Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.12 KB, 18 trang )

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ QUẢN LÝ RỦI
RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Những vấn đề cơ bản về NHTM
1.1.1 Khái niệm NHTM
Đầu tiên ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Ở mỗi nước có
một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví dụ: Ở Mỹ: ngân hàng thương
mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và họat động
trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp: ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ
sở nào thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức
khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch
vụ tài chính .
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt
Nam xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán.
1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM
Về cơ bản thì hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại có thể chia
thành 3 nhóm chính là : (1) Hoạt động huy động vốn , (2) Hoạt động sử dụng vốn và (3)
Hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính.
(1) Hoạt động huy động vốn :
Bất kỳ Ngân hàng Thương mại nào cũng bắt đầu hoạt động kinh doanh bằng việc
huy động vốn. NHTM huy động tất cả các nguồn tiền nhàn rỗi trong các Doanh nghiệp,
các tổ chức chính phủ và dân cư với quy mô và thời hạn khác nhau. Từ các khoản huy
động đó để hình thành các tài sản NỢ hay nguồn vốn, quyết định đến toàn bộ hoạt động
kinh doanh và khả năng cung cấp dịch vụ của một Ngân hàng Thương Mại.
(2) Hoạt động sử dụng vốn :
Công tác sử dụng vốn lớn nhất và có hiệu quả của hầu hết các Ngân hàng Thương
mại là hoạt động tín dụng. Hoạt động sử dụng vốn thứ hai là đầu tư. Dự trữ hay các
khoản mục ngân quỹ là việc các NHTM giữ lại một phần nguồn vốn để đảm bảo khả
năng chi trả trong mọi tình huống yêu cầu của khác hàng. Ngoài ra , trong điều kiện nền


kinh tế thị trường,các Ngân hàng thương mại còn sử dụng vốn để đầu tư mua sắm tài
sản cố định, thực hiện các hoạt động tài trợ, quảng cáo…Một số hoạt động sử dụng vốn
:
(3) Hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính :
Ngoài các hoạt động truyền thống huy động nguồn vốn và sử dụng vốn nói trên,
thì ngày nay hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính của Ngân hàng không chỉ rất
quan trọng mà nó ngày càng có ý nghĩa quyết định đến khả năng kinh doanh và hiệu
quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.3 Đặc trưng hoạt động của NHTM
Ngân hàng Thương mại là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh tiền gửi gắn
bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ , hoạt động của NHTM là hoạt động cung
cấp các dịch vụ, hoạt động của NHTM phong phú đa dạng và có phạm vi rộng lớn. Nó
có các đặc trưng cơ bản sau :
Thứ nhất, Ngân hàng Thương mại là Ngân hàng kinh doanh tiền gửi, là hàng hoá
đặc biệt luôn mang lại độ thoả dụng cao nhất đối với mọi chủ thể mà nhu cầu lại dường
như không có giới hạn
Thứ hai, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Ngân hàng là lĩnh vực đặc biệt với sự
vận động rất phức tạp của vốn, do vậy khả năng xảy ra rủi ro là rất cao. Kinh doanh
Ngân hàng luôn gắn liền với yếu tố rủi ro.
Thứ ba, Nguồn vốn Ngân hàng chủ yếu là huy động từ các chủ thể khác và có tính
thanh khoản rất cao
Thứ tư, Hoạt động của NHTM có tính nhạy cảm cao và luôn chịu sự giám sát chặt
chẽ của Pháp luật
Thứ năm, Tính chất sản phẩm của NHTM cũng mang những nét riêng biệt của
những sản phẩm không thể lưu trữ và chất lượng không ổn định. Các sản phẩm dịch vụ
của NHTM mang tính tương đồng, dễ bắt chước và gắn chặt với yếu tố thời gian.
Nhưng các NHTM cạnh tranh với nhau chính ở sự khác biệt về chất lượng và sự đa
dạng của các sản phẩm cung cấp.
Thứ sáu, Khách hàng của Ngân hàng là rất đông đảo và đa dạng; Hiệu quả của
Ngân hàng phải được thể hiện thông qua hiệu quả huy động và sử dụng vốn .Sự phù

