Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH CUỘC ĐỜI ĐỐI VỚI SINH VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 116 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH CUỘC ĐỜI
ĐỐI VỚI SINH VIÊN
I. LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH
1. Khái niệm kế hoạch
Hiểu theo cách chung nhất, kế hoạch là sự thể hiện cách thức, giải pháp cho
một hoạt động nhằm đạt được mục đích và kết quả như mong muốn. Nó có thể được
xem như nhịp cầu nối hiện tại và vị trí mà chúng ta muốn đến trong tương lai. Tuy
nhiên, nếu xét về bản chất, kế hoạch chính là sự hướng tới tương lai. Tính chất đó của
kế hoạch được thể hiện ở hai nội dung như sau:
- Kế hoạch dự báo những gì sẽ xảy ra, đặt ra kết quả đạt được trong tương lai.
- Kế hoạch thực hiện việc sắp đặt các hoạt động của tương lai, các công việc cần làm
và thứ tự thực hiện các công việc để đạt được kết quả đã định.
Để thể hiện hai nội dung trên, các kế hoạch thông thường sẽ đi trả lời bốn câu
hỏi chính như sau :
- Chúng ta đang ở đâu ?
- Chúng ta muốn đi đến đâu ?
- Làm thế nào để chúng ta đi đến đó ?
- Làm thế nào để chúng ta luôn đi đúng hướng ?
Tương ứng với bốn câu hỏi đó là bốn giai đoạn của quá trình lập kế hoạch. Đó
chính là: Phân tích tổng quan; thiết lập và phân tích mục tiêu; lên kế hoạch hành
động; theo dõi, đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch và các kết quả đạt được. Bốn
giai đoạn này có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Chúng ảnh
hưởng đến chất lượng và tính khả thi của kế hoạch đã được đưa ra.
2. Vai trò của công tác lập kế hoạch
Mỗi loại kế hoạch có vai trò cụ thể khác nhau và hiện nay, chưa có tài liệu nào
nói về vai trò của công tác kế hoạch nói chung. Tuy nhiên, căn cứ vào bốn câu hỏi
chính của công cụ kế hoạch, ta có thể nhận thấy vai trò của công tác lập kế hoạch như
sau:
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
1


1
Chuyên đề tốt nghiệp
- Giúp cá nhân hay tổ chức lập kế hoạch hiểu rõ điểm mạnh, điểm yếu…của đối tượng
được lập kế hoạch.
- Định hướng cho đối tượng được lập kế hoạch về mục tiêu trong tương lai của mình.
- Tìm kiếm, huy động, tập trung và phối hợp các nguồn lực một cách hiệu quả nhất
nhằm đạt được mục tiêu và mong muốn đặt ra.
- Phối hợp giữa các cá nhân, bộ phận, tổ chức có liên quan.
- Là một công cụ dùng để quản lý và ứng phó với những bất định của cuộc sống.
Như vậy, có thể thấy kế hoạch có vai trò rất lớn trong tất cả mọi hoạt động của
đời sống con người.
3. Qui trình lập kế hoạch.
Thông thường, lập kế hoạch thường trải qua 4 bước
- Bước 1 : Trả lời câu hỏi chúng ta đang ở đâu ?
- Bước 2 : Trả lời câu hỏi chúng ta muốn đi tới đâu ?
- Bước 3 : Trả lời câu hỏi: Làm thế nào để chúng ta đi đến đó ?
- Bước 4 : Trả lời câu hỏi làm thế nào để chúng ta luôn đi đúng hướng ?
Cụ thể như sau :
3.1. Bước 1: Trả lời câu hỏi chúng ta đang ở đâu
Để trả lời trên, người lập kế hoạch phải có cái nhìn tổng quan và khách quan
về nội dung lập kế hoạch. Mặc dù vậy, mỗi loại kế hoạch khác nhau sẽ đi sâu phân
tích tổng quan về một nội dung khác nhau. Với kế hoạch phát triển Kinh tế Xã hội,
người làm kế hoạch thường đi sâu phân tích khả năng, điều kiện phát triển các yếu tố
tiềm năng trong tương lai và đánh giá trình độ phát triển của quốc gia hoặc địa
phương đó ở hiện tại. Kế hoạch kinh doanh thì lại đi sâu vào phân tích đánh giá môi
trường bên trong, bên ngoài để xác định doanh nghiệp đang đứng ở đâu trên cơ sở
điểm mạnh và điểm yếu của mình…Tuy nhiên tựu chung lại, khi trả lời câu hỏi
chúng ta đang ở đâu, người lập kế hoạch cần phải rút ra được tương quan so sánh
giữa ta trong quá khứ với ta ở hiện tại, giữa ta hiện tại với thế giới bên ngoài. Cùng
với đó, quá trình này cũng cần đưa ra nhận dạng những cơ hội có thể có trong tương

lai cũng như các thách thức có thể xảy ra.
3.2. Bước 2: Trả lời câu hỏi chúng ta muốn đi tới đâu
Câu trả lời của câu hỏi chúng ta muốn đi tới đâu là quá trình thiết lập mục tiêu, chỉ
tiêu và những nhiệm vụ cần thực hiện cho bản kế hoạch. Thông thường, căn cứ vào thông
tin có đuợc từ quá trình phân tích tổng quan, người lập kế hoạch sẽ đề ra các cấp độ mục
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
2
2
Chuyên đề tốt nghiệp
tiêu khác nhau như mục tiêu cuối cùng (hay còn gọi là tác động), mục tiêu trung gian (hay
còn gọi là kết quả), mục tiêu đầu ra…Tuy nhiên, tất cả các mục tiêu đều cần tuân thủ một
nguyên tắc được rất nhiều người biết đến - nguyên tắc Smart :
- S - Specific: Cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu.
- M - Measurable: Đo đếm được.
- A - Achievable: Có thể đạt được bằng chính khả năng của mình.
- R-Realistic: Thực tế, không viển vông.
- Time bound: Thời hạn để đạt được mục tiêu đã vạch ra.
3.3. Bước 3: Trả lời câu hỏi: Làm thế nào để chúng ta đi đến đó
Hành trình đi đến mục tiêu đã đặt ra luôn nhiều chông gai và yếu tố bất định.
Vì vậy, cần phải có một kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện mục tiêu đã đặt ra.
Trong kế hoạnh hành động này, người lập kế hoạch sẽ liên kết, huy động và cân đối
các nguồn lực. Đồng thời, người lập kế hoạch cũng sẽ xác định thứ tự ưu tiên, chia
nhỏ mục tiêu và lên kế hoạch thời gian cụ thể để con đường đi đến mục tiêu là con
đường phù hợp nhất.
3.4. Bước 4: Trả lời câu hỏi làm thế nào để chúng ta luôn đi đúng hướng
Là quá trình theo dõi, đánh giá nhằm thúc đẩy tiến độ thực hiện mục tiêu, phát
hiện những vấn đề có liên quan đến khả năng thực hiện mục tiêu đã đề ra để có
những điều chỉnh cho phù hợp. Việc theo dõi đánh giá này có thể được triển khai bởi
chính người lập kế hoạch hoặc một cá nhân, tổ chức khách quan, độc lập.
Trong một thế giới có tính biến dịch rất cao thì việc theo dõi và đánh giá là vô

