Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

Quản lý thiết bị dạy học tại học viện hậu cần trong giai đoạn phát triển hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.78 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN ĐỨC THẮNG

QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC TẠI HỌC VIỆN HẬU CẦN
TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN HIỆN NAY.

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Hà Nội - 2009


KÝ HIỆU VIẾT TẮT

B
Q
P
B
G
D
&
Đ
T
C
N
H
C
C
N


H
H
Đ
H
C
S
V
C
C
N
V
Q
P
C
N
M
T

CHTMHC
CD
ĐTN
ĐHKTQD
GD-ĐT
HSQ-CS
NCKHHCQ
S
TT HCM
TBDH
TCCN
THHL

NCKH
GV
HV
e, f
VKTBKT
PTN
XTH
KH-CN
KH–KT
KT–XH
HVTC
HCQS
QNCN
QĐNDVN
LLM-LN


Bộ Quốc
phòng
Bộ giáo
dục và
đào tạo
Chủ
nhiệm
Hậu cần
Công
nghiệp
hoá Hiện đại
hoá
Cơ sở vật

chất
Công
nhân viên
quốc
phòng
Công
nghệ môi
trường
Chỉ huy
tham mưu
hậu cần
Chiến
dịch

Đào tạo ngắn
Đại học kinh tế quốc dân
Giáo dục- đào tạo
Hạ sĩ quan-chiến sĩ
Nghiên cứu khoa học hậu
cần quân sự
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Thiết bị dạy học
Trung cấp chuyên nghiệp
Thực hành huấn luyện
Nghiên cứu khoa học
Giáo viên
Học viên
Trung đoàn, sư đoàn
Vũ khí trang bị kỹ thuật
Phòng thí nghiệm

Xưởng thực hành
Khoa học- Công nghệ
Khoa học kỹ thuật
Kinh tế - Xã hội
Học viện Tài chính
Hậu cần quân sự
Quân nhân chuyên nghiệp
Quân đội nhân dân Việt
Nam
Lý luận Mác-Lê Nin


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Sự nghiệp giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước đánh giá là nhiệm vụ
quan trọng đặt lên hàng đầu trong suốt quá trình xây dựng phát triển của đất
nước. Đồng thời, giáo dục Việt Nam trong thời đại mới cũng đã xác định nhất
quán mục tiêu là đổi mới toàn diện để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, đáp ứng nhu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, hướng tới xây dựng
nền kinh tế tri thức trong tương lai. Để thực hiện mục tiêu này, việc đầu tư
cho giáo dục đã và đang được quan tâm, chú trọng, tạo nền tảng vững chắc
cho quá trình thực hiện những chính sách giáo dục của từng giai đoạn.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học (TBDH) có vị trí hết sức quan
trọng trong quá trình giáo dục - đào tạo (GD-ĐT), là yếu tố phản ánh tiềm lực
đào tạo, đồng thời là một tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng đào tạo của
các nhà trường.
Cùng với việc đổi mới mục tiêu, quy trình, chương trình, nội dung và
phương pháp dạy học, trang thiết bị đào tạo là một khâu không thể thiếu để
thực hiện nguyên lý giáo dục "học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn".

Nghị quyết Trung ƣơng 2 (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát
triển GD - ĐT trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã nhấn
mạnh tới việc phải ưu tiên đầu tư về trường sở, trang TBDH cho các nhà
trường nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Luật Giáo dục 2005 quy định: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục”…
Nghị quyết 93/ĐUQSTƢ về tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ, nhân
viên chuyên môn kỹ thuật và xây dựng nhà trường chính quy cũng đã xác định rõ:
Đầu tư cơ sở vật chất, trang bị, phương tiện dạy học và nghiên cứu khoa học cho
các học viện, trường sĩ quan. Thường xuyên điều động bổ sung những trang thiết