hợp giữa nguồn vốn _ tài sản và tính thanh khoản của Ngân hàng, đòi hỏi sự phù hợp
giữa thu nhập với rủi ro.
1.2 Rủi ro tín dụng NHTM
1.2.1 Khái niệm
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh khi một trong các chủ thể tham gia hợp đồng tín
dụng không có khả năng thanh toán cho các chủ thể còn lại. Đối với bản thân ngân hàng
thương mại, rủi ro tín dụng gây nên hậu quả là ngân hàng không thu được đầy đủ cả
gốc và lãi của các khoản cho vay hoặc thời hạn nhận lại nợ gốc và lãi kéo dài so với
hợp đồng đã kí kết giữa ngân hàng với khách hàng.
Hay rủi ro tín dụng được hiểu là những khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi
ngân hàng cấp tín dụng.Những thiệt hại, mất mát mà NH gánh chịu do người vay vốn
hay người sử dụng vốn không trả đúng hạn, không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết
trong hợp đồng TD vì bất kể lý do gì. Đó chính là khả năng một khách hàng vay hoặc
một đối tác không muốn hay không thể thực hiện được nghĩa vụ đã thoả thuận dẫn đến
việc cá khoản cho vay hay các khoản phải thu của ngân hàng giảm giá trị hoặc không
thu hồi được. Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài
sản nên chỉ cần một tý lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là đã ảnh hưởng lớn đến
thu nhập của ngân hàng, đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng hoặc, trong trường hợp
xấu nhất ,làm cho ngân hàng có nguy cơ phá sản.
1.2.2 Các loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng xảy ra trong nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng của ngân
hàng từ khâu huy động vốn , cho vay, bảo lãnh và cho thuê tài chính.Ở đây ta có thể
nhắc đến hai loại rủi ro thường gặp nhất trong rủi ro tín dụng là (i) rủi ro đọng vốn và
(ii) rủi ro mất vốn.
Rủi ro đọng vốn xảy ra làm ảnh hưởng đến khách hàng sử dụng vốn và gây cản
trở khó khăn cho việc chi trả người gửi tiền.
Rủi ro mất vốn xảy ra làm tăng chi phí của hoạt động ngân hàng khi gia tăng các
nợ quá hạn và nợ khó đòi, tăng chi phí giám sát và chi phí pháp lý của các ngân hàng;
làm giảm lợi nhuận của ngân hàng khi tốc độ tín dụng chậm lại và doanh thu ngân hàng
bị giảm hoặc có thể mất; ngoài ra có thể khiến cho sản lượng giảm khi mà ngân hàng

mất cả khoản vốn gốc và giảm dự trữ của ngân hàng.
Và khi đó chúng ta cần thực hiện nhiều khoản cho vay mới để tạo đủ thu nhập cho
nguồn vốn gốc đã mất. Có thể hình dung về việc rủi ro xáy ra như bảng sau :
Số tiền cho vay ban đầu 3000
Thời hạn cho vay tính theo tuần 46
Số trả nợ hàng tuần 75
Thu nợ thực tế (14 tuần) 1050
Số nợ khó đòi (32 tuần) 2400
Tổng số thu bị mất 2400
Thu từ lãi bị mất 312
Nợ gốc bị mất 2088
Thu nhập kiếm từ mỗi khoản vay 1000 cho 46 tuần 150
Số món vay cần thiết để bù đắp khoản vay đã mất 2400/150 =16 khoản vay 1000
1.2.3 Nguyên nhân gây ra RRTD
Qua nghiên cứu và phân tích hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại
Việt Nam và các tình huống rủi ro tín dụng điển hình, chúng ta có thể tổng kết được các
nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong hoạt động NHTM Việt Nam về cơ bản bao
gốm 4 nhóm nguyên nhân : (1) Các nguyên nhân từ phía Ngân hàng , (2) Các nguyên
nhân thị trường (yếu tố hệ thống) , (3) Các nguyên nhân từ phía khách hàng (yếu tố phi
hệ thống ) và (4) Các nguyên nhân khác.
(1) Các nguyên nhân từ phía Ngân hàng
• Về chính sách quản lý tín dụng của Ngân hàng : Các ngân hàng chưa có được
các chính sách tín dụng hợp lý, thiếu tầm nhìn chiến lược trong việc hoạch định việc
quản lý rủi ro.
• Quy trình cấp tín dụng và mô hình quản lý rủi ro : Quy trình cấp tín dụng tiềm
ẩn nguy cơ rủi ro cao.
• Năng lực của cán bộ tín dụng còn hạn chế
• Công tác giám sát kiểm tra sau khi cho vay bị buông lỏng.
• Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá cao ,vượt tầm kiểm soát và tâm lý cho vay dễ
dãi trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế.

• Tâm lý ỷ vào tài sản thế chấp
• Rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng
• Thiếu đa dạng hoá danh mục
• Chính sách quản lý nguồn nhân lực còn hạn chế.
(2) Các nguyên nhân thị trường (yếu tố hệ thống )
• Chu kỳ kinh tế : trong thời kỳ tăng trưởng, các ngành nói chung đều kinh doanh
thuận lợi hơn, tỷ lệ thu hồi nợ vì thế tăng đồng thời dư nợ đối với nền kinh tế làm giảm
các khoản nợ xấu. Nhưng trong thời kỳ kinh tế kém tăng trưởng, các ngành kinh doanh
gặp khó khăn,đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm tiêu dùng bền vững,
sản xuất vật liệu xây dựng,các hàng cao cấp,các ngành dịch vụ như văn phòng, du lịch ,
kinh doanh bất động sản… Các món vay,đặc biệt là các món vay trung và dài hạn được
quyết định dễ dãi trong thời kỳ tăng trưởng sẽ trở thành khó đòi vài năm sau đó.
• Lãi suất và lạm phát thất thường
• Thị trường bất động sản bất ổn
• Rủi ro về mặt chính sách :Các khoản cho vay chính sách được thực hiện bởi
NHTM,Luật pháp thường xuyên thay đổi,Luật không nhất quán, mâu thuẫn,không rõ
ràng,Luật đất đai, chính sách thuế với các ngành thường xuyên thay đổi.
(3) Các nguyên nhân từ phía khách hàng ( yếu tố phi hệ thống)
• Do yếu tố tài chính : Khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp,khả năng sinh
lời, đòn cân nợ, hiệu quả quản lý vốn kém, dòng tiền âm.
• Do các yếu tố phi tài chính : Đạo đức uy tín của chủ doanh nghiệp kém, năng lực
kinh doanh quản trị kém, triển vọng ngành thấp, khả năng cạnh tranh thấp, thiếu sự đa
dạng hoá trong kinh doanh và đối tác.
• Do tính khả thi và hiệu quả của bản thân dự án vay vốn
• Tài sản thế chấp giá cả biến động , khó định giá, có tranh chấp về pháp lý, tính khả
mại thấp và là sản phẩm chuyên dụng hay tài sản giảm giá trị thay đổi hiện trạng
(4) Các nguyên nhân khác
• Tính chính xác và có sẵn của thông tin thấp
• Hành lang pháp lý chưa hoàn thiện
1.3 Quản lý rủi ro tín dụng NHTM

