-

Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết hiện thực 1930-1945 (Tạp chí

Nghiên cứu văn học số 2, 2003)
-

Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam (Nguyễn Đức Đàn,

Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1968)
2.4. Về tác giả Vũ Trọng Phụng và tiểu thuyết Số đỏ
Vũ Trọng Phụng là một tác giả lớn, có tên tuổi và vị trí vững chắc trong
nền văn học hiện đại Việt Nam, chính vì thế, việc nghiên cứu về tác giả và
những tác phẩm của ông trong đó có Số đỏ thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu
với các phê bình, tiểu luận, báo, tạp chí hay giáo trình:


4


-

Giáo trình Văn học Việt Nam 1930-1945 (Phan Cự Đệ, Trần Đình

Hượu, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007)
-

Tìm hiểu nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua tiểu thuyết

Số đỏ (Luận văn Thạc sĩ Văn học, Choi Young Lan, Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn, 2009)
-

Vũ Trọng Phụng – nhà văn hiện thực (1912-1939) (Tiểu luận Văn

Tâm, Kim Đức 1957)
-

Điển hình hóa – một trong những thành công xuất sắc của Vũ Trọng

Phụng trong Giông tố và Số đỏ (Nguyễn Thị Bích Nga, Tạp chí khoa học xã
hội, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 5, 1999)
Số đỏ - tác phẩm và lời bình (Tôn Thảo Miên, Nhà xuất bản
văn học,
2007)
2.5. Về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo

Nam Cao cũng là một nhà văn lớn, là một trong những nhà văn đem lại
nhiều cái mới, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn xuôi Việt Nam
hiện đại. Các tác phẩm của ông, trong đó tiêu biểu là Chí Phèo thể hiện rất rõ
quan điểm sáng tác tiến bộ, cách viết chân thực, với một tầm khái quát cao.
Một số công trình nghiên cứu về tác giả và tác phẩm:
-

Giáo trình Văn học Việt Nam 1930-1945 (Phan Cự Đệ, Trần Đình

Hượu, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007)
-

Nam Cao – đời văn và tác phẩm (Hà Minh Đức, Nhà xuất bản Văn

học, 1997)
Vấn đề người nông dân trong cách nhìn của Nam Cao (Phạm
Phú Tỵ,
Tạp chí Khoa học – Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)


5


học,

Chí Phèo dưới cái nhìn phân tâm học (Tạp chí nghiên cứu Văn

2007)
-


Giá trị thi pháp từ tên gọi Chí Phèo (Trần Đại Nghĩa, Tạp chí Ngôn

Ngữ số 1, 2007)
3.

Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu thực trạng dạy học Ngữ Văn ở trường THPT

nói chung và giảng dạy các tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945
nhằm đánh giá tình hình dạy học, đề xuất biện pháp đổi mới phương pháp dạy
học các tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Từ đó góp phần
nâng cao hiệu quả của việc dạy và học Ngữ Văn ở trường THPT.
4.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề cơ bản mang tính lí luận về vấn đề đổi mới

phương pháp dạy học; các phương pháp dạy học; văn học hiện thực phê phán.
-Khảo sát, tìm hiểu thực trạng dạy học phần văn học hiện thực phê
phán
1930-1945 ở trường THPT.
5.

Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các phương pháp dạy học Ngữ Văn;
các tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở trường THPT; việc
giảng dạy tác phẩm các tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở

trường THPT.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là quá trình dạy học môn Ngữ Văn lớp
11 ở trường THPT.
5.3. Phạm vi nghiên cứu


6


Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hai bài học Hạnh phúc của một tang
gia (trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng) và Chí Phèo (Nam Cao) trong chương
trình Ngữ Văn 11 ban Cơ bản.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Vận dụng các phương pháp trong dạy học tác phẩm văn học hiện thực
phê phán 1930-1945 ở trường THPT như thế nào để có hiệu quả tích cực?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Việc vận dụng linh hoạt, phù hợp các phương pháp trong dạy học tác
phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở trường THPT sẽ góp phần tạo
hiệu quả tích cực trong việc nâng cao chất lượng dạy học phần văn học hiện
thực phê phán nói riêng và dạy học Ngữ Văn nói chung.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu lí luận về các phương pháp dạy học Ngữ Văn, vấn đề đổi
mới phương pháp dạy học, văn học hiện thực phê phán, vấn đề tác giả, nội
dung và nghệ thuật hai tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ Vũ Trọng Phụng) và Chí Phèo (Nam Cao)… Các tài liệu trong quá trình
nghiên cứu sẽ được phân tích, tổng hợp một cách có hệ thống để thấy rõ được
yêu cầu và sự phù hợp của việc ĐMPPDH qua hai bài học này.
8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
-


Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn giáo viên ở một số trường THPT

về thực trạng việc dạy học các tác phẩm văn học hiện thực phê phán trong
chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản.
học

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Sử dụng bảng hỏi điều tra

sinh và GV dạy Văn khối 11 ở trường THPT Vân Tảo – Hà Nội. Qua đó phần

7


nào đánh giá được thực trạng việc dạy và học các tác phẩm văn học hiện thực
phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản.
-

Phương pháp phân tích kết quả nghiên cứu: Qua số liệu thu được từ

việc điều tra bằng bảng hỏi với GV - HS, và một số ý kiến của GV qua việc
phỏng vấn trực tiếp, các kết quả sẽ được tổng hợp, tính toán nhằm đưa ra
những số liệu chính xác phản ánh thực trạng việc dạy và học các tác phẩm văn
học hiện thực phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản,
hứng thú và kết quả học tập của HS, khó khăn của GV trong dạy học, nguyên
nhân của thực trạng và một số giải pháp…
9. Đóng góp của luận văn
-

Về lí luận: Khẳng định sự đúng đắn, khả thi của việc ĐMPPDH trong


dạy học Ngữ Văn.
-

Về thực tiễn: Khảo sát và đánh giá thực trạng dạy học tác phẩm văn

học hiện thực phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản, nhằm
hoàn thiện mô hình dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán, giúp đồng
nghiệp có thêm tư liệu soạn giảng, nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm văn
học hiện thực phê phán nói riêng và chất lượng dạy học Ngữ Văn trong nhà
trường nói chung.
10. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực
phê phán 1930-1945 ở trường THPT
Chương 2: Thực tiễn giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán
1930-1945 ở trường THPT
Chương 3: Đổi mới phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực
phê phán 1930-1945 trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản

8


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM
VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930-1945 Ở TRƢỜNG TH PT

1.1. Quan niệm về đồi mới phƣơng pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là đưa các phương pháp dạy
học mới vào nhà trường trên cơ sở phát huy tính tích cực của các phương

pháp dạy học truyền thống, nâng cao hiệu quả đào tạo của giáo dục. Đổi mới
phương pháp dạy học nhằm góp phần thực hiện mục tiêu Giáo dục – đào tạo
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó nhấn mạnh
đến đào tạo những người lao động có bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng thích ứng với những đổi thay trong xã hội
hiện đại... Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong hoạt
động học tập để tự phát hiện, tự giải quyết các vấn đề trong học tập và trong
đời sống, từ đó tự chiếm lĩnh và biết vận dụng các kiến thức và kĩ năng cơ bản
với sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên.
Đổi mới phương pháp dạy học không chỉ bó hẹp trong phạm vi hoạt
động của giáo viên và học sinh trong các giờ lên lớp mà bao gồm cả đổi mới
phương pháp trình bày nội dung các tài liệu dạy học, đổi mới cách sắp xếp các
nội dung dạy học cụ thể nhằm tích cực hóa hoạt động của giáo viên và học
sinh trong quá trình dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện dựa trên các định hướng:
-

Bám sát mục tiêu giáo dục phổ thông.

-

Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể.

-

Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh.

-

Phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, điều kiện dạy học của nhà


trường.

9


-

Phù hợp với việc đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả dạy – học.

-

Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, hiệu quả các

phương tiện dạy học hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích
cực của các phương pháp dạy học truyền thống.
-

Tăng cường sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học, ứng

dụng công nghệ thông tin.
1.2. Phƣơng pháp dạy học Ngữ Văn và định hƣớng đổi mới phƣơng
pháp dạy học Ngữ Văn
Trong nhà trường phổ thông, cùng với các môn học như Toán, Vật lí,
Hóa học, Giáo dục công dân hay Ngoại Ngữ, môn Ngữ Văn là một môn học
bắt buộc thuộc chương trình chính khóa và chiếm một thời lượng khá nhiều
trong phân phối chương trình so với các môn học khác. Bộ môn Ngữ Văn
thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Thế nhưng, không giống như các
môn học khác, trong môn học Ngữ Văn luôn song song tồn tại hai tính chất:
Vừa là một bộ môn khoa học vừa có tính nghệ thuật ngôn từ, vừa mang tính