1


bị kỹ thuật mới cần thiết cho các trường, bảo đảm trang bị cho công tác GD ĐT tại các trường không lạc hậu mà còn đi trước đơn vị và tương ứng với các
trường ngoài quân đội.
Nghị quyết 86/ĐUQSTƢ về công tác GD-ĐT trong tình hình mới đã
xác định: Tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho các nhà trường về cơ
sở vật chất, đáp ứng lưu lượng và yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo. Đầu
tư xây dựng sở chỉ huy diễn tập của một số học viện, trường; tập trung đầu tư
nâng cấp thao trường, bãi tập, trung tâm huấn luyện dã ngoại, thư viện phòng
học chuyên ngành, cơ sỏ thực hành. Ưu tiên đầu tư phòng thí nghiệm công
nghệ cao cho một số ngành mũi nhọn phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, thực
hành và sản xuất, sử dụng tốt các trang bị hiện có, mua sắm, điều động vũ khí,
trang bị kỹ thuật thế hệ mới cho nhà trường.
Điều lệ công tác nhà trƣờng QĐNDVN đã quy định cụ thể: Bộ Quốc
phòng dành ưu tiên cho việc bố trí ngân sách nhà trường và đầu tư cho việc nâng
cấp trang TBDH, biên soạn giáo trình và xây dựng trường học, khuyến khích và
tạo điều kiện cho các cấp quản lý trường, cơ quan, đơn vị đầu tư cho công tác
nhà trường quân đội. Người chỉ huy các tổng cục, quân chủng, quân khu, bộ đội

Biên phòng, quân đoàn, binh đoàn có trách nhiệm bảo đảm, huy động nguồn đầu
tư, phát triển, quản lý cơ sở vật chất, ngân sách nhà trường, điều động trang bị
kỹ thuật tiên tiến, phù hợp với nhiệm vụ, mục tiêu, chương trình, nội dung
phương pháp đào tạo và công tác nghiên cứu khoa học của trường thuộc quyền.
Do đặc điểm đào tạo trong nhà trường quân đội là đào tạo theo chức vụ, có
học vấn tương ứng; đào tạo nhân viên chuyên môn kỹ thuật có tay nghề thực
hành cao; gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học; gắn nhà trường với đơn vị; học
đi đôi với hành..., nên càng đòi hỏi cơ sở vật chất, trang thiết bị phải đáp ứng đủ
số lượng, thường xuyên đổi mới, bổ sung cho phù hợp. Bởi vậy, những năm qua
Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng đã quan tâm ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất,
ngân sách cho công tác nhà trường quân đội. Đến nay, các học viện, nhà trường

2


quân đội đã xây dựng được một hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật
bảo đảm cho dạy và học thực hành, bước đầu đáp ứng được mục tiêu, nội
dung, chương trình đào tạo của các nhà trường. Các trường trong toàn quân
đã quy hoạch lại các phòng học, xưởng thực hành; nâng cấp hệ thống phòng
thí nghiệm, phòng điều hành, thư viện và các trang TBDH dùng chung.
Trước yêu cầu về tăng cường sức mạnh quốc phòng và xây dựng quân đội
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, yêu cầu nâng cao
chất lượng đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật trong các nhà trường
quân đội đặt ra yêu cầu hết sức cấp bách. Việc đổi mới công tác GD-ĐT về quy
trình, chương trình nội dung đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật các
cấp trong quân đội càng đặt ra yêu cầu phải tăng cường cơ sở vật chất, trang
TBDH trong các nhà trường quân đội theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Để
đáp ứng yêu cầu đó, đòi hỏi phải có nhận thức mới trên nhiều mặt.

Như vậy, việc nghiên cứu công tác quản lý TBDH, nhằm góp phần nâng

cao chất lượng đào tạo của các nhà trường quân đội trong giai đoạn phát triển
hiện nay là việc làm quan trọng và rất cần thiết.
1.2. Cơ sở thực tế
Học viện Hậu cần thành lập ngày 15 tháng 6 năm 1951 tại xã Yên Đổ,
huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Trải qua gần 60 năm xây dựng và trưởng
thành, Học viện đã đào tạo cho quân đội hơn 4 vạn sỹ quan và nhân viên chuyên
môn kỹ thuật hậu cần các cấp, hoàn thành hàng ngàn công trình, đề tài khoa học
có giá trị, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng của
lực lượng vũ trang. Hiện nay, Học viện là một trong số các trường của quân đội
đào tạo đa cấp, đa ngành: đào tạo cán bộ, nhân viên ngành hậu cần quân đội có
trình độ sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ); đại học; trung cấp.
Trong những năm qua, Học viện đã từng bước trang bị những TBDH hiện đại
phục vụ giảng dạy và học tập, để thúc đẩy quá trình đổi mới phương pháp dạy học,
nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên tình hình chuyển biến còn chậm. Vì

