Tải bản đầy đủ (.docx) (130 trang)

Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường trung học cơ sở trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.58 KB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN TRƢỜNG NGUYÊN

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở CÁC TRƢỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC CHUYÊN NGÀNH:
QUẢN LÝ GIÁO DỤC Mã số:601405

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS . Đinh Thị Kim Thoa

HÀ NỘI – 2013

1


LỜI CẢM ƠN
Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Hội
đồng khoa học, các thầy cô giáo, các cán bộ quản lý của Trường Đại học Giáo
dục- Đại học Quốc gia Hà nội cùng với sự nỗ lực học hỏi nghiên cứu khoa
học của bản thân trong thời gian học tập tại trường.
Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đinh Thị
Kim Thoa – người đã tận tâm chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong
suốt thời gian nghiên cứu và thực hiện nhiệm vụ của đề tài.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn UBND Quận Lê Chân – Thành phố
Hải Phòng, Phòng giáo dục và đào tạo, BGH,GVCN của 10 trường THCS
trên địa bàn Quận Lê Chân đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình điều
tra, khảo sát, thu thập dữ liệu và khảo nghiệm phục vụ cho vấn đề nghiên cứu


của đề tài.
Cuối cùng, tác giả cũng xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
luôn quan tâm giúp đỡ, cổ vũ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác
giả hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn chắc chắn khó tránh khỏi
những tồn tại và thiếu sót. Tác giả kính mong nhận được sự quan tâm, chỉ dẫn
và đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các thầy cô và đồng nghiệp để kết
quả nghiên cứu hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả luận văn

Nguyễn Trƣờng Nguyên

2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU , CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

CBQL
CNH – HĐH
CSVC
Đảng CSVN
GD& ĐT
GDNGLL
GV
GVCN
HS

HĐGDNGLL
KNS
QLGD
XHCN
XHH
THCS
THPT

3


DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Bảng 2.1. Qui mô phát triển trường lớp của quận Lê Chân từ năm 2010 –
2013
Bảng 2.2. Kết quả khảo sát nhận thức của giáo viên và học sinh cấp
THCS về kỹ năng sống
Bảng 2.3. Sự tiếp nhận thông tin liên quan đến KNS của học sinh THCS
Bảng 2.4. Ý kiến của GV hình thức giáo dục đã được sử dụng để giáo dục
KNS cho học sinh
Bảng 2.5. Mức độ thực hiện hoạt động giáo dục KNS cho học sinh hiện
nay
Bảng 2.6. Cơ sở vận dụng các biện pháp giáo dục KNS cho học sinh
Bảng 2.7. Mức độ sử dụng các biện pháp giáo dục KNS cho học sinh
Bảng 2.8. Ý kiến của CBQL,GV, cán bộ đoàn đội về thực trạng quản lý
việc lập kế hoạch thực hiện giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường.
Bảng 2.9. Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý việc thực hiện kế hoạch
giáo dục KNS ở các trường THCS trên địa bàn Quận Lê Chân
Bảng 2.10. Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý CSVC, trang thiết bị phục
vụ hoạt động giáo dục KNS

Bảng 2.11. Ý kiến đánh giá thực trạng các lực lượng giáo dục trong nhà
trường tham gia tổ chức hoạt động giáo dục KNS
Bảng 2.12. Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý công tác kiểm tra đánh giá
kết quả thực hiện hoạt động giáo dục KNS
Bảng 2.13 Ý kiến đánh giá thực trạng quản lý công tác bồi dưỡng nghiệp
vụ hoạt động giáo dục KNS thông qua hoạt động GDNGLL
Bảng 3.1. Ý kiến đánh giá về mức độ cần thiết của các biện pháp
Bảng 3.2. Ý kiến đánh giá mức độ khả thi của các biện pháp

4


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Tên sơ đồ
Biểu đồ 2.1: Mức độ giáo dục KNS cho học sinh THCS
Biểu đồ 2.2. Mức độ biết và sử dụng các biện pháp giáo dục KNS
cho học sinh
Sơ đồ 3.1: Mối quan hệ giữa các biện pháp

5
MỤC LỤC


Lời cảm ơn
Danh mục viết tắt
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ HOẠT

ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG THÔNG QUA HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở CÁC TRƢỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1Tổng quan các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động
giáo dục KNS
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm quản lý
1.2.2. Khái niệm quản lý giáo dục
1.2.3. Kỹ năng sống và giáo dục Kỹ năng sống
1.2.4. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
1.3. Quản lý hoạt động giáo dục KNS thông qua hoạt động
GDNGLL
1.3.1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
1.3.2. Hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua HĐGDNGLL
1.3.3. Mục tiêu, nội dung và qui trình quản lý hoạt động giáo dục kỹ
năng sống thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các
trường THCS
1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động giáo dục KNS
thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường THCS

6

Tiểu kết chương 1


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC KỸ NĂNG SỐNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở CÁC TRƢỜNG THCS QUẬN
LÊ CHÂN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu

2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội của quận Lê Chân
2.1.2. Khái quát về Giáo dục - Đào tạo của quận Lê Chân
2.2. Thực trạng kỹ năng sống và hoạt động giáo dục KNS cho học
sinh ở các trường THCS trên địa bàn quận Lê Chân.
2.2.1 Thực trạng về kỹ năng sống của học sinh ở các trường THCS
trên địa bàn quận Lê Chân
2.2.2 Thực trạng về hoạt động giáo dục kỹ năng sống của học sinh
thông qua hoạt động GDNGLL ở các trường THCS trên địa bàn quận
Lê Chân
2.3. Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống và
giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp
2.3.1 Thực trạng quản lý việc xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt
động giáo dục kỹ năng sống
2.3.2 Thực trạng quản lý việc tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục
KNS thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
2.3.3 . Thực trạng quản lý việc sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị phục
vụ cho hoạt động giáo dục KNS
2.3.4. Thực trạng quản lý việc thu hút tập hợp các lực lượng giáo dục
trong nhà trường tham gia tổ chức hoạt động giáo dục KNS.
2.3.5. Thực trạng quản lý việc kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động
giáo dục KNS ở các trường THCS trên địa bàn Quận Lê Chân

7

2.3.6. Thực trạng quản lý việc bồi dưỡng các lực lượng làm công tác


giáo dục KNS
2.4. Đánh giá chung về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục KNS

thông qua hoạt động GDNGLL ở các trường THCS quận Lê Chân
trong bối cảnh hiện nay
2.4.1. Những kết quả đạt được
2.4.2. Những hạn chế cơ bản
Tiểu kết chương 2
Chƣơng 3: CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC KỸ NĂNG SỐNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOÀI
GIỜ LÊN LỚP Ở CÁC TRƢỜNG THCS QUẬN LÊ CHÂN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
3.1. Định hướng hoạt động giáo dục KNS thông qua hoạt động
GDNGLL và các nguyên tắc đề xuất biện pháp
3.1.1. Định hướng đổi mới hoạt động giáo dục KNS thông qua hoạt
động GDNGLL ở trường THCS
3.1.2. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp
3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục KNS thông qua hoạt
động GDNGLL trong bối cảnh hiện nay
3.2.1. Xác định rõ nội dung hoạt động giáo dục KNS thông qua hoạt
động GDNGLL.
3.2.2. Tuyên truyền nâng cao nhận thức về vai trò của giáo dục KNS
thông qua hoạt động GDNGLL cho cán bộ, giáo viên, học sinh.
3.2.3. Tăng cường hiệu quả của các lực lượng quản lý hoạt động giáo
dục KNS trong nhà trường
3.2.4. Tổ chức tập huấn về giáo dục KNS và rèn luyện kỹ năng tổ
chức hoạt động GDNGLL lồng ghép giáo dục KNS cho đội ngũ giáo
viên, cộng tác viên.

8

3.2.5. Chuẩn bị tốt các điều kiện CSVC và phương tiện phục vụ việc



tổ chức hoạt động giáo dục KNS thông qua hoạt động GDNGLL
3.2.6. Tăng cường và đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá, rút kinh
nghiệm việc tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục KNS thông
qua hoạt động GDNGLL.
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục
KNS thông qua hoạt động GDNGLL ở trường THCS.
3.4. Đánh giá và thử nghiệm các biện pháp quản lý hoạt động giáo
dục KNS thông qua hoạt động GDNGLL ở trường THCS.
3.4.1. Đánh giá mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
3.4.2. Thử nghiệm các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục KNS
thông qua hoạt động GDNGLL ở trường THCS.
Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

9


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật thế kỷ XXI đã tạo ra

chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, chính trị của tất cả các nước trên thế
giới và của các các thành viên trong xã hội. Thế giới gần như đã “phẳng” với

biên giới quốc gia chỉ còn mang tính ước lệ, các nền văn hóa trên thế giới đã
xích lại gần nhau hơn. Chính vì vậy mà đòi hỏi mỗi người chúng ta cần hòa
nhập và thích nghi cùng với sự phát triển của xã hội văn minh. Sự phát triển
của các mạng xã hội như You tube, Tweeter, Zing….đã ngày càng thâm nhập
sâu vào đời sống của thanh niên trẻ với muôn hình vạn trạng: cả những điều
tốt đẹp về kiến thức, văn hóa nhưng cũng không ít những nội dung xấu không
được kiểm duyệt làm người dùng dễ dàng sa ngã nếu không được trang bị
những kiến thức phòng vệ. Một bộ phận không nhỏ học sinh – sinh viên
xuống cấp về đạo đức, thiếu kỹ năng sống. Biểu hiện như: thụ động trong
cuộc sống hàng ngày, không thể hiện được khả năng bản thân, có thái độ tiêu
cực khi mâu thuẫn với bè bạn, gia đình, thầy cô giáo, lúng túng khi xử lý các
tình huống phát sinh trong cuộc sống, có cách sống không khoa học, hiệu
quả…thậm chí còn có xu thế phát triển lệch lạc: thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau
của đồng loại, thiên tai, bệnh dịch, nghèo đói. Đáng lo là có những biểu hiện
suy đồi đạo đức và vi phạm pháp luật…Vì vậy, đòi hỏi ngành giáo dục và đào
tạo cần tăng cường việc giáo dục KNS cho học sinh.
Việc giáo dục KNS cho HS là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm qua Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ hai, lần năm
khóa VIII [11,tr 12]; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng CSVN lần
thứ IX [12]; Nghị quyết Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ X và XI [12];
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020; Nghị quyết số
05/2005/NQ-CP ngày 18 tháng 4 của Chính phủ [4,tr 13]; Luật giáo dục năm
2005; Luật giáo dục sửa đổi năm 2009 [31]. Điều lệ trường Trung học cơ sở