chất một môn học. Môn Văn là một bộ môn mang tính nghệ thuật, chính vì thế
việc giảng dạy và học tập Ngữ Văn luôn có những đặc thù riêng, nói cách
khác, phương pháp dạy học Văn chính là một khoa học nghệ thuật.
Mặc dù ý thức được về tầm quan trọng của bộ môn và phương pháp
giảng dạy bộ môn, nhưng chất lượng, hiệu quả của môn học Ngữ Văn hiện
nay vẫn chưa có nhiều thay đổi, học sinh vẫn chưa thực sự hứng thú và yêu
thích môn học này, chất lượng, kết quả môn Ngữ Văn thể hiện qua các kì thi
còn rất thấp. Học sinh phần lớn giữ thói quen thụ động, quen nghe, quen chép,
ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, dập khuôn những gì giáo viên đã
giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài
học. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh
thành những người quen suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng

10


những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở.
Người học chưa có hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm
của cá nhân trước tập thể, cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy khá
khó khăn.
Về phía giáo viên, mặc dù đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học
văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức, thử nghiệm chứ
chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Một số giáo viên vẫn còn thói quen
dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học
sinh lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều mà giáo viên đã
truyền đạt. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những
kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh. Nhiều giáo
viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng
như việc chỉ ra cho người học con đường tích cực chủ động để thu nhận kiến
thức. Do đó, có những giờ dạy được giáo viên tiến hành như một giờ diễn

thuyết, thậm chí giáo viên còn đọc chậm cho học sinh chép lại những gì có
sẵn ở giáo án. Giờ học tác phẩm văn chương vì thế vẫn chưa thu hút được sự
chú ý của người học, một bộ phận không nhỏ học sinh vẫn tỏ ra bàng quan,
thờ ơ với văn chương. Hơn nữa, không ít giáo viên đứng lớp chưa được trang
bị kỹ càng, đồng bộ về quan điểm và lý luận phương pháp dạy học Văn mới.
Vấn đề quan điểm và lý luận phương pháp dạy học Văn mới chỉ đến với
người dạy qua một số tài liệu, thiên về cung cấp lý thuyết hơn là hướng dẫn
thực hành. Một số các giáo trình tài liệu về phương pháp dạy học Văn còn
mang bệnh lý thuyết và sách vở hoặc chịu tác động từ các phương pháp dạy
học của nước ngoài. Nhiều giáo viên còn mơ hồ trước những khối lý luận
phương pháp dạy học chung chung áp dụng lúc nào cũng đúng không chỉ cho
riêng bộ môn Văn mà cả các bộ môn khác.
Tuy không thể phủ nhận rằng trong khoảng một thập niên trở lại đây,
việc đổi mới cách dạy học Văn đã được tiến hành rộng khắp trong cả nước,

11


vai trò và mối quan hệ giữa người dạy và người học đã khác trước, sự chủ
động, tích cực của học sinh trong giờ học được đề cao, các phương tiện dạy
học phong phú hơn. Tuy nhiên, tất cả những gì diễn ra ở môn Văn dường như
chỉ là sự khúc xạ những tiến bộ chung về quan niệm dạy học hiện đại. Cái gọi
là “tư tưởng dạy học Văn theo hướng coi trọng hoạt động của học sinh, giáo
viên là người định hướng tổ chức, không phải là người truyền đạo, áp đặt” mà
tác giả Nguyễn Minh Phương nêu lên (Văn nghệ số 13, 28 - 3 - 2009) như một
bằng chứng về thành tựu đổi mới dạy học văn, thực chất vẫn nằm trong cái
khuôn chung của giáo dục học. Rõ ràng, trong thực tế, chưa có được sự đổi
mới căn bản, triệt để dựa trên đặc thù môn Ngữ Văn phản ánh trong mối quan
hệ bộ ba hữu cơ: thầy giáo (người hướng dẫn, tổ chức) - học sinh (chủ thể tiếp
nhận) - văn bản (đối tượng của sự tiếp nhận).