cùng cần thiết. Nó sẽ giúp cho chúng ta tránh được những hạn chế của công tác phân
tích, dự báo và giúp bản kế hoạch trở nên linh hoạt trong một môi trường linh động.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI LẬP KẾ HOẠCH CUỘC ĐỜI VỚI SINH VIÊN
1. Đặc điểm của sinh viên
Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, là những người đang theo học ở bậc
đại học để chuẩn bị cho hoạt động sản xuất vật chất hay tinh thần của xã hội. Nhóm
xã hội đặc biệt này được đào tạo với nghiệp vụ cao và tham gia tích cực vào các hoạt
động cộng đồng, là nguồn bổ sung đội ngũ trí thức cho xã hội.
Tuổi sinh viên nhìn chung là từ 18 – 25. Đây là thời kỳ của sự trưởng thành xã
hội - bắt đầu có quyền của người công dân, hoàn thiện học vấn để chuẩn bị cho một
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
3
3
Chuyên đề tốt nghiệp
nghề nghiệp chuyên môn nhất định, có quan điểm chính trị, có được nghề ổn định,
bắt đầu lao động, giảm phụ thuộc kinh tế, bước vào hôn nhân…
Sinh viên là những người lớn cả về phương diện sinh học và xã hội. Mặc dù
vẫn còn là đối tượng đang được tiếp tục giáo dục nhưng xã hội nhìn nhận sinh viên
như chủ thể có trách nhiệm của hoạt động sản xuất xã hội và đánh giá các kết quả
hoạt động của họ theo "tiêu chuẩn người lớn".
1.1. Sự phát triển cơ thể
Sự phát triển cơ thể của sinh viên diễn ra ổn định, đồng đều. Trọng lượng não
đạt mức tối đa, khoảng 1400gr và chứa khoảng 14-16 tỷ nơ-ron. Các nơ-ron đã phát
triển hoàn thiện - phát triển các sợi nhánh, sợi trục được myelin hóa hoàn hảo đảm
bảo sự dẫn truyền các luồng thần kinh nhanh chóng, chính xác. Các sợi nhánh đảm
bảo sự liên hệ hết sức rộng khắp, chi tiết và tinh tế.
Các nhà nghiên cứu đã tính được nhiều tế bào thần kinh đến tuổi sinh viên có
thể nhận tin từ 1200 nơ-ron trước và gửi đi 1200 nơ-ron sau. Số lượng các kênh liên
hệ đó làm cho khả năng hoạt động trí tuệ của sinh viên vượt xa học sinh phổ thông
trung học. Ước tính có khoảng 2/3 số kiến thức học được trong cuộc đời được tích

lũy trong thời gian này.
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
4
4
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2. Những thay đổi về tâm lý
1.2.1. Đặc điểm chung của thời kỳ phát triển
Đặc trưng tâm lý quan trọng nhất của tuổi sinh viên là tình trạng chuyển tiếp
giữa cận dưới là sự chín muồi về sinh lý, cận trên là có nghề nghiệp ổn định và bắt
đầu bước vào một phạm vi hoạt động lao động nhất định. Đây cũng là giai đoạn có sự
biến đổi mạnh mẽ về động cơ và thang giá trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp.
Ở sinh viên, sự tự ý thức phát triển mạnh. Họ chú trọng đến việc tự đánh giá
hành động và kết quả tác động của mình, đánh giá về tư tưởng, tình cảm, phong cách
đạo đức, hứng thú, tư tưởng, động cơ hành vi, vị trí của mình trong các mối quan hệ
và trong cuộc sống nói chung. Thông qua tự đánh giá, sinh viên chủ động điều chỉnh
hành vi, hoàn thiện nhân cách, chủ động tổ chức toàn bộ thế giới nội tâm của mình.
1.2.2. Những mâu thuẫn chính phải giải quyết ở tuổi sinh viên
Thế giới nội tâm của sinh viên rất phức tạp và nhiều mâu thuẫn. Có thể nêu ra
4 mâu thuẫn lớn sau đây:
- Mâu thuẫn giữa mơ ước với khả năng, điều kiện và kinh nghiệm để thực hiện mơ ước
đó.
- Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập sâu những môn mình yêu thích với yêu cầu thực
hiện toàn bộ chương trình học tập.
- Mâu thuẫn giữa số lượng thông tin đưa tới người sinh viên và thời gian để hiểu, để
suy ngẫm các thông tin đó.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu học tập và nhu cầu của đời sống giới trẻ.
1.2.3. Những véc-tơ phát triển của sinh viên
Chickering và Reiser (1993) cho rằng sự phát triển xã hội là cuộc hành trình
làm tăng tính phức tạp. Trong quá trình phát triển có những bản đồ (véctơ) "mô tả
những xa lộ chính để đi tới cá tính, tới sự đồng cảm với những cá nhân khác và

những nhóm khác". Sinh viên thực hiện cuộc hành trình theo những tốc độ khác nhau
qua các véctơ, nhưng họ luôn di chuyển từ những mức độ thấp hơn đến mức độ cao
hơn của sự phức tạp trong véctơ đó.
a. Véctơ phát triển năng lực
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
5
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Sinh viên di chuyển từ mức độ thấp hơn đến mức độ cao hơn của năng lực trí
tuệ, thể lực và năng lực quan hệ giữa cá nhân với nhau.
- Năng lực trí tuệ bao gồm khả năng nắm vững nội dung, xây dựng kỹ năng thông
hiểu, phân tích và tổng hợp, và phát triển tính chất tinh tế về trí tuệ và thẩm mỹ.
- Năng lực quan hệ giữa các cá nhân với nhau là biết lắng nghe, trả lời và kết hợp các
mục đích cá nhân với mục đích của nhóm.
b. Véctơ quản lý cảm xúc
- Ý thức về cảm xúc: sinh viên tiến triển từ mức độ thấp hơn đến mức độ cao hơn của:
o Khả năng kiểm soát các cảm xúc gây rối ren (lo lắng, gây gổ, suy sụp...).
o Nhận thức về cảm xúc.
o Khả năng phối hợp cảm xúc với hành động.
- Di chuyển từ độc lập sang tự chủ: sinh viên phải học cách tự lo liệu, nhận trách
nhiệm theo đuổi những mục đích tự lựa chọn. Họ trở nên ít chịu ảnh hưởng của
người khác.
- Phát triển những mối quan hệ chín chắn giữa cá nhân với nhau: sinh viên đi từ mức
độ thấp hơn đến mức độ cao hơn của:
o Khả năng dung thứ giữa cá nhân với nhau và giữa các nền văn hoá.
o Từ có những mối quan hệ tưởng tượng, ngắn hạn hay không lành mạnh sang khả
năng quan hệ gần gũi và cam kết lớn hơn.
- Ổn định cá tính: sinh viên đi từ sự khó chịu đến sự an tâm thoải mái với vẻ ngoài của
mình, với giới, gia đình, nguồn gốc xã hội/văn hoá, các vai trò và lối sống.
- Phát triển mục đích: tạo điều kiện cho sinh viên thực hiện những quan tâm, những