10


và trường trung học phổ thông do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành năm
2011[2, tr 43] đã chỉ rõ: “Ngành GD& ĐT phải tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống

và kĩ năng sống cho học sinh, sinh viên”. Không chỉ có vậy ngày 17 tháng 8
năm 2012 Tổng Bí thư Trung ương Đảng khóa XI Nguyễn Phú Trọng đã đến
thăm và làm việc với Bộ giáo dục và đào tạo và đề nghị: “Trước mắt cần tập
trung tạo chuyển biến mạnh mẽ trong một số lĩnh vực, quan tâm hơn nữa việc
dạy đạo đức làm người, bồi dưỡng rèn luyện nhân cách con người, như Bác
Hồ từng dạy: học là để làm người, rồi mới làm cán bộ để phục vụ đất nước,
phục vụ nhân dân”. Trong đó Tổng Bí thư cũng chỉ rõ: ”Kỹ năng sống không
phải là sống luồn cúi, luồn lách để làm lợi cho bản thân mà chính là sự học
tập để thích nghi với sự phát triển của xã hội “ [10]. Bộ Giáo dục và Đào tạo
cũng đã có công văn số 5289/BGD&ĐT-GDTrH ngày 16 tháng 8 năm 2012
[3, tr 9] về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2012-2013 trong đó
nhấn mạnh “Giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh thông qua các môn học,
hoạt động giáo dục và xây dựng quy tắc ứng xử văn hóa. Nhà trường chủ
động phối hợp với gia đình và cộng đồng trong giáo dục đạo đức và kỹ năng
sống cho học sinh “.
Bắt đầu từ năm học 2010-2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo đưa nội
dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào một số môn học cấp THCS như
HĐGDNGLL, GDCD, Sinh học, Vật lý…và đang được cả xã hội quan tâm về
giáo dục kỹ năng sống của tầng lớp thanh thiếu niên. Vì vậy, đòi hỏi các nhà
trường, cùng cả xã hội cần phối hợp, tăng cường hơn nữa việc giáo dục KNS
cho học sinh – sinh viên nhằm tạo ra một bước chuyển biến cơ bản trong nhận
thức của giới trẻ hiện nay.
Trong nhà trường phổ thông, nhân cách của học sinh được hình thành
từ hai con đường cơ bản: dạy- học trên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Điều lệ trường phổ thông [2, tr 39] nêu rõ: ”Các hoạt động giáo dục bao gồm

11


hoạt động trong giờ lên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm giúp học

sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng
cơ bản” đồng thời “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt
động ngoại khoá về khoa học, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, an toàn
giao thông, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục giới tính, giáo dục pháp
luật, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng sống nhằm phát triển toàn
diện và bồi dưỡng năng khiếu; các hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch,
giao lưu văn hoá, giáo dục môi trường; hoạt động từ thiện và các hoạt động
xã hội khác phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh”. Đây chính là
những mục tiêu, con đường cơ bản cần phải đạt trong giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh.
Giáo dục KNS cho học sinh cấp THCS có thể thực hiện qua nhiều con
đường như các hoạt động học tập, các sinh hoạt tập thể, các hoạt động ngoại
khóa, các chương trình phối kết hợp giữa nhà trường và các tổ chức xã hội,
phụ huynh học sinh. Một trong những con đường có tác động nhiều và ảnh
hưởng đến sự hình thành kỹ năng sống cho học sinh là các hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp tại các cơ sở giáo dục. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
có liên quan đến việc mở rộng kiến thức, tình cảm, tư tưởng, thể chất và tinh
thần của học sinh. Việc kết hợp học tập và giảng dạy trên lớp với việc rèn
luyện kỹ năng thực hành giúp học sinh hiểu sâu hơn, nắm được bản chất các
sự vật hiện tượng tạo nên niềm tin khoa học, óc sáng tạo trong việc giải quyết
các vấn đề trong học tập cũng như đời sống để học sinh tự tin hơn trong cuộc
sống sau này.
Với Thành phố Hải phòng là thành phố Cảng với nhiều cửa ngõ giao
thương của cả vùng Bắc bộ và đất nước nên có nhịp độ phát triển kinh tế, xã
hội nhanh so với các địa phương khác. Tuy nhiên, do trình độ học vấn không
đồng đều, tỉ lệ tội phạm cao, địa bàn dân cư phức tạp và có nhiều tệ nạn xã
hội mà thành phố trong những năm gần đây có nhiều vụ việc phức tạp xảy ra,