Với những thực trạng nói trên, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã
và đang là mối quan tâm hàng đầu không chỉ của riêng ngành giáo dục, trở
thành một yêu cầu cơ bản của chiến lược giáo dục, được đem ra bàn bạc, thảo
luận trong nhiều chương trình, hội nghị các cấp trung ương đến địa phương.
Trong Chiến lược phát triển phát triển giáo dục Việt Nam 2009-2020 đã nêu
lên giải pháp chiến lược nhằm phát triển giáo dục đến năm 2020 là tích cực
đổi mới phương pháp dạy học: “Thực hiện cuộc vận động toàn ngành đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của người học, biến quá trình học tập thành quá trình tự học có
hướng dẫn và quản lí của giáo viên”. Như vậy có thể khẳng định rằng để nâng
cao chất lượng dạy và học Văn trong nhà trường, trước hết, cần đẩy mạnh đổi
mới phương pháp dạy và học. Giáo viên phải từng bước chuyển từ phương
pháp giảng dạy truyền thụ kiến thức một chiều sang phương pháp dạy học
mới, trong đó học sinh dưới sự tổ chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình
chiếm lĩnh bài văn, tự rút ra những kết luận, những bài học cần thiết cho mình

12


với sự chủ động tối đa. Có như vậy, học sinh mới thấy hứng thú và cảm thấy
mình cũng là người “đồng sáng tạo” với tác giả.
Mặc dù vậy, chúng ta cũng nên thừa nhận việc đổi mới phương pháp
giảng dạy không phải là tạo ra một phương pháp khác với cái cũ, để loại trừ
cái cũ. Bên cạnh việc vận dụng những phương pháp mới thì cần tận dụng
những nhân tố tích cực của cái cũ, phương pháp cũ để nó có cơ hội phát triển
mạnh mẽ hơn, đồng thời tạo ra cái mới tiến bộ hơn. Nếu phương pháp dạy học
cũ có một ưu điểm lớn là phát huy trí nhớ, tập cho học sinh làm theo một điều
nào đó, thì phương pháp mới vẫn cần những ưu điểm trên. Song cái khác căn
bản ở đây là phương pháp giảng dạy cũ đã phần nhiều “bỏ quên học sinh”,
học sinh bị động trong tiếp nhận. Còn phương pháp giảng dạy mới phải phát

huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua hàng loạt các tác động
của giáo viên là bản chất của phương pháp giảng dạy mới. Khi nói đến tính
tích cực, chúng ta quan niệm là lòng mong muốn hành động được nảy sinh từ
phía học sinh, được biểu hiện ra bên ngoài hay bên trong của sự hoạt động.
Nhờ phát huy được tính tích cực mà học sinh không còn bị thụ động. Học sinh
trở thành các cá nhân trong một tập thể mang khát vọng được khám phá, hiểu
biết. Muốn vậy, điều khó khăn nhất với người giáo viên là: Trong một giờ lên
lớp, phải làm sao cho những học sinh tốt nhất cũng được thoả mãn nhu cầu tri
thức, thấy tri thức là một chân trời mới, còn những học sinh học yếu nhất
cũng không thấy bị bỏ rơi, họ cũng tham gia được vào quá trình khám phá cái
mới. Điều này là đặc biệt cần thiết, vì học sinh sẽ hào hứng để đi tìm tri thức
chứ không còn bị động, bị nhồi nhét nữa.
Tóm lại, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn là một đòi hỏi bức
thiết, một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo dục, cải cách
cấp trung học phổ thông nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng, nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học. Thực tế việc thực hiện của giáo viên ở các nhà

13


trường đã có nhiều cố gắng và đạt được những tiến bộ nhất định. Tuy nhiên
cần phải có sự tích cực hơn nữa từ phía các giáo viên để việc đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ Văn thực sự đem lại hiệu quả lâu dài và toàn diện.
1.3. Tổng quan về văn học hiện thực phê phán 1930-1945
Đây là một dòng văn học phát triển manh nha từ đầu thế kỷ XX, là sản
phẩm của tư tưởng bất bình trước xã hội thực dân nửa phong kiến đầy bất
công và ngang trái. Nói cách khác, đây là sản phẩm tâm lí phê phán xã hội
thực dân phong kiến Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Dòng văn học
này là kết quả của sự giao lưu văn hóa đông tây (Việt - Pháp). Những người