3


vậy cần phải nghiên cứu tìm các biện pháp quản lý TBDH, phát huy tối đa
hiệu quả các thiết bị hiện có nhằm tăng cường áp dụng các phương pháp tiên
tiến vào quá trình dạy học, thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo của Học viện. Đã
có nhiều đề tài nghiên cứu về quản lý TBDH nhưng chưa có đề tài nào nghiên
cứu chuyên sâu về quản lý TBDH tại Học viện Hậu cần.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên tôi chọn đề tài nghiên cứu:
"Quản lí TBDH tại Học viện Hậu cần trong giai đoạn phát triển hiện nay".
Với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé công sức của mình vào việc
xác định hệ thống các biện pháp quản lý TBDH của Học viện nhằm nâng cao
chất lượng công tác GD-ĐT theo yêu cầu nhiệm vụ Bộ Quốc phòng giao.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý TBDH tại Học viện Hậu cần, từ

đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý TBDH,
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở Học viện Hậu cần.
3.

Phạm vi nghiên cứu
-

Phạm vi về không gian: Công tác quản lý TBDH tại Học viện Hậu cần.

-

Phạm vi về thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2009.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu cơ sở lý luận về TBDH và công tác quản lý TBDH.

-

Đánh giá thực trạng công tác quản lý TBDH tại Học viện Hậu cần.

- Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý TBDH, góp

phần nâng cao chất lượng đào tạo của Học viện Hậu cần trong giai đoạn phát
triển hiện nay.
5. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
-

Khách thể nghiên cứu: TBDH ở các nhà trường quân đội.


-

Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý đối với công tác quản lý

TBDH tại Học viện Hậu cần.

4


6. Giả thuyết nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề trên đây, tác giả sơ bộ đưa ra một số giả thiết

sau:
-

Một trong các yêu cầu đổi mới có ý nghĩa quan trọng để mở rộng quy

mô và nâng cao chất lượng GD-ĐT là phải gắn với đổi mới nâng cấp cơ sở
vật chất kỹ thuật của hệ thống nhà trường quân đội.
-

Theo yêu cầu phát triển khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là đổi mới

công tác GD-ĐT và thực tế đặt ra thì hệ thống trang TBDH của Học viện Hậu
cần hiện nay còn nhiều bất cập.
-

Nếu tìm được biện pháp quản lý có tính khả thi, đồng bộ, có luận cứ


khoa học và thực tiễn rõ ràng, thì công tác quản lý TBDH sẽ được đổi mới
góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở Học viện Hậu cần.
7.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài kết hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu:
-

Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Tham khảo các tài liệu, báo

cáo khoa học có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
-

Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra, khảo

sát thực tế, phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp thống kê.
8.

Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo

nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý thiết bị dạy học của trường đại học
trong quân đội
Chƣơng 2: Thực trạng công tác quản lý thiết bị dạy học tại Học viện
Hậu cần.
Chƣơng 3: Biện pháp nâng cao hoạt động quản lý thiết bị dạy học tại
Học viện Hậu cần trong giai đoạn phát triển hiện nay

5



Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THIẾT BỊ DẠY HỌC
CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRONG QUÂN ĐỘI 1.1. Một số khái niệm
cơ bản
1.1.1.Quản lý
1.1.1.1. Khái niệm quản lý
Nói về phạm trù này, Các Mác cũng đã từng khẳng định “Quản lý là một
chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động” [17, tr.
29-30]. Ông mô tả hoạt động quản lý qua cách diễn đạt hình tượng hóa rất
sinh động: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến
hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo
để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung
phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động
của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều
khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng.” [18, tr. 400]
Vì vậy, khi phân tích phạm trù quản lý, người viết xem xét nó dưới
những khía cạnh sau: khái niệm, đặc điểm, bản chất và chức năng của nó
trong cộng đồng, xã hội để có cái nhìn cơ bản đầy đủ.
Trước tiên, chúng ta phải thừa nhận rằng: quan hệ quản lý là một bộ
phận đa dạng, phức tạp của quan hệ xã hội. Nhìn nhận quản lý dưới từng góc
độ khác nhau, chúng ta lại đưa ra được những khái niệm quản lý riêng biệt.
Cách hiểu thông thường nhất về quản lý theo từ điển Tiếng Việt: “Quản
lý là việc tổ chức, điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.”
[16, tr.800]
Đồng thời, chúng ta có thể kể đến những định nghĩa tiêu biểu của các
nhà khoa học trong và ngoài nước về quản lý như sau:
Quan niệm của các tác giả nước ngoài về quản lý