12



trẻ vị thành niên phạm tội tăng, trẻ em bỏ học có xu hướng gia tăng, đạo đức


một bộ phận học sinh đi xuống như không lễ phép với thầy cô, gia đình,

tham gia những nhóm bạn xấu chơi game online và các tệ nạn xã hội khác.
Chính vì vậy mà công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đang là đòi hỏi
bức thiết của Chính quyền và Nhân dân địa phương và cũng cấp bách nhiều
hơn các địa phương khác.
Với tâm huyết của một người nhiều năm công tác trong ngành giáo dục,
với nhiệm vụ quản lý giáo dục tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh là một việc làm rất quan trọng và cấp bách nhưng để phù hợp với
chương trình giáo dục, tình hình địa phương cần đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ
vấn đề này hơn nữa từ đó áp dụng vào thực tiễn góp một phần nhỏ bé của
mình trong phát triển sự nghiệp giáo dục của địa phương. Với lý do như vậy
tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp ở các trường trung học cơ sở trong bối cảnh hiện nay”
2.

Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống và giáo dục kỹ

năng sống thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhằm phát triển
các khả năng tích hợp một số nội dung trong giáo dục học sinh ở các
trường THCS đạt được các mục tiêu giáo dục trong bối cảnh hiện nay.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục ở các trường THCS.

3.2 Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp ở các trường THCS trong bối cảnh hiện nay.

13


4.

Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu giới hạn ở 10 trường THCS trên địa bàn Quận

Lê Chân – Thành phố Hải phòng trong giai đoạn hiện nay.
5.

Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động giáo dục.

-

Khảo sát thực trạng giáo dục kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống

thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường THCS trên
địa bàn Quận Lê Chân – Thành phố Hải Phòng.
-

Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống


ở các trường THCS trên địa bàn Quận Lê Chân – Thành phố Hải Phòng
trong bối cảnh hiện nay.
-

Đề xuất một số biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ

năng sống thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường
trung học cơ sở trong bối cảnh hiện nay.
6.

Giả thuyết khoa học
Hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động giáo dục ngoài

giờ lên lớp đã có một số hiệu quả nhất định nhưng vẫn còn có nhiều bất
cập. Nếu có những biện pháp quản lý hợp lý, sáng tạo, chỉ đạo chặt chẽ, tổ
chức thực hiện tốt, kiểm tra đánh giá chính xác thì sẽ khắc phục được
những bất cập và nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
trong bối cảnh hiện nay.
7.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài kết hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu

sau:
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Các phương pháp nghiên cứu lý luận

14



-

Nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết của Đảng, các văn bản quy định

của Nhà nước và của ngành giáo dục và đào tạo, các tài liệu lý luận về
quản lý, quản lý giáo dục và các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

-

Phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu

có liên quan đến đề tài nhằm xây dựng cơ sở lý luận về công tác quản lý
hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp ở các trường THCS.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
-

Phương pháp trò chuyện

-

Phương pháp phỏng vấn

-

Phương pháp khảo sát thực tế

-

Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động


-

Phương pháp điều tra bằng Ankét: Sử dụng hệ thống câu hỏi mở và

câu hỏi đóng để tìm hiểu các vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
8.

Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và danh mục tài liệu tham

khảo, phụ lục. Nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3
chương:
Chương 1 : Cơ sở lý luận của việc quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng
sống thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường THCS.
Chương 2 : Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống thông qua
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường THCS.
Chương 3 : Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục KNS
thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường THCS trong
bối cảnh hiện nay.

15


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ
NĂNG SỐNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ
LÊN LỚP Ở CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1 Tổng quan các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động giáo
dục kỹ năng sống

Ngay từ thời cổ đại, con người đã có kỹ năng sống để thích nghi với cuộc
sống và quan hệ trong cộng đồng. Kỹ năng sống được truyền dạy từ đời này
sang đời khác thông qua cách truyền dạy cho các thế hệ sau về cách săn bắn,
trồng trọt và cách trốn tránh kẻ thù…Với cách truyền khẩu như vậy con người
đã ngày càng tiến hóa và mở rộng vốn hiểu biết của mình và xây dựng một xã
hội văn minh như ngày nay. Như vậy, có thể khẳng định: kỹ năng sống của
con người đã được hình thành khi con người hình thành xã hội. Ngày nay xã
hội càng ngày càng phát triển thì kỹ năng sống cũng mở rộng phạm vi không
chỉ là bản năng sống mà còn là khả năng thích ứng với xã hội. Trong đó: Mỗi
chế độ xã hội bao giờ cũng có tư tưởng giáo dục chính thống phục vụ cho sự
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ quyền lợi cho một số ít hoặc số
đông các thành viên trong xã hội. Nhưng dù ở chế độ xã hội nào thì mục tiêu
cuối cùng của giáo dục là nhằm phát triển toàn diện nhân cách của người
được giáo dục theo chuẩn mực của xã hội đó qui định. Sự phát triển toàn diện
nhân cách bao gồm sự phát triển về thể chất (thể lực, thể hình, thể năng), tâm
trí (trí tuệ, tình cảm) và năng lực thực tiễn (Theo Các Mác thì đó là năng lực
kỹ thuật tổng hợp, phương tây gọi là kỹ năng xã hội, UNESCO gọi là KNS).
Để đạt được mục tiêu đó, người học (học sinh) không chỉ là khách thể mà
cuối cùng phải là chủ thể của quá trình nhận thức và quá trình tự giáo dục, tự
hoàn thiện nhân cách. Vì vậy mà việc giáo dục không chỉ diễn ra trên lớp,
trong trường học mà còn phải được thực hiện ở ngoài lớp, ngoài nhà trường