trí thức Việt Nam sau khi tiếp xúc với văn học Pháp đã học tập, tiếp thu những
tinh hoa của nước ngoài để biến đổi, kết tinh trong những sáng tác văn học
quốc ngữ của mình.
Văn học hiện thực phê phán có một vị trí quan trọng trong nền văn xuôi
Việt Nam và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình hiện đại hóa văn học,
nhiều cây bút xuất sắc trưởng thành từ trào lưu này, đóng góp cho nền văn học
của chúng ta nhiều tác phẩm xuất sắc. Các nhà văn hiện thực hướng đến phê
phán tính chất thoát li của văn học lãng mạn và giữ vững quan điểm “nghệ
thuật vị nhân sinh”: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không
nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ
những kiếp lầm than” (Giăng sáng, Nam Cao). Từ đó, những cây bút hiện
thực luôn có cái nhìn trực diện để phản ánh chân thực, khám phá sâu sắc bản
chất hiện thực đời sống, phê phán những bất công, những tồn tại xã hội chà
đạp lên con người. Với nền tảng là chủ nghĩa nhân đạo, văn học hiện thực
hướng đến những tầng lớp cùng khổ, không chỉ tố cáo những áp bức, bóc lột
mà còn thể hiện được một khát vọng sống của cá nhân, đề cao phẩm giá và
giữ vững niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.

14


Trong khoảng 30 năm đầu thế kỷ XX, Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn
là những người đầu tiên viết văn có cảm hứng hiện thực. Từ sau 1930, văn
học hiện thực phê phán đã phát triển mạnh và đạt được những thành tựu lớn
trong vòng 15 năm từ 1930-1945 qua ba chặng đường:
Từ 1930 đến 1935: Đây là giai đoạn đầu phát triển của văn học hiện
thực phê phán cùng với văn học lãng mạn khi ấy đang chiếm ưu thế. Vì thế,
phạm vi ảnh hưởng và tầm bao quát hiện thực của văn học hiện thực còn
tương đối hạn hẹp. Tác phẩm chưa chỉ ra được những mâu thuẫn cơ bản, chưa
đặt ra được những vấn đề lớn mang tầm khái quát và chưa có nhiều tác phẩm

gây được sự chú ý cao. Thế giới nhân vật hướng đến tầng lớp thị dân nghèo
và nhà văn mới chỉ nhìn thấy con người họ trong sự hèn kém, yếu đuối, dễ bị
lưu manh hóa. Tính chiến đấu của văn học giai đoạn này theo đó cũng chưa
cao. Một số tác phẩm tiêu biểu: truyện ngắn Kép Tư Bền (Nguyễn Công
Hoan); phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang); kịch Không một tiếng vang, phóng
sự Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây (Vũ Trọng Phụng)...
Từ 1936 đến 1939: Thời kì Mặt trận dân chủ đấu tranh công khai đã tạo
điều kiện cho văn học hiện thực phát triển hơn hẳn so với giai đoạn trước về
đề tài, thể loại và nội dung phản ánh hiện thực, đã có nhiều tác phẩm có tầm
bao quát hiện thực rộng lớn. Tuy còn một số hạn chế, nhưng đây là chặng
đường chủ nghĩa hiện thực đạt tới đỉnh cao, các nhà văn đã xây dựng được
nhiều tác phẩm có tiếng nói trực tiếp, thời sự và có tính chiến đấu, trong đó đã
xuất hiện nhiều điển hình văn học: Nghị Hách (Giông tố), Xuân tóc đỏ (Số
đỏ) của Vũ Trọng Phụng; chị Dậu, Nghị Quế trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố;
anh Pha, nghị Lại trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan...
Từ 1940 đến 1945: Đây là giai đoạn văn học hiện thực phát triển theo
chiều hướng đi xuống bởi hoàn cảnh xã hội, chính trị tác động. Chế độ kiểm
duyệt gắt gao đã làm cho nhiều nhà văn hiện thực hoang mang, tư tưởng bị
dao động dần suy thoái và bế tắc. Các nhà văn thiên về “hướng nội và giàu

15


chất tự truyện”. Thời kì này chỉ duy nhất các tác phẩm của Nam Cao là có
được tầm hiện thực và tính chiến đấu mãnh liệt nhất. “Nam Cao đã dựng lên
bức tranh chân thực về nông thôn việt Nam trên con đường phá sản, bần cùng,
không lối thoát, hết sức thê thảm vào những năm 1940-1945” [31, tr. 48].
Những tác phẩm tiêu biểu: Chí Phèo, Lão Hạc, Tư cách mõ, Giăng sáng,
Sống mòn... Trong đó, Chí Phèo xứng đáng được coi là một kiệt tác của nền
văn học nước ta.