mục đích và kế hoạch đối với thiên hướng, những hứng thú cá nhân và sự sốt sắng
với các mối quan hệ.
c. Phát triển tính toàn vẹn
Các chuẩn mực ứng xử của sinh viên được biến đổi từ nước đôi, cứng nhắc và
tự cho mình là trung tâm trở thành các chuẩn mực:
- Ứng xử có nhân tính (quan tâm đến những sở thích của người khác).
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
6
6
Chuyên đề tốt nghiệp
- Cá nhân hoá (khẳng định những giá trị cốt yếu của mình trong khi vẫn tôn trọng
những người khác).
- Thích hợp (làm cho những chuẩn mực ứng xử của cá nhân mình tương xứng với
những hành vi có trách nhiệm về mặt xã hội).
Như vậy, có thể thấy lứa tuổi sinh viên là giai đoạn chín muồi về sức khoẻ,
rảnh rỗi về thời gian và không chịu nhiều sức ép về tiền bạc. Đây cũng chính là giai
đoạn chuyển tiếp vô cùng quan trọng, là giai đoạn định hình, phát triển và ảnh hưởng
đến toàn bộ cuộc đời của mỗi người. Ở giai đoạn này, sinh viên đã bắt đầu được gia
đình, xã hội trao quyền quyết định về cuộc đời mình. Vì vậy, việc lên kế hoạch cuộc
đời cho chính mình và bắt tay vào thực hiện kế hoạch đó là rất cần thiết với sinh viên.
2. Sự cần thiết của việc lập kế hoạch cuộc đời với sinh viên
Theo như phân tích ở trên, việc lập kế hoạch cuộc đời sẽ mang lại rất nhiều lợi
ích cho sinh viên như : Giúp sinh viên hiểu được những giá trị nội tại của mình, sử dụng
thời gian hiệu quả, vượt qua những khó khăn trở ngại trong cuộc sống …Tuy nhiên
trong phạm vi đề án, xin phân tích tích lợi ích tổng quan ở tầm vĩ mô của việc lập kế
hoạch cuộc đời trên 3 khía cạnh: Tâm lý, Văn hoá – Xã hội và Kinh tế.
2.1. Lợi ích về mặt tâm lý
Mỗi người chỉ có một cuộc đời để làm chủ, đề sống theo đúng niềm đam mê
của mình. Chỉ khi theo đuổi ước mơ và những kế hoạch do chính mình đặt ra, mỗi
người mới có thể sống vui vẻ, mạnh mẽ hơn trong cuộc sống và phát huy hết năng

lực, sự nhiệt tình của mình trong công việc. Tuy nhiên hiện nay, có rất nhiều bạn trẻ
đang sống với kế hoạch và sự sắp xếp của cha mẹ, họ hàng. Điều này khiến cho nhiều
lúc, một số lượng không nhỏ các bạn sinh viên cảm thấy hoang mang hay chán nản
về tương lai của chính mình.
Lướt qua các phương tiện thông tin đại chúng, người lớn có thể giật mình
trước những thống kê về tỉ lệ giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng bị rối loạn tâm
lý trước những áp lực từ bố mẹ, cuộc sống.
Trong lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, áp lực học tập vì kỳ vọng của gia đình
với học sinh THPT vào khoảng 50%; và với sinh viên là hơn 37%. Ngoài ra, những
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
7
7
Chuyên đề tốt nghiệp
khó khăn HS gặp phải khi học tập có đủ dạng: học thiếu động cơ, mục đích
(53,53%); nội dung học quá nặng, thiếu phương pháp học tập có hiệu quả 30,02%;
thời gian học nhiều (30,8%). Bên cạnh đó, theo ông Trần Văn Vũ - Phó trưởng khoa
3 thuộc Bệnh viện Tâm thần T.Ư cho hay: “Mỗi năm, bệnh viện đón nhận gần 4.000
bệnh nhân, trong đó 30% là đối tượng HS, sinh viên.
Có thể thấy, trước những khó khăn và áp lực từ nhiều phía, nhiều sinh viên
không chống đỡ nổi với cạm bẫy, cám dỗ, phát triển tâm lý lệch lạc, rơi vào trầm cảm
hoặc khiến có những phản ứng “phá phách”.
Việc sống không có mục đích, không có định hướng còn để lại hậu quả về mặt
tâm lý cho những “tri thức trẻ” khi rời giảng đường bước vào cuộc sống. Không ít
người khi trở thành một phần của guồng máy chầm chậm tại các công ty nhà nước
hay khi đối mặt với những góc tối của cuộc sống đã cảm thấy chán nản, mệt mỏi…
Cũng có một số lượng không nhỏ sinh viên chọn làm việc tại các doanh nghiệp tư
nhân hay các doanh nghiệp nước ngoài. Ở môi trường này, áp lực về hiệu quả, chất
lượng và tính chuyên nghiệp khiến nhiều người đã dốc hết cả thể chất và tinh thần
vào công việc, để rồi dẫn đến chứng rối loạn tâm thần (RLTT). Biểu hiện của chứng
bệnh RLTT là căng thẳng, lo âu, trầm cảm, thậm chí có người tự hủy hoại sự sống.

Đương nhiên, không phải tất cả sinh viên nếu không lập kế hoạch cuộc đời
đều trở nên như vậy ; và không phải lập kế hoạch cuộc đời sẽ chắc chắn giúp sinh
viên tránh được toàn bộ những khó khăn trở ngại như đã kể ở trên. Tuy nhiên, hoạt
động đó luôn là điều kiện cần, là hành trang không thể thiếu khi ta muốn đi tới đích là
một cuộc sống thành công, khoẻ mạnh và hạnh phúc.
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
8
8
Chuyên đề tốt nghiệp
2.2. Lợi ích về mặt văn hoá - xã hội
Lập kế hoạch cuộc đời giúp sinh viên nâng cao chất lượng cuộc sống của
chính bản thân gia đình và xã hội. Như những thông tin phía trên, việc không có kế
hoạch cuộc đời có thể dẫn đến rối loạn về mặt tâm lý. Kéo theo đó là sự phá huỷ
nguồn lực, chất lượng cuộc sống của cá nhân nói riêng và xã hội nói chung. Nếu có
khoảng 50% sinh viên ý thức sâu sắc về bản thân mình, biết mình học để làm gì,
mình thực sự phù hợp và yêu thích công việc gì thì những người này có thể đóng góp
nhiều hơn cho bản thân, gia đình và xã hội. Từ đó, nâng cao chất lượng cuộc sống
chính bản thân mình, của gia đình và xã hội.
Bên cạnh đó, lập kế hoạch cuộc đời có thể giúp sinh viên chủ động tránh xa
những tệ nạn xã hội. Thời gian rảnh rỗi nhiều lại không có sự quản lý và giám sát của
gia đình, không ít sinh viên đã bị lôi kéo vào những hoạt động xã hội không lành
mạnh. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ GD-ĐT, giai đoạn từ năm 2003-2007, số
SV phạm tội hình sự là 27 SV, bị bắt giữ liên quan đến vụ việc khác là 77 SV, 126
SV bị buộc thôi học và 2.533 SV vi phạm quy chế nhà trường. Những con số này có
xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Để giải thích cho những tình trạng báo
động trên, có một nguyên nhân đã được giới truyền thông đã, đang và có lẽ sẽ còn
nhắc đến nhiều. Đó chính là thói quen không lập kế hoạch trong cuộc sống, bị động,
chưa chủ tâm tìm đến những môi trường sinh hoạt lành mạnh và sử dụng thời gian
một cách hiệu quả của chính sinh viên.
Hơn 30 năm trước, kinh tế Việt Nam vận hành dưới chế độ kế hoạch hóa tập