16


theo phương thức kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội thông
qua các hình thức hoạt động trong môi trường thiên nhiên, sinh hoạt tập thể ...
Trong lịch sử từ cổ đại đến hiện đại, những nhà giáo dục tiêu biểu của
thế giới luôn thể hiện tư tưởng này trong quan điểm giáo dục của mình. Trong
văn hóa Á đông có Khổng Tử (551 - 479 trước Công nguyên)- một triết gianhà giáo dục lỗi lạc của Trung Hoa cổ đại đã từng muốn qua giáo dục để tạo

ra lớp người "Trị quốc" cũng phải học gắn với hành. Ông khẳng định: "Đọc
thuộc ba trăm thước kinh thư giỏi, giao cho việc hành chính không làm được,
giao cho việc đi sứ không có khả năng đối đáp, học kiểu như vậy chẳng có ích
gì". Với "Ông tổ của nền sư phạm cận đại"- J.A Cômenxki (1592 - 1670)–
nước cộng hòa Slovakia người có nhiều đóng góp lớn lao cho nền giáo dục
trên thế giới đã đặc biệt quan tâm đến việc kết hợp học tập ở trên lớp và hoạt
động ngoài lớp nhằm giải phóng hình thức học tập "Giam hãm trong bốn bức
tường" của hệ thống nhà trường Giáo hội thời Trung cổ. Ông nhấn mạnh:
"Học tập không phải là lĩnh hội kiến thức trong sách vở mà còn lĩnh hội kiến
thức từ bầu trời, mặt đất, từ cây sồi, cây dẻ" [6, tr7].
Tiếp nối với các tư tưởng giáo dục thời cổ đại, Thomas More (1478 1535) người Anh một luật sư, nhà triết học xã hội đã đánh giá rất cao vai trò
của lao động đối với con người và đối với xã hội nên việc giáo dục con người
phải thực hiện kết hợp trong nhà trường với giáo dục ngoài nhà trường, trong
lao động và hoạt động xã hội. Theo Petxtalôzi (1746 - 1827) thì hoạt động
ngoài lớp không chỉ tạo ra của cải vật chất mà là con đường để giáo dục toàn
diện học sinh. Đối với Robert Owen (1771- 1858) lại muốn cải tạo xã hội
(thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển) bằng con đường giáo dục đi từ cuộc thực
nghiệm giáo dục mới mẻ trong công xưởng của ông ở nước Anh. Qua cuộc
thực nghiệm giáo dục vĩ đại này, Robert Owen đã đưa một phương thức bất
hủ là "Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất", "kết hợp giáo dục trong
trường lớp với giáo dục trong lao động và hoạt động xã hội". Với hai nhà triết
học nổi tiếng: Các Mác (1818 - 1883) và F.Anghen (1820 - 1895) [5] - Người

17


sáng lập ra Học thuyết cách mạng xã hội chủ nghĩa và là ông tổ của nền giáo
dục hiện đại, đã xác định mục đích của nền giáo dục XHCN là tạo ra "con
người phát triển toàn diện" muốn vậy phải theo "phương thức giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất". Đây cũng chính là phương thức giáo dục hiện đại