6



Theo Afanaxev: “Quản lý con người có nghĩa là tác động đến anh ta, sao
cho hành vi, công việc và hoạt động của anh ta đáp ứng những yêu cầu của xã
hội, tập thể, để những cái đó có lợi cho cả tập thể và cá nhân, thúc đẩy sự tiến
bộ của cả xã hội lẫn cá nhân.”
Theo Henry Faybol, Max Webber: “Quản lý là khoa học đồng thời là
một nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội.”
Theo Harold Koontz và Heinz Weihrich: “Quản lý là hoạt động đảm bảo
sự phối hợp giữa nỗ lực của các cá nhân nhằm đảm bảo mục tiêu quản lý
trong điều kiện chi phí thời gian, công sức, tài lực, vật lực ít nhất đạt được kết
quả cao nhất.”
Quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam về quản lý
GS. Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là những tác động có định hướng,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận
hành tổ chức, nhằm đạt được mục đích nhất định.”
GS. Đỗ Hoàng Toàn: “Quản lý là sự tác động có tổ chức của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra trong điều
kiện biến động của môi trường.”
PGS.TS Trần Quốc Thành: “Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý
để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động

của con người nhằm đạt được mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp
với quy luật khách quan.”
Nguyễn Bá Dương: “Hoạt động quản lý là sự tác động qua lại một cách tích
cực giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý qua con đường tổ chức, là sự tác
động điều khiển, điều chỉnh tâm lý và hành động của các đối tượng quản lý, lãnh
đạo cùng hướng hoàn thành những mục tiêu nhất định của tập thể và xã hội.”

Giáo trình Quản lý hành chính Nhà nước: “Quản lý là sự tác động có ý

thức để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt

7


động của con người để hướng đến mục đích, đúng ý chí, và phù hợp với quy
luật khách quan.”[19, tr.61]
Có thể nói, các quan niệm về quản lý trên đây, tuy được diễn đạt theo
những cách thức khác nhau nhưng chúng đều nhấn mạnh vào ba đặc điểm cơ
bản của hoạt động quản lý. Đó là:
Thứ nhất, hoạt động quản lý luôn được tiến hành trong một không gian
xác định là tổ chức, luôn phải tính đến môi trường với những hoàn cảnh đặc
trưng, xác định của nó.
Thứ hai, hoạt động quản lý là tập hợp những tác động có sự phối hợp,
nỗ lực của các cá nhân trong tập thể để nhằm thực hiện những mục tiêu của tổ
chức. Quan hệ này luôn có sự xuất hiện của hai loại chủ thể là chủ thể quản lý
(bên tạo ra những sự tác động có định hướng đến đối tượng trong tổ chức) và
đối tượng bị quản lý (bên tiếp nhận sự tác động và thực hiện theo sự tác động
để đạt được mục tiêu của tổ chức).
Thứ ba, hoạt động quản lý bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu xác
định và được thực hiện theo một quá trình, quỹ đạo có sự sắp đặt và kế hoạch
trước. Mục tiêu này chính là căn cứ để chủ thể quản lý bằng phương pháp
quản lý đã tạo ra những chuỗi tác động cụ thể lên đối tượng bị quản lý và
hướng những đối tượng này theo ý muốn. Bởi vậy, tính mục đích luôn là
thuộc tính cơ bản, hữu cơ của hoạt động quản lý.
Thực chất, suy cho cùng, xét dưới góc độ tổ chức – kỹ thuật, bản chất
của quản lý là hoạt động tạo ra sự kết hợp mọi nỗ lực chung của con người
trong tổ chức để sử dụng tốt của cải vật chất thuộc phạm vi sở hữu của tổ
chức, để vừa đạt tới mục tiêu chung của tổ chức, vừa đảm bảo mục tiêu riêng
của từng cá nhân một cách hài hòa nhất.