chung. Trong đó, nhà nước lên kế hoạch phát triển, trực tiếp kiểm soát các nguồn lực xã
hội và giao chỉ tiêu về cho từng địa phương, từng công dân. Thói quen thụ động bắt
nguồn từ đó và ảnh hưởng sâu sắc đến tận bây giờ, bất chấp nền kinh tế Việt Nam đã
vận động theo chế độ kinh tế thị trường với những quy luật vốn có của nó. Thời đại mới
đòi hỏi lối tư duy mới, những con người mới. Lập kế hoạch cuộc sống, chủ động chèo
lái con thuyền cuộc đời giúp sinh viên trở thành người đặt viên gạch đầu tiên trong quá
trình thay đổi tư duy thụ động và thiên về cảm tính của người Việt Nam, viết lên một
trang mới về con người Việt Nam giàu truyền thống văn hóa nhưng lại rất linh hoạt, chủ
động và sáng tạo khi hòa mình vào dòng chảy của thế giới.
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
9
9
Chuyên đề tốt nghiệp
2.3. Lợi ích về mặt kinh tế
Trong cuộc sống, các phương tiện thông tin đại chúng nhắc rất nhiều tới lãng
phí biển, lãng phí rừng, lãng phí đất. Nhưng có một nguồn lực vô hạn chưa được
đánh giá đúng với giá trị vốn có của nó, đó là tiềm năng của con người.
Tiềm năng con người có sức mạnh phi thường. Theo các nhà khoa học, con
người có khả năng đạt được hầu hết những mục tiêu mà mình thiết lập cho bản thân.
Mọi cá nhân đều có khả năng làm được nhiều hơn những gì người đó có thể hình
dung. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không nhận ra và sử dụng hết tiềm năng của
mình. Theo một nghiên cứu của trường Đại học Stanford, một người bình thường chỉ
sử dụng 2% năng lực trí tuệ của mình. Phần còn lại chỉ nằm yên dự trữ để giành thời
gian về sau. Nó cũng giống như việc cha mẹ giành cho con cái một ngân quỹ 100.000
đô-la, nhưng con trẻ chỉ rút ra tiêu 2.000 đô la. Số tiền còn lại vẫn nằm trong tài
khoản và không được sử dụng đến hết cuộc đời.
Không chỉ gây lãng phí cho cá nhân, việc không lập kế hoạch cuộc đời còn
gây ra nhiều lãng phí cho xã hội và đất nước.
Theo khảo sát về việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học do tiến sĩ (TS)
Lê Thi

̣
Thanh Mai va
̀
Trâ
̀
n Văn Đô
̀
ng thư
̣
c hiê
̣
n, hơn 60% sinh viên ra trường
phải đào tạo lại. Đó là một con số lãng phí đáng báo động với một nước còn nghèo
như nước ta.
Đứng trước thực trạng đó, bản thân mỗi sinh viên cần có trách nhiệm với cuộc
đời mình. Sự bùng nổ của các phương tiện thông tin đại chúng giúp giới trẻ có thể
tiến tới gần hơn nền văn mình của nhân loại.
Vậy tại sao mỗi sinh viên không tự giúp mình và góp phần vào sự thay đổi bộ
mặt của đất nước ?
Giá trị thặng dư của xã hội bắt nguồn từ sự cố gắng của mỗi cá nhân. Các quy
luật tự nhiên như luật hấp dẫn, luật nhân quả, luật cho nhận…vẫn luôn hiện hữu trong
xã hội, dẫu cho mọi người có biết tới nó hay không. Với những sinh viên chủ động
lập kế hoạch cuộc đời, họ kiên trì theo đuổi mục tiêu của mình và nhận được những
gì xứng đáng với những thứ họ đã bỏ ra. Đó có thể là những thứ có thể đo đếm được
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
10
10
Chuyên đề tốt nghiệp
như : Mức lương cao, địa vị xã hội, môi trường làm việc chuyên nghiệp… Đó cũng
có thể là những thứ không thể đo đếm được như: nắm bắt tri thức mới, làm việc ở

môi trường chuyên nghiệp, có những bạn bè cùng chung chí hướng… Và điều ngược
ngược lại sẽ đến với những người không chủ động với cuộc đời mình.
Đó là sự tương hợp giữa cuộc sống với các qui luật tự nhiên.
3. Đánh giá của một số người nổi tiếng về tầm quan trọng của hoạt động lập kế
hoạch cuộc đời.
3.1. Cố thạc sĩ phát triển cộng đồng Nguyễn Thị Oanh
Cố thạc sĩ phát triển cộng đồng Nguyễn Thị Oanh - nhà xã hội học quen thuộc
với giới truyền thông đã từng viết về tầm quan trọng của việc lập kế hoạch cuộc đời
như sau: “Kế hoạch cuộc đời, nói nghe thật to lớn nhưng thật ra ai cũng có ước mơ
cho tương lai hay một mục đích để vươn tới. Kế hoạch chính là công cụ để đạt tới ước
mơ đó. Thường người ta bắt đầu ước mơ từ lúc nào? Ngay từ nhỏ ta ước mơ theo đuổi
một công việc nào đó như muốn trở thành bác sĩ, kỹ sư, và ngày nay ta còn muốn trở
thành nhà khoa học hay nhà phi hành vũ trụ... Có người muốn trở thành một chính trị
gia, một nhà hoạt động xã hội phục vụ người nghèo... Người ta nghĩ đến những nghề
nghiệp cụ thể hay có những ước mơ bay bổng. Dù còn “mơ mơ màng màng”, ước mơ
là sức hút làm cho cá nhân vươn tới, là lực đẩy để ta tiến xa’’
Không ít bạn trẻ có những ước mơ cao đẹp như cải tạo xã hội, phục vụ nhân
loại, sống lý tưởng... Ước mơ hay lý tưởng ấy nếu được gia đình và xã hội góp phần
hun đúc sẽ như chiếc la bàn để định hướng cá nhân trong cơn sóng gió của cuộc đời.
Chiếc thuyền có thể trôi giạt trên sóng biển nhưng chiếc la bàn sẽ luôn giúp những
bạn trẻ ấy hướng về lý tưởng ban đầu. Để hướng tới ước mơ, mỗi cá nhân phải định
cho mình một mục đích cụ thể. Ví dụ: muốn giúp người, bản thân mình phải trở
thành một bác sĩ, một nhà tham vấn tâm lý, một chính trị gia...
Nhưng mục đích đã nêu trên phải được chia ra thành những mục tiêu nhỏ hơn
nữa và được thực hiện theo từng giai đoạn trong thời gian. Kế hoạch chính là tấm bản
đồ vẽ ra những đoạn đường đi cụ thể để đạt tới đích. Có người đi tới đích bằng xa lộ
thẳng tắp. Ví dụ như được cha mẹ có đủ điều kiện cho ăn học đến nơi đến chốn.
Nhưng đa số các bạn trẻ phải chọn những con đường ngoằn ngoèo, ví dụ như phải
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
11

11
Chuyên đề tốt nghiệp
vừa học vừa làm, phải nghỉ vài năm giữa hai thời kỳ học để tích lũy tiền đóng học
phí. Những đoạn đường nhỏ này cũng phải được vẽ trên bản đồ để mỗi người có thể
dự trù, tính toán hầu không bị động trong kế hoạch.
Các nhà khoa học nói có kế hoạch là đã đi được 2/3 đoạn đường. Nếu không
có sẵn bản đồ, mỗi cá nhân sẽ mất nhiều công sức và thời gian để mò mẫm.
3.2. TS Nguyễn Sỹ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
TS Nguyễn Sỹ Dũng cũng đã chia sẻ ý kiến về lập kế hoạch cuộc đời trên báo
Vietnamnet như sau:
‘‘Trong cuộc sống mình phải có "đích" hướng đến ; và muốn đi tới đích thì
phải lên kế hoạch. Thực tế, các bạn trẻ thường có hào hứng rất chung chung: "Muốn
thành đạt, muốn cống hiến, muốn làm nhiều điều có ích..." Những ham muốn như vậy
đặt nền tảng cho định hướng giá trị tốt. Nhưng định hướng hành động không thực vì
nó không rõ những mục đích vươn tới. Chẳng hạn: muốn phục vụ dân tốt hơn thì phải
chọn những nghề phục vụ dân nhiều hơn...Nghĩa là định hướng hành động phải cụ thể
hóa hơn một bước nữa thì người Việt không có nhiều’’
Việc lập kế hoạch rất cần thiết. Vì, nếu có kế hoạch thì sẽ làm chủ được cuộc
đời, còn không thì "may nhờ, rủi chịu", cũng có khi thành đạt. Bên cạnh đó, việc lập
kế hoạch còn có rất nhiều lợi ích như: Chọn được đúng thời gian cho đúng việc nên
giảm chi phí về thời gian và chi phí khác; có thời gian đánh giá kế hoạch và đánh giá
khả năng của mình để điều chỉnh; đồng thời, thấy được các công cụ để đạt mục tiêu
đề ra.
Trong cuộc sống không loại trừ tính "ăn may". Cũng có khi "Người lập kế
hoạch 10 năm phấn đấu không bằng người được cơ cấu 1 giờ". Nhưng số người được
"cơ cấu" chỉ đếm trên đầu ngón tay. Đa số mọi người là phải xác lập được mục tiêu
cá nhân...
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
12
12