mà V.I. Lênin (1870 - 1924) coi là một trong những nguyên tắc của giáo dục
XHCN. Trong bài phát biểu "Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên"(1920) [25,tr38],
Lê Nin chỉ rõ: "Chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết lao động và hoạt
động xã hội cùng với công nhân và nông dân". Còn N.K.Cơrupxkaia (1869 1939) đã phân tích rất sâu sắc ý nghĩa của hoạt động lao động, hoạt động
chính trị xã hội. Bà đánh giá cao vai trò hoạt động của Đoàn thanh niên, của
Đội thiếu niên, qua các hoạt động ngoài trường, ngoài lớp. Bà cho rằng: "Qua
hoạt động thực tiễn thế hệ trẻ được tự giáo dục, qua đó mà hình thành và phát
triển nhân cách của người lao động mai sau". A.X.Macarenco (1888 - 1939)Người có công làm một cuộc thực nghiệm giáo dục vĩ đại trong gần hai mươi
năm trời ở trại lao động Goocki và Deczinxki nhằm cải tạo trẻ phạm pháp,
thành công của cuộc thực nghiệm này chính là ở chỗ Macarenco không chỉ
giáo dục trẻ em phạm pháp trong trường mà ông đã gắn liền giáo dục trong
lao động, trong sinh hoạt tập thể và hoạt động xã hội. Sự thành công của cuộc
thực nghiệm giáo dục của Macarenco đã chứng minh chân lý giáo dục là
“Giáo dục trong hoạt động xã hội - Giáo dục trong tập thể, bằng tập thể Giáo dục trong lao động.”
Với Việt nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác giáo
dục thiếu nhi. Trong bài báo "1- 6" ký tên C.B đăng trên báo Nhân dân số ra
ngày 01 - 6 - 1955, Bác đã đề ra nội dung giáo dục toàn diện đối với học sinh
bao gồm: thể dục, trí dục, mỹ dục, đức dục. Bác đã đưa ra quan điểm giáo dục
thiếu nhi đó là: "Trong quá trình giáo dục thiếu nhi phải giữ toàn vẹn cái tính
vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng và trong lúc học, cũng
cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học". Bác yêu
cầu: "Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ

18


của người lớn". Với nguyên lý giáo dục "Học đi đôi với hành, giáo dục gắn
liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội", Bác đã từng nói: "Giáo dục
phải theo hoàn cảnh và điều kiện" và "Một chương trình nhỏ mà được thực
hành hẳn hoi còn hơn một trăm chương trình lớn mà không làm được"[17].

Trong xu thế hội nhập, nhiệm vụ giáo dục của các nước là đào tạo thế
hệ trẻ năng động, sáng tạo, có những năng lực chủ yếu như: năng lực thích
ứng, năng lực tự hoàn thiện, năng lực hợp tác, năng lực hoạt động xã hội....
Nói cách khác là đào tạo một lớp người mới tinh thông về nghề nghiệp, có
khả năng thích ứng cao với những biến động của cuộc sống. Ở Việt Nam, mục
tiêu của giáo dục phổ thông đã được qui định tại điều 27 - Luật Giáo dục 2005
như sau: "Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con
người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc"[33]. Thuật ngữ KNS được người Việt Nam biết đến
bắt đầu từ chương trình của UNICEF (1996)[30]: "Giáo dục KNS để bảo vệ
sức khoẻ và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà
trường". Giai đoạn đầu của chương trình, khái niệm KNS được giới thiệu chỉ
bao gồm những KNS cốt lõi như: Kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng xác định giá trị, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên định và kỹ năng đạt
mục tiêu. Ở giai đoạn này chương trình chỉ tập trung vào các chủ đề giáo dục
sức khoẻ của thanh thiếu niên. Giai đoạn hai của chương trình mang tên:
"Giáo dục sống khoẻ mạnh và KNS" trong đó nội dung của khái niệm KNS và
giáo dục KNS đã được phát triển sâu sắc hơn. Ngành Giáo dục đã triển khai
chương trình đưa giáo dục KNS vào hệ thống giáo dục chính qui và không
chính qui. Nội dung giáo dục của nhà trường phổ thông được định hướng bởi
mục tiêu giáo dục KNS. Các nội dung giáo dục KNS cơ bản đã được triển
khai ở các cấp THCS là: năng lực thích nghi, năng lực hành động,

19


năng lực ứng xử, năng lực tự học suốt đời; định hướng học sinh: học để biết,

học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định.
Việc giáo dục KNS ở các bậc học THCS và THPT được thực hiện chủ
yếu thông qua chương trình các môn học và các hoạt động giáo dục của nhà
trường cùng với một số chương trình dự án do nước ngoài tài trợ. Cụ thể với
cấp THCS những môn học được khai thác nhằm giáo dục KNS cho học sinh
là môn Giáo dục công dân, môn Công nghệ, Sinh học…
Đã có một số công trình nghiên cứu trong nước đề cập đến vấn đề KNS
nói chung và KNS trong nhà trường nói riêng như: Kỹ năng sống cho tuổi vị
thành niên của tác giả Nguyễn Thị Oanh [28]; Cẩm nang tổng hợp kỹ năng
hoạt động thanh thiếu niên của tác giả Phạm Văn Nhân [24]; Kỹ năng thanh
niên tình nguyện của tác giả Trần Thời. Giáo dục kỹ năng sống trong môn
Giáo dục công dân ở trường THCS của tác giả Đặng Thúy Anh – Lê Minh
Châu. Trong cuốn Chuyên đề giáo dục KNS - tác giả Nguyễn Thanh Bình
(2009)[1] đã đề cập đến vấn đề xã hội hoá giáo dục Mầm non, Tiểu học và
THCS, THPT trên địa bàn xã phường. GS-TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc, PGS-TS
Đinh Thị Kim Thoa, ThsTrần Văn Tính – Ths Vũ Phương Liên với Tài liệu
Phương pháp giáo dục Giá trị sống – Kỹ năng sống cho học sinh phổ thông
[26]