Văn học hiện thực phê phán là một trào lưu văn học tiến bộ, giàu tính
thời sự và đề cập được đến nhiều vấn đề trong xã hội đương thời. Có thể nói
với chặng đường phát triển 15 năm, chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn
học Việt Nam xứng đáng trở thành “một trong những trào lưu văn học bề thế
nhất với những thành tựu to lớn về tư tưởng và nghệ thuật sẽ còn ảnh hưởng
tích cực và lâu dài đối với sự phát triển của nền văn học dân tộc” [32, tr. 7].
1.4. Phong cách nghệ thuật
Có rất nhiều ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu trong quan niệm
về phong cách nghệ thuật, tuy nhiên có thể đưa ra ý kiến của GS Nguyễn
Đăng Mạnh trong cuốn Nhà văn hiện đại, chân dung và phong cách – một ý
kiến tương đối toàn diện khi tác giả khẳng định: “Phong cách là một chỉnh thể
nghệ thuật. Mỗi nhà văn có phong cách tạo ra cho mình một thế giới nghệ
thuật riêng. Thế giới nghệ thuật ấy dù phong phú đa dạng thế nào, vẫn có tính
thống nhất… Phong cách bao gồm những đặc điểm độc đáo của các tác phẩm
của một nhà văn từ nội dung đến hình thức… Trong quá trình sáng tác của
một nhà văn, phong cách nghệ thuật của ông ta luôn luôn chuyển từ tác phẩm
này đến tác phẩm khác. Nhưng dù đổi mới thế nào, phong cách vẫn vận động
trên cơ sở thống nhất… phong cách một khi đã định hình thì thường có tính
bền vững”.

16


Như vậy, phong cách nghệ thuật của nhà văn là cá tính sáng tạo được thể
hiện rõ rệt ở đề tài, cảm hứng, nét đặc sắc về bút pháp nghệ thuật, giọng điệu
và ngôn ngữ đặc sắc, độc đáo của nhà văn đó. Mỗi nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, có
tài đều có phong cách nghệ thuật riêng, hoàn toàn không trùng lặp, không
giống bất cứ ai, và mỗi tác phẩm họ viết ra đều mang màu sắc cá nhân, dấu ấn
cá nhân đậm nét. Thạch Lam đã từng phát biểu: “Mỗi tác phẩm đều có ít
nhiều nhà văn trong đó” – đó chính là sự thể nghiệm, đúc kết suốt cả đời văn

của một nhà văn mang phong cách nghệ thuật riêng biệt.
Đối với đội ngũ sáng tác, việc tạo nên được cho mình một phong cách,
là cả một quá trình đòi hỏi sự nỗ lực trong sáng tạo, là cuộc hành trình để
khẳng định cái bản ngã cá nhân trong nghệ thuật của người cầm bút. Phấn đấu
để có được một phong cách nghệ thuật cá nhân, đó là sự đóng góp đích thực
của mỗi người viết cho sự phát triển chung của cả nền văn học. Bởi vì, một
nền văn học càng có nhiều phong cách cá nhân thì càng có nhiều khả năng trở
thành một nền văn học lớn. Và cũng vì thế, nếu như mỗi nhà văn tự xóa đi cái
dấu ấn cá nhân trong tác phẩm thì tác phẩm nói riêng và sự phát triển của cả
nền văn học nói chung sẽ không có chỗ đứng trong lòng người đọc. Nói cách
khác nó sẽ khiến cho tính phát triển bền vững của nền văn học đi xuống. Sở dĩ
có nhiều tác phẩm trải qua thời gian, qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử
vẫn vẹn nguyên giá trị, vẫn đứng vững trong lòng người đọc là nhờ tâm huyết
sáng tạo của nhà văn. Người đọc tôn vinh tài năng, nét riêng trong mỗi nhà
văn chứ không phải cái chung chung, mờ nhạt, dễ dàng bị trộn lẫn, hòa tan
của những nhà văn không phong cách viết ra.
Tóm lại, phong cách nghệ thuật được biểu hiện ở cái nhìn, cách cảm thụ
giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời của nhà văn; giọng điệu riêng
gắn liền với cảm hứng sáng tác; nét riêng trong sự lựa chọn, xử lí đề tài, xác
định chủ đề, xác định đối tượng miêu tả, thể hiện chính; tính thống nhất, ổn
định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật. Qua

17


×