Chuyên đề tốt nghiệp
3.3. Nguyễn Mạnh Hùng. Chủ tịch HĐQT kiêm GĐ Thái Hà Books
Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐQT kiêm GĐ Thái Hà Books nhận
định: Hiện nay, đa phần sinh viên Việt Nam không có thói quen lập kế hoạch cuộc
đời. Nguyên nhân thì có rất nhiều như: không được dạy về lập kế hoạch cuộc đời,
không có ý thức, mải chơi, không có tầm nhìn, thích lý thuyết mà không lưu tâm đến
ứng dụng vào công việc và cuộc sống…
Tuy nhiên, việc sinh viên lập kế hoạch cuộc đời là hết sức cần thiết. Bởi kế
hoạch cuộc đời giúp sinh viên có tầm nhìn xa, biết mình đi về đâu, kiểm soát được
cuộc đời mình. Có kế hoạch sẽ biết rõ từng giai đoạn của cuộc đời, vững vàng trong
cuộc sống.
Cũng có một số sinh viên thành công nhưng không lập kế hoạch. Nhưng,
thành công bền vững khó có thể có ở những người không có kế hoạch cuộc đời.
3.4. Harry Nguyễn - Project Manager của FPT
Chia sẻ với giới truyền thông, Harry Nguyễn đưa ra quan điểm của mình về
lập kế hoạch cuộc đời như sau :
‘‘Theo tôi, lập chiến lược cho cuộc đời là một việc cần và buộc phải làm, đặc
biệt đối với lớp trẻ. Bởi vì sống có mục đích sẽ giúp chúng ta không bị trật "đường
ray" trong lúc vận chuyển trên đường đời. Tôi nghĩ rằng ai không có tham vọng
trong công việc mình đang làm thì không nên làm công việc đó nữa. Có tham vọng sẽ
làm hết mình và đi đến tận cùng trong công việc - có thế mới vỡ ra được nhiều bài
học quý giá trong công việc chứ - bạn nhỉ? Trước đây, tôi không làm plan cho cuộc
đời gì cả - sống rất thoải mái - nhưng bây giờ khi trưởng thành thêm - đi nhiều biết nhiều
tôi thấy một cuộc đời bắt buộc phải có một kế hoạch. Các nước tiên tiến các em bé đã biết
lập rõ ràng kế hoạch từ cấp 1, cấp 2 rồi. Có kế hoạch thì chúng ta sẽ biết mình ở đâu
trong 5 năm nữa, 10 năm tới và không bị mù mờ về ngày mai của mình’’
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
13
13
Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG II: CÁC QUAN ĐIỂM VÀ MÔ HÌNH VỀ VIỆC LẬP KẾ
HOẠCH CUỘC ĐỜI
I. GIỚI THIỆU VỀ QUAN ĐIỂM VÀ MÔ HÌNH LIÊN QUAN TỚI LẬP KẾ
HOẠCH CUỘC ĐỜI TRÊN THẾ GIỚI
Đi theo bốn câu hỏi của qui trình lập kế hoạch, tôi tìm tới công trình nghiên
cứu của một số chuyên gia về thay đổi bản thân trên thế giới. Cụ thể như sau :
Nghiên cứu về giá trị của con người và cách xác định mình đang ở đâu của
Mike George; Carl Gustav Jung và công ty House, Cardiff, Vương quốc Anh. Những
nghiên cứu này là căn cứ quan trọng để mỗi cá nhân hiểu rõ về giá trị của bản thân. Từ
đó, xác định được điểm xuất phát trong hành trình lập kế hoạch cuộc đời.
Nghiên cứu về xác định tiềm năng cá nhân, cách đặt, đạt được mục tiêu và các
quy luật chi phối quá trình chinh phục mục tiêu của Brian Tracy. Thông qua kết quả
nghiên cứu trên, người muốn lập kế hoạch có thể thiết lập mục tiêu một cách phù hợp
và đưa ra một chương trình hành động khả thi nhằm hướng tới mục tiêu đã đặt ra.
Nghiên cứu về các thói quen và cách đặt trọng tâm cuộc sống để lên kế hoạch
hành động và biết mình đang đi đúng hướng của Sean Covey. Theo Sean Covey,
nguyên tắc sống chính là căn cứ để mỗi cá nhân nhìn lại và điều chỉnh quá trình triển
khai kế hoạch cuộc đời của mình.
1. Mike George – Giá trị nội tại của mỗi người
1.1. Giới thiệu
Mike George là một diễn giả người Anh nổi tiếng. Hiện nay, ông sống tại
London (Anh) và là người phụ trách quản lý biên tập tạp chí Heart & Soul.
Trong 20 năm qua, Mike George đã tới hơn 30 quốc gia để dạy về nghệ thuật
thiền định, giúp đỡ nhiều người trong lĩnh vực phát triển tinh thần. Ông là tác giả của
8 cuốn sách bán chạy nhất được dịch ra 15 ngôn ngữ khác nhau, chủ yếu tập trung về
khả năng nhận thức bản thân.
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
14
14
Chuyên đề tốt nghiệp

1.2. Quan điểm của Mike George – Giá trị nội tại của mỗi người
Theo Mike George, con người rất dễ bị ấn tượng bởi người khác. Đó có thể là
ấn tượng bởi tài sản, học vị, tài năng, hình thức…Dễ bị gây ấn tượng thực chất không
phải là xấu, nhưng nó có thể là điều bất lợi, bởi nó làm cho mỗi người có xu hướng bị
mắc bẫy trong cái vỏ bọc của cuộc sống, dính mắc vào hình thức.
Tất cả mọi người sinh ra đều hoàn hảo. Mỗi người là một thực thể sống độc
đáo có cuộc đời riêng, đa dạng về tính cách và khác nhau trong lối suy nghĩ. Tuy
nhiên, xuất phát từ thói quen đã được học từ nhỏ, con người thường hay so sánh bản
thân với người khác mà quên đi rằng không ai có thể “là” người khác, trông giống
như người khác hoặc hành động tương tự theo kiểu của người khác. Mọi ý định bắt
chước luôn đưa đến thất bại thảm hại, nhất là việc một cá nhân chỉ cảm thấy tốt về
bản thân khi được là bản sao của ai đó.
Quý trọng bản thân là nền tảng cho sự tự tin và tạo động lực cho sự tiến bộ
của bản thân. Đó là cách mỗi người cảm nhận về chính mình qua mỗi giây phút.
Tuy nhiên, đa số mọi người đã quen với việc tạo dựng lòng tự trọng dựa trên
những nền tảng sai lạc, những điều thuộc về bên ngoài như: Chức quyền, địa vị, của
cải, thu nhập, lời tán dương, ca ngợi nhận được từ người khác…thay vì xuất phát từ
những phẩm chất tốt đẹp sẵn có trong lòng.
Thói quen so sánh và sao chép một cách thiếu cân nhắc, vô ích này là kẻ thù
lớn nhất của sự quý trọng bản thân. Nó cản trở mong muốn tìm hiểu bản thân, kìm
giữ mỗi cá nhân trong thế giới xô bồ, bất an, đầy cạm bẫy. Thậm chí, nó không cho
mỗi người sự sáng suốt nhận ra vẻ đẹp thật sự mình đang tìm kiếm, vẻ đẹp không
nhìn thấy được bằng mắt thường mà với con mắt nội tâm. Vì vậy, bước đầu tiên và
quan trọng nhất là từ bỏ thói quen so sánh, và ý muốn được là người khác.
2. Carl Gustav Jung (1876-1961) – Cách xác định tính cách của mình
2.1. Giới thiệu
Gustav Jung (1876-1961) sinh ra trong một gia đình mục sư gốc Đức, đến lập
nghiệp ở Thụy Sĩ gần hồ Constance. Từ rất sớm ông đã say mê khảo cổ học và cổ
sinh học. Nhưng rồi ông theo học ngành y ở đại học Bále (1895-1900). Sau một thời
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B