và Bài giảng Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh THCS

của GS- TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc – PGS.TS. Đinh Thị Kim Thoa- TS Đặng
Hoàng Minh…[27].
Đặc biệt vấn đề quản lý nhà nước được đề cập đến và trong bối cảnh xã
hội hoá giáo dục cũng đặt ra những vấn đề liên quan đến giáo dục pháp luật,
giáo dục KNS[21]. Đẩy mạnh và tăng cường giáo dục KNS đồng thời phải tổ
chức giáo dục KNS cho các em theo tinh thần xã hội hoá. Có thể nhận thấy ở
Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn
đề giáo dục KNS, một số công trình đã đi sâu nghiên cứu một số lĩnh vực nội
dung và phương thức giáo dục KNS, các đề tài đã phân tích làm rõ thực trạng

trước tính cấp bách của vấn đề giáo dục KNS, một số đề tài đã đề cập đến

20


những hình thức giáo dục kỹ năng sống cụ thể trong nhà trường phổ thông, đề
xuất các biện pháp giáo dục KNS cho học sinh, sinh viên. Tuy nhiên hiện nay
ở các trường THCS việc giáo dục KNS cho học sinh mới chỉ được thực hiện ở
mức độ tích hợp ở một số môn học: Giáo dục công dân, Công nghệ mà chưa
khai thác hết nội lực của việc giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động
tập thể, hoạt động GDNGLL trong nhà trường để thực hiện có hiệu quả nội
dung giáo dục KNS cho học sinh THCS trong bối cảnh hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng
các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm
tra.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: ”Quản lý trong kinh doanh
hay quản lý trong các tổ chức nhân sự nói chung là hành động đưa các cá
nhân trong tổ chức làm việc cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu
chung”. Công việc quản lý bao gồm 5 nhiệm vụ theo Henry Fayol đó là: xây
dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm soát. Trong đó, các nguồn
lực có thể được sử dụng và để quản lý là nguồn nhân lực, tài chính, công nghệ
và thiên nhiên [23].
Quản lý (thuật ngữ tiếng Anh là Management [ˈmænɪdʒmənt], tiếng
latinh. manum agere - điều khiển bằng tay) đặc trưng cho quá trình điều khiển
và dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế,
thông qua việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên.
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Quản lý là tác động có định hướng,
có chủ đích của chủ thể quản lý (Người quản lý) đến khách thể (Người bị

quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục
đích của tổ chức” [26].
1.2.2. Khái niệm quản lý giáo dục

21


QLGD là một khoa học quản lý chuyên ngành được nghiên cứu trên
nền tảng của khoa học nói chung nhưng đồng thời cũng là một bộ phận của
khoa học giáo dục. Quản lý giáo dục đã ra đời và hình thành từ nhiều quan
điểm khác nhau do mỗi phương thức sản xuất của xã hội đó có một cách quản
lý khác nhau.
Khái niệm “QLGD” được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp trên cơ sở
nghiên cứu phạm vi hoạt động của từ “Giáo dục“. Quản lý giáo dục được hiểu
theo nghĩa rộng nhất khi giáo dục được coi là hoạt động diễn ra ở ngoài xã
hội. Còn khi được diễn ra trong ngành giáo dục từ Bộ giáo dục và đào tạo đến
các cơ sở giáo dục thì QLGD được hiểu theo nghĩa hẹp là quản lý một hệ
thống giáo dục hay quản lý nhà trường…[21] Để hiểu một cách chính xác hơn
về QLGD ta xem xét những quan điểm giáo dục sau :
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp với quy luật của chủ thể quản lý nhằm
làm cho hệ thống vận hành theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng, thực
hiện các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự
kiến, tiến đến trạng thái mới về chất“ .
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Mục đích cuối cùng của quản lý giáo
dục là tổ chức giáo dục có hiệu quả để đào tạo ra lớp thanh niên thông minh,
sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và biết phấn đấu vì hạnh phúc của bản
thân và xã hội“.
Quản lý giáo dục được thực hiện ở hai cấp độ: Vĩ mô và Vi mô. Đối với

vĩ mô “Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, mục
tiêu, kế hoạch, hệ thống hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến toàn bộ hệ
thống (từ Trung ương, địa phương đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm
thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế
hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục”[21].