1.3.1 Khái niệm
Quan điểm về việc quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng Thương
mại được sử dụng là việc sử dụng hệ thống các biện pháp xác định và đo lường rủi ro,
lựa chọn và chấp nhận rủi ro, quản lý và kiểm soát rủi ro để thực hiện các quyết định
kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu về hiệu quả và an toàn.Ta có thể xem xét quá
trình quản lý rủi ro qua sơ đồ sau :
Nhận biết và xác định RRTD Phân tích đo lường RRTD
Lựa chọn về mức độ và phạm vi tác động của rủi ro
Kiểm soát và quản lý RRTD
Báo cáo đánh giá về quản lý RRTD
Sơ đồ 1 : Quy trình quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng cho phép hoạt động của Ngân hàng thương mại hoàn toàn
chủ động và mang tính tích cực dựa trên nguyên tắc đánh đổi giữa “ rủi ro và thu nhập
”. Ngân hàng sẽ lựa chọn một cách khoa học tập hợp các hoạt động với khả năng xảy ra
rủi ro ở mức độ và phạm vi nhất định kèm theo những biện pháp quản lý và kiểm soát
mức tổn thất khi rủi ro xảy ra nhằm đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.
1.3.2 Mục tiêu quản lý RRTD NHTM
Kinh doanh tín dụng là một trong những hoạt động chủ đạo của Ngân hàng
thương mại. Việc quản lý rủi ro tín dụng phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của
hoạt động tín dụng và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM
ngay trong điều kiện thị trường nhiều biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng.
Nói một cách cụ thể thì quản lý rủi ro tín dụng phải nhằm vào việc hạ thấp rủi ro tín
dụng, nâng cao mưc độ an toàn cho kinh doanh của mỗi NHTM bằng các chính sách
,các biện pháp quản lý, giám sát các hoạt động tín dụng khoa học và hiệu quả.
Để tối đa hoá giá trị cho cổ đông,hoạt động tín dụng ngoài mục tiêu tạo ra giá trị
và bảo toàn được giá trị đó,còn phải bảo vệ được thương hiệu của ngân hàng. Mục tiêu
của quản lý rủi ro tín dụng là tối đa hoá tỷ lệ thu nhập đã được điều chỉnh rủi ro của
ngân hàng bằng việc duy trì mức độ rủi ro tín dụng trong phạm vi chấp nhận được. Các
ngân hàng đang ngày càng cố gắng nhiều hơn để quản trị rủi ro bằng cách đánh giá, ước
đoán không chỉ mức tổn thất dự kiến trung bình mà còn cả mức tổn thất ngoài dự kiến

(hoặc trên trung bình) nữa.
1.3.3 Nội dung quản lý RRTD NHTM
1.3.3.1. Nhận biết và đánh giá rủi ro tín dụng
a, Để nhận biết rủi ro tín dụng về căn bản người ta thường dựa vào các dấu
hiệu sau : (1) các dấu hiệu tài chính, (2) các dấu hiệu phi tài chính,(3) và các khoản cho
vay.
(1) Các dâú hiệu tài chính
- Các chỉ số thanh khoản có dấu hiệu suy yếu
- Các chỉ số khả năng sinh lời có dấu hiệu suy yếu
- Các vòng quay hoạt động thể hiện sự suy yếu
- Cơ cấu vốn không hợp lý
(2) Các dấu hiệu phi tài chính
- Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý với KH
 Có sự thay đổi về cơ cấu NS trong hệ thống quản trị
 Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống điều hành
 Ít kinh nghiệm, xuất hiện nhiều hành đồng nhất thời
 Thuyên chuyển nhân viên quá thường xuyên
 Tranh chấp trong quá trình quản lý
 Chi phí quản lý bất hợp pháp
 Quản lý có tính gia đình
-
Dấu hiệu vấn đề kỹ thuật và thương mại
Dấu hiệu vấn đề kỹ thuật và thương mại
• Khó khăn trong phát triển sản phẩm mới, hoặc không có sản phẩm thay thế

×