15
15
Chuyên đề tốt nghiệp
gian thực tập, ông trình bày luận văn tiến sĩ y khoa năm 1902: “Góp phần nghiên cứu
về tâm lí học và bệnh học đổi với những hiện tượng gọi là huyền bí”.
Năm 1920, ông đưa ra công trình nghiên cứu về “các kiểu tâm lý”, là nền tảng
để Katharine Cook Briggs và con gái của bà Isabel Briggs Mayers đưa ra công cụ
MBTI (Mayers-Briggs Type Indicator) – một công cụ kiểm tra tính cách cá nhân.
2.2. Ph ng ki m tra tính cách MBTI – Cách xác đ nh tính cáchươ ể ị
c a mìnhủ
Phương pháp này dựa trên nguyên lý của Jung cho rằng có thể phân loại tính
cách con người dựa trên 3 tiêu chí: hướng nội/hướng ngoại; trực giác/giác quan; lý
trí/tình cảm. Trong hệ thống phân loại của Jung, không có nhóm nào tốt, nhóm nào
xấu, nhưng Jung nhận xét rằng: cùng một sự vật hiện tượng sẽ gây ra những suy nghĩ,
cảm xúc, phản ứng khác nhau cho những người khác nhau. Ba yếu tố cơ bản ảnh
hưởng đến suy nghĩ, cảm xúc và phản ứng của một con người là: xu hướng tự nhiên
của người đó - hướng nội/hướng ngoại; cách thức mà người đó tìm hiểu và nhận thức
thế giới bên ngoài - trực giác/giác quan; và cách thức mà người đó quyết định, đưa ra
lựa chọn: lý trí/tình cảm. Sau này, Briggs/Myer bổ sung tiêu chí thứ 4: nguyên
tắc/linh hoạt. Từ 4 tiêu chí này, Briggs/Myer đưa ra 2^4 = 16 nhóm tính cách. Tên
của mỗi nhóm đều có 4 chữ cái, đại diện cho 4 tiêu chuẩn phân loại.
Bảng 2.1: Các nhóm tính cách theo phương pháp MBTI
Tiêu chí 1 - Xu hướng tự nhiên
Extraverted (Hướng ngoại)/Introverted (Hướng nội)
Mỗi người đều có 2 biểu hiện: Hướng ngoại - hướng về thế giới bên ngoài gồm các
hoạt động, con người, đồ vật... Hướng nội - hướng vào nội tâm, bao gồm ý nghĩ, tư
tưởng, trí tưởng tượng. Đây là 2 mặt đối lập nhưng bổ sung lẫn nhau. Tuy nhiên,
một mặt sẽ chiếm ưu thế trong việc phát triển tính cách và ảnh hưởng đển cách ứng
xử.
Các đặc điểm của nhóm Extraverted

- Hành động trước hết, suy nghĩ và cân
nhắc sau.
Các đặc điểm của nhóm Introverted
- Suy nghĩ và cân nhắc kỹ lưỡng trước
khi hành động.
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
16
16
Chuyên đề tốt nghiệp
- Cảm thấy khổ sở nếu bị cách ly với
thế giới bên ngoài.
- Hứng thú với con người, sự việc xung
quanh.
- Quảng giao, thích tiếp xúc với nhiều
người.
- Nếu đây là các đặc điểm của một
người thì chữ cái đầu tiên trong
MBTI của người đó là E.
- Cần có một khoảng thời gian riêng tư
đáng kể để nạp năng lượng.
- Hứng thú với đời sống nội tâm, đôi
khi tự cô lập với thế giới bên ngoài.
- Thích nói chuyện tay đôi.
- Nếu đây là các đặc điểm của một
người thì chữ cái đầu tiên trong
MBTI của người đó là I.
Tiêu chí 2 - Cách tìm hiểu và nhận thức thế giới:
Sensation (Giác quan)/Intuition (Trực giác)
Trung tâm "Giác quan" trong não bộ chú ý đến các chi tiết liên quan đến hình ảnh,
âm thanh, mùi vị... của hiện tại được đưa đến từ các giác quan của cơ thể. Nó phân

loại, sắp xếp và ghi nhận những chi tiết của các sự kiện thực tế đang diễn ra. Nó
cũng cung cấp các thông tin chi tiết của các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Trung
tâm "Trực giác" của não bộ chịu trách nhiệm tìm hiểu, diễn dịch, và hình thành các
mô hình từ thông tin thu thập được; sắp xếp các mô hình và liên hệ chúng với nhau.
Nó giúp cho não bộ suy đoán các khả năng và tiên đoán tương lai.
Mặc dù cả hai cách nhận thức đều cần thiết và được mọi người sử dụng, nhưng mỗi
người có xu hướng thích cách này hơn cách kia.
Các đặc điểm của nhóm Sensation:
- Sống với hiện tại.
- Thích các giải pháp đơn giản và thực
tế.
- Có trí nhớ tốt về các chi tiết của
những sự kiện trong quá khứ.
- Giỏi áp dụng kinh nghiệm.
- Thích các thông tin rõ ràng, chắc
chắn; không thích phỏng đoán hoặc
Các đặc điểm của nhóm Intuition:
- Hay nghĩ đến tương lai.
- Sử dụng trí tưởng tượng, hay sáng tạo
ra những khả năng mới.
- Thường chỉ nhớ đến ý chính và các
mối liên hệ.
- Giỏi vận dụng lý thuyết.
- Thoải mái với sự nhập nhằng, hay
thông tin không rõ ràng.
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
17
17
Chuyên đề tốt nghiệp
những sự việc không rõ ràng.

- Nếu đây là các đặc điểm của một
người thì chữ cái thứ 2 trong MBTI
của người đó là S.
- Nếu đây là các đặc điểm của một
người thì chữ cái thứ 2 trong MBTI
của người đó là N.
Tiêu chí 3 - Cách quyết định và lựa chọn:
Thinking (Lý trí)/Feeling (Tình cảm)
Phía "Lý trí" trong não bộ con người phân tích thông tin một cách khách quan, làm
việc dựa trên đúng/sai, suy luận và đưa ra kết luận một cách có hệ thống. Nó là bản
chất logic của con người. Phía cảm giác của não bộ đưa ra quyết định dựa trên xem
xét tổng thể; yêu/ghét; tác động qua lại lẫn nhau; và các giá trị nhân đạo hay thẩm
mỹ. Đó là bản chất chủ quan của con người. Mọi người đều dùng cả 2 cách để đưa
ra các quyết định, nhưng một cách tự nhiên mỗi người đều thiên về hoặc là lý trí,
hoặc là tình cảm khi đưa ra quyết định của mình
Các đặc điểm của nhóm Thinking:
- Luôn tìm kiếm sự kiện và logic để
đưa ra kết luận.
- Chú ý đến các nhiệm vụ, công việc
cần phải hoàn thành một cách tự
nhiên.
- Đưa ra các phân tích phê phán và có
mục đích một cách dễ dàng.
- Chấp nhận xung đột là một phần tự
nhiên trong mối quan hệ giữa người
với người.
- Nếu đây là các đặc điểm của một
người thì chữ cái thứ 3 trong MBTI
của người đó là T.
Các đặc điểm của nhóm Feeling:

- Xem xét cảm giác cá nhân và ảnh
hưởng đến người khác trước khi đưa
ra quyết định.
- Một cách tự nhiên, dễ xúc động trước
nhu cầu hay phản ứng của người
khác.
- Tìm kiếm sự nhất trí hay ý kiến của
đa số.
- Khó xử khi có xung đột.
- Nếu đây là các đặc điểm của một
người thì chữ cái thứ 3 trong MBTI
của người đó là F.
Tiêu chí 4 - Cách thức hành động:
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
18
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Judging (Nguyên tắc)/Perceiving (Linh hoạt)
Tiêu chuẩn 4 liên quan đến cách thức mà mỗi người lựa chọn để tác động tới thế
giới bên ngoài. Phong cách Judging tiếp cận thế giới một cách có kế hoạch, có tổ
chức, có chuẩn bị, quyết định và đạt đến một kết cục rõ ràng. Phong cách
Perceiving tiếp cận thế giới một cách tự nhiên, tìm cách thích nghi với hoàn cảnh,
thích một kết cục bỏ ngỏ, chấp nhận những cơ hội mới, và chấp nhận thay đổi kế
hoạch.
Các đặc điểm của nhóm Judging:
- Có kế hoạch chu đáo trước khi hành
động.
- Tập trung vào các hoạt động có tính
nhiệm vụ; hoàn tất các công đoạn
quan trọng trước khi tiếp tục.

- Làm việc tốt nhất và không bị stress
khi vượt trước thời hạn.
- Tự đặt ra mục tiêu, thời hạn, và các
thủ tục để quản lý cuộc sống.
- Nếu đây là các đặc điểm của một
người thì chữ cái thứ 4 trong MBTI
của người đó là J.
Các đặc điểm của nhóm Perceiving:
- Có thể hành động mà không cần lập kế
hoạch; lập kế hoạch tùy theo tình hình.
- Thích làm nhiều việc cùng lúc, không
phân biệt giữa công việc và trò chơi.
- Chịu sức ép tốt, vẫn làm việc tốt khi
sắp hết thời hạn.
- Tìm cách tránh né cam kết nếu nó ảnh
hưởng đến sự linh động, tự do và
phong phú.
- Nếu đây là các đặc điểm của một
người thì chữ cái thứ 4 trong MBTI
của người đó là P.
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của Jung Myers-Briggs
3. Công ty House, Cardiff, Vương quốc Anh - Wheel of Life
3.1. Giới thiệu công cụ Wheel of Life
Công ty House là đơn vị đăng kí bản quyền công cụ Wheel of Life – Bánh xe
cuộc sống. Đây là công cụ cung cấp cho con người hình ảnh đại diện sinh động về
các sống hiện tại của mình. Sử dụng công cụ Wheel of Life , mỗi người có thể xem
xét từng lĩnh vực trong cuộc sống, đánh giá xem mình đang ở đâu, sẽ cần làm những
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
19
19

Chuyên đề tốt nghiệp
gì tiếp theo để có thể cân bằng cuộc sống. Công cụ này cũng giúp các cá nhân biết
được lĩnh vực cần được quan tâm và đầu tư công sức cũng như tâm sức nhiều hơn.
3.2. Nội dung công cụ Wheel of Life
Hình 2.1: Bánh xe cuộc sống
Trên đây là hình ảnh của bánh xe cuộc sống. 10 khía cạnh cần đánh giá trong
cuộc sống lần lượt là đóng góp xã hội, tình cảm, sức khỏe, tri thức, sự nghiệp, tiền
bạc, gia đình, mối quan hệ, niềm đam mê, tâm linh. Trên vòng tròn có các thang độ từ
1 đến 10. Mỗi thang chia độ lớn của một tiêu chí mà người sử dụng cảm thấy quan
trọng với bản thân trong một thời điểm. Những đánh giá này mang tính chất chủ
quan, do mỗi cá nhân tự nhận xét về bản thân mình và cho điểm.
Sau khi cho điểm tất cả các lĩnh vực, người sử dụng sẽ thu lại được hình ảnh
bánh xe cuộc sống có hình dạng tương tự như sau:
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
20
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Hình 2.2: Kết quả khảo sát của bánh xe cuộc sống
Thông qua hình ảnh trên, mỗi cá nhân có thể biết ta đang ở mức độ nào, còn
thiếu những gì, thiếu bao nhiêu…Đây là cách nhìn một cách tổng quát và khách quan
về bản thân mỗi người.
Ngoài ra, công cụ Wheel cũng có thể đánh giá từng phần nhỏ trong cuộc sống
của mỗi người thông qua chi tiết như hình ảnh dưới đây.
Hình 2.3: Ví dụ về bánh xe đánh giá một lĩnh vực
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
21
21
Chuyên đề tốt nghiệp
4. Brian Tracy
4.1. Giới thiệu

Brian Tracy là một nhà hùng biện, diễn thuyết, tư vấn chuyên nghiệp và là
Chủ tịch Tập đoàn quản lý nguồn nhân lực Brian Tracy International có trụ sở tại
Solana Beach, San Diego. Không chỉ vậy, Brian Tracy còn là nhà tư vấn và giảng
viên cho hơn 500 tập đoàn trên thế giới. Mỗi năm, ông tổ chức thuyết trình khoảng
hơn 100 lần cho hơn 300 ngàn thính giả đồng thời tham gia hoạt động kinh doanh tại
17 nước.
4.2. Mô hình và quan điểm của Brian Tracy
Brian Tracy đưa ra quan điểm trong vũ trụ có hai loại luật: Luật do con người
tạo ra và luật tự nhiên. Các qui luật tự nhiên lại được chia làm hai loại: Vật chất và
tinh thần. Các hoạt động của luật vật chất như điều khiển điện hoặc cơ có thể được
chứng minh bằng thí nghiệm và thực hành. Nhưng luật tinh thần, chỉ có thể được
chứng minh bằng trải nghiệm, trực giác hoặc bằng cách chứng kiến chúng hoạt động
trong cuộc sống của chính mỗi người
Bên cạnh đó, ông chỉ ra các đặc điểm quan trọng của luật tinh thần như: Luật
tinh thần cũng giống luật vật chất ở chỗ chúng luôn có hiệu lực. Các luật tinh thần
này luôn hoạt động ở mọi thời điểm, mặc dù con người không dễ thấy được ảnh
hưởng vật chất của chúng. Khi nào cuộc sống của mỗi người diễn ra suôn sẻ có nghĩa
là suy nghĩ và hoạt động đang hài hòa với các luật tinh thần vô hình này. Còn khi nào
vi phạm một trong số các quy luật này thì dù có biết chúng hay không, mỗi cá nhân
cũng sẽ gặp vấn đề.
Dưới đây là một số mô hình và quan điểm của Brian Tracy liên quan đến lập
kế hoạc cuộc đời
4.2.1. Định nghĩa tiềm năng cá nhân
Theo Brian Tracy, tiềm năng của con người được thể hiện trong phương
trình :
[ IA + AA ] x A = IHP
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
22
22
Chuyên đề tốt nghiệp