22


Đối với cấp vi mô: ”Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác
động tự giác (có ý thức, mục tiêu, kế hoạch, hệ thống và quy luật) của chủ thể
quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể HS, CMHS và các lực
lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu
quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [21, tr 11].
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt kết
quả mong muốn một cách hiệu quả nhất. QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt
động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào
tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội [23, tr 13].
Khái quát lại, dù QLGD được hiểu theo cách tiếp cận nào thì nội hàm
của khái niệm QLGD cũng chứa đựng những nhân tố đặc trưng bản chất sau:
Phải có chủ thể QLGD, ở tầm vĩ mô là quản lý của nhà nước mà cơ quan trực
tiếp quản lý là Bộ giáo dục và đào tạo, sở giáo dục và đào tạo, Phòng giáo dục
và đào tạo. Ở tầm vi mô là quản lý của Hiệu trưởng nhà trường. Nhà trường là
đối tượng cuối cùng, cơ bản nhất của QLGD, trong đó đội ngũ giáo viên và
học sinh là đối tượng quản lý quan trọng nhất.
Qua những khái niệm trên ta có thể rút ra kết luận
QLGD là những tác động có hệ thống, có khoa học, có ý thức và có
mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý, là quá trình dạy và học và
giáo dục diễn ra ở các cơ sở giáo dục [7].

Quản lý giáo dục được hiểu một cách cụ thể là quản lý một hệ thống
giáo dục, có thể là một trường học, một trung tâm khoa học kỹ thuật, hướng
nghiệp hay dạy nghề, một tập hợp các cơ sở phân bố trên địa bàn dân cư.
1.2.3. Kỹ năng sống và giáo dục Kỹ năng sống
1.2.3.1 Kỹ năng sống

23


Có nhiều quan niệm về KNS do các tổ chức quốc tế, các chuyên gia
trong và ngoài nước đưa ra, trong đó có những quan điểm đáng lưu ý sau đây:
-

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): "KNS là những kỹ năng mang

tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong các tình huống
hàng ngày để tương tác một cách có hiệu quả với người khác, giúp các cá
nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống
hàng ngày".
-

Theo Quĩ cứu trợ Nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF): "KNS là cách

tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Tiếp cận này lưu ý đến sự
cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng" [30, tr 113].
-

Theo Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hoá liên hiệp quốc

(UNESCO): "KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI: Học để biết Học để làm - Học để chung sống - Học để làm người. Theo đó KNS được

định nghĩa là những năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và
tham gia vào cuộc sống hàng ngày"[31, tr 62].
-

KNS là những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức,

những giá trị và thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm
cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và
thách thức của cuộc sống.
-

KNS là một tập hợp các kỹ năng mà con người có được thông qua

giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý những vấn đề và
những câu hỏi thường gặp trong đời sống hàng ngày của con người.
Như vậy KNS được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm khả năng
năng lực tâm lý xã hội mà còn cả những kỹ năng tâm vận động, còn KNS
được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những năng lực tâm lý xã hội.
Từ các khái niệm nêu trên có thể đưa ra khái niệm KNS là năng lực cá
nhân mà con người có được thông qua giáo dục hoặc kinh nghiệm trực
tiếp, nó giúp cho con người có cách ứng xử tích cực và có hiệu quả, đáp
ứng mọi biến đổi của đời sống xã hội, sống khoẻ mạnh, an toàn hơn.

24


Nói đến KNS là nói đến khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi của
mình phù hợp với cách ứng xử tích cực, giúp cho con người có thể kiểm soát,
quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng
ngày. Điều đó có nghĩa là người có KNS không chỉ có năng lực thích ứng với

những thách thức của cuộc sống mà còn cần phải có sự thay đổi một cách phù
hợp và mang tính tích cực.
"KNS vừa mang tính cá nhân vì đó là khả năng của cá nhân, nhưng
cũng mang tính xã hội vì KNS phụ thuộc vào giai đoạn phát triển lịch sử, các
điều kiện kinh tế- xã hội". KNS của mỗi con người được hình thành qua một
quá trình xây dựng những hành vi lành mạnh, thay đổi những hành vi thói
quen tiêu cực thông qua trải nghiệm và qua giáo dục. Qua trải nghiệm, qua
phương pháp thử đúng sai thì đòi hỏi phải lâu dài và nhiều lúc phải trả giá
bằng sự thất bại đau đớn. Giáo dục, rèn luyện có chủ đích là con đường ngắn
nhất để hình thành KNS cho học sinh.
"Hoạt động giáo dục là những hoạt động do nhà giáo dục và các cơ sở
giáo dục tổ chức theo kế hoạch, chương trình giáo dục, trực tiếp điều hành và
chịu trách nhiệm về chúng để tạo môi trường cho người học tiến hành các
hoạt động của mình theo những nguyên tắc, mục tiêu, chuẩn mực giá trị
chung và những biện pháp chung để đạt được trình độ phát triển nhân cách
theo yêu cầu mà xã hội đặt ra tương ứng với độ tuổi và trình độ giáo dục mà
người học được thụ hưởng" [21].
1.2.3.2 Giáo dục kỹ năng sống
Giáo dục KNS là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại do
yêu cầu của xã hội hiện đại đặt ra, có liên quan đến việc làm, sức khoẻ, đến
vấn đề xung đột và bạo lực của cá nhân, của cộng đồng và xã hội.
Có thể quan niệm giáo dục KNS cho học sinh là quá trình hình thành,
rèn luyện hoặc thay đổi các hành vi của các em theo hướng tích cực, phù
hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học, dựa trên cơ sở

25


×