Trong đó:
- IA: Inborn attributes - Các thuộc tính bẩm sinh: Là những gì mỗi người có ngay khi
mới khi sinh. Đó là tính khí và khả năng trí tuệ tổng thể.
- AA: Acquired Attributes – Các thuộc tính thu được: Là những kiến thức, kỹ năng,
năng lực, kinh nghiệm và khả năng mà mỗi cá nhân thu được và phát triển cho đến
khi chúng ta trưởng thành.
- A: Attitude – Là năng lượng tinh thần mà mỗi người mang lại để kết hợp giữa các
thuộc tính bẩm sinh và thuộc tính thu được
- IPP: Individual Human Performance – Sự biểu hiện cá nhân con người.
Theo Brian Tracy, thuộc tính bẩm sinh thuộc về yếu tố di truyền và được cố
định ngay từ khi mới sinh ra. Con người không thể làm gì nhiều để thay đổi chúng.
Những thuộc tính thu được có thể cải thiện, thay đổi và phát triển theo thời gian
thông qua học tập, thực hành. Nhưng quá trình này diễn ra rất chậm, đòi hỏi phải kiên
trì và nỗ lực cao.
Theo ông, quân bài tự do duy nhất có thể thay thế cho các quân bài khác trong
phương trình trên là thái độ. Thái độ là các mỗi người tiếp cận với cuộc sống, là nhịp
tinh thần chung và là sự thể hiện các suy nghĩ và cảm xúc của mình ra bên ngoài.
Thái độ được quyết định bằng sự kì vọng. Sự kỳ vọng lại được quyết định bởi đức tin
về bản thân và về thế giới mình đang sống. Và đức tin được hình thành từ quá trình
tự nhận thức.
Có ba điều kiện để thay đổi sự tự nhận thức mới.
- Một là mỗi người phải thực sự muốn thay đổi, khao khát trở nên tích cực với con
người và năng lực của chính mình. Không ai có thể đặt mục tiêu hay chỉ cho người
khác biết phải làm gì. Vì điểm khởi đầu cùa sự thay đổi, của sự làm được gì đó khác
đi hay tốt hơn là sự khao khát – và nó luôn mang tính cá nhân.
- Hai là phải sẵn sàng để thay đổi. Có nhiều người nói muốn thay đổi, nhưng trong
thâm tâm người đó không thực sự sẵn sàng từ bỏ lối sống cũ, mối liên hệ cũ cùng
mọi thứ khác. Họ không vượt qua được hai trở ngại lớn, đó là sự điều bình, chứng xơ
cứng tâm lý của vùng thoải mái và của những suy nghĩ cứng nhắc. Nếu không sẵn
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B

23
23
Chuyên đề tốt nghiệp
sàng từ bỏ con người cũ để trở thành con người mới, không sẵn sàng để chấm dứt
làm một số công việc nhất định thì không thể bắt đầu trở thành một con người mới
tốt hơn.
- Ba là phải sẵn sàng cố gắng. Mỗi cá nhân đã mất nhiều năm trở thành con người hiện
nay và những gì mỗi người đang hướng tới là sự đổi mới lâu dài, cơ bản trong cuộc
sống. Vì vậy, cần phải kiên trì trong một thời gian không hề ngắn mới có thể giải
phóng những khả năng tiềm ẩn của mình.
4.2.2. Bẩy qui luật chi phối tinh thần
a. Luật kiểm soát.
Luật kiểm soát phát biểu rằng, con người cảm thấy tích cực với bản thân đến
mức kiểm soát được cuộc sống của chính mình. Ngược lại, mỗi cá nhân cảm thấy tiêu
cực với bản thân đến mức không thể kiểm soát hay bị kiểm soát bởi một thế lực bên
ngoài, bởi một người hay một tác động nào đó. Luật hay nguyên tắc này được thừa
nhận rộng rãi trong môn tâm lý học. Nó còn được gọi là lý thuyết ‘‘Nhân kiểm soát”.
Người ta thống nhất rằng hầu hết mọi căng thẳng, lo lắng và căn bệnh thần kinh xảy
ra là kết quả của việc cảm thấy mình ở ngoài tầm kiểm soát hoặc không thể kiểm soát
một số mặt trong cuộc sống của mình.
Brian Tracy cho rằng, tính kỷ luật tự giác, tự chủ và bình tĩnh đều bắt đầu với
việc mỗi người kiểm soát được suy nghĩ của mình. Để con người có thể kiểm soát
cuộc sống thì cần bắt đầu với việc học cách kiểm soát suy nghĩ của chính mình. Vì
việc nghĩ như thế nào là một tình huống sẽ quyết định cách người đó cảm nhận, và
cách cảm nhận sẽ quyết định cách cư xử của mỗi người.
b. Luật nhân quả.
Luật nhân quả phát biểu rằng, kết quả trong cuộc sống của mỗi người đều có
một nguyên nhân. Theo luật này, không có sự ngẫu nhiên nào mà mọi thứ diễn ra đều
có lí do. Và cái hay của quy luật bất biến này ở chỗ, bằng cách chấp nhận nó, con
người có thể kiểm soát được toàn bộ suy nghĩ, cảm giác và kết quả của mình. Bằng

cách áp dụng luật nhân quả, con người sẽ hài hòa được với luật kiểm soát, cảm thấy
tích cực hơn về bản thân và thấy mình hạnh phúc hơn.
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
24
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo luật nhân quả, có nguyên nhân cụ thể của thành công và có nguyên nhân
cụ thể cho những thất bại. Có nguyên nhân cụ thể cho sức khỏe hay đau ốm. Có
nguyên nhân cụ thể cho hạnh phúc và nỗi buồn. Và nếu con người muốn có được
nhiều kết quả như mình mong muốn thì mỗi cá nhân cần phải tìm bằng được nguyên
nhân của nó và lặp lại chúng. Ngược lại, nếu có một kết quả nào không thích, mỗi
người cần phải tìm được nguyên nhân và loại bỏ chúng. Ông cho rằng, mọi thứ mà
con người đang và sẽ trở thành là kết quả của cách người đó suy nghĩ. Nếu thay đổi
chất lượng suy nghĩ thì chất lượng cuộc sống của sẽ thay đổi.
c. Luật lòng tin
Luật lòng tin phát biểu rằng, bất cứ điều gì mà mỗi người tin tưởng chân thành
sẽ trở thành hiện thực. Càng có niềm tin mãnh liệt thì điều đó càng dễ trở thành hiện
thực. Thật sự tin tưởng vào một điều gì đó nghĩa là không thể tưởng tượng được nó
sẽ trở thành một cái gì đó khác.
Ông cho rằng, nhìn chung mọi người có một trong hai thế giới quan. Một là
thế giới quan tích cực. Nếu ai có quan điểm thế giới nhân đạo nói chung, người đó có
xu hướng quan sát những điều tốt đẹp trong mỗi người, mỗi hoàn cảnh và tin tưởng
rằng có rất nhiều cơ hội xung quanh bạn và ngược lại.
d. Luật mong đợi
Luật mong đợi phát biểu rằng bất cứ điều gì mỗi người hy vọng với một niềm
tin chắc chắn sẽ trở thành lời tiên đoán cho sự hoàn thiện bản thân. Sự mong đợi của
các cá nhân có ảnh hưởng mạnh mẽ, vô hình khiến con người cư xử và tạo ra các tình
huống như mình đã dự đoán trước.
Những người thành đạt đều tự tin, hy vọng và chủ động. Họ mong muốn được
thành công, được mọi người yêu quí, được hạnh phúc và hiếm khi bọ bị tthất vọng.

Những người không thành công thường có thái độ tiêu cực, chỉ trích, bi quan
và bằng cách này hay cách khác, thái độ này sẽ dẫn đến những tình huống chấm dứt
ngay những gì mà họ mong muốn.
Vương Thị Thùy Dung Lớp: Kế Hoạch 48B
25
25

×