Vì vậy, theo quan điểm người viết, quản lý có thể được định nghĩa như sau:

8


“Quản lý là sự tác động có tổ chức, có tính định hướng của chủ thể quản lý
lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng,
các cơ hội của tổ chức để hoàn thành những mục tiêu xác định của tập thể.”

Chủ thể quản lý

Phƣơng pháp

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hóa khái niệm quản lý
1.1.1.2. Các chức năng quản lý
Khi nhìn nhận hoạt động quản lý dưới góc độ chức năng hoạt động, một
nhà khoa học Pháp đã khẳng định: “Quản lý là hoạt động của việc lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra hoạt động của các thành viên của một tổ
chức để thực hiện những mục tiêu của tổ chức đó.”[21, tr. 16-17]
Để thực hiện chu trình quản lý hoàn chỉnh, về cơ bản, chức năng quản lý
bao gồm bốn hoạt động sau:
Kế hoạch hóa là quá trình vạch ra các mục tiêu cho tương lai của tổ
chức và quy định cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu đó. Có ba nội
dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hóa:
(i)

Xác định, định hình mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức;

(ii)


Xác định và đảm bảo về nguồn lực của tổ chức để đạt được các mục

tiêu này;
(iii)

Quyết định những hoạt động cần thiết để thực hiện mục tiêu đó

nhanh nhất, khoa học và hiệu quả nhất.

9


Tổ chức là quá trình phân công và phân phối các nhiệm vụ, sắp xếp nguồn lực
để thực hiện mục tiêu. Đây chính là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ
giữa các thành viên, các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm thực hiện thành công
các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Chính nhờ việc tổ chức có
hiệu quả, người quản lý mới có thể phối hợp, điều hành tốt hơn các nguồn nhân lực
và vật lực. Thành công của tổ chức phụ thuộc nhiều vào năng lực của người quản lý
trong việc sử dụng các nguồn lực sao cho hợp lý và hiệu quả.
Chỉ đạo là quá trình điều khiển tổ chức hoạt động theo đúng kế hoạch đã đề
ra. Kiểm tra là quá trình thanh tra, giám sát hoạt động của tập thể. Chức năng

này là hết sức cần thiết để đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức. Đây là
quá trình tự điều chỉnh đối với người quản lý khi diễn ra theo chu trình sau:
(i)

Người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hành động;

(ii)


Người quản lý đối chiếu, đo lường kết quả, sự thành đạt so với những

chuẩn mực đã đặt ra;
(iii)

Người quản lý tiến hành những điều chỉnh sai lệch;

(iv)

Người quản lý hiệu chỉnh, sửa lại chuẩn mực nếu thấy cần thiết.

Những hoạt động này có sự phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, biện
chứng, không thể tách rời. Sự phối hợp này được thể hiện qua sơ đồ sau:
Kế hoạch hóa

Kiểm tra

Lãnh đạo

Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý

10


Nói tóm lại, sự ra đời của hoạt động quản lý là tất yếu. Đồng thời, chính
bản chất, chức năng của hoạt động quản lý đã cho thấy sự cần thiết của nó
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nói như các nhà khoa học, đó là:
“Việc quản lý là thiết yếu, trong mọi sự hợp tác có tổ chức cũng như ở mọi
cấp độ của tổ chức trong một cơ sở.”[20, tr.21]
1.1.2. Quản lý nhà trường

Nhà trường là một thiết chế xã hội thể hiện chức năng tái tạo nguồn nhân lực
phục vụ cho quá trình duy trì, phát triển xã hội. Trường học là những tế bào quan
trọng của hệ thống giáo dục. Những tế bào này có hoạt động tốt, hiệu quả và đúng
mục tiêu, kế hoạch thì hệ thống giáo dục mới thực hiện được đúng đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước. Cũng chính vì lý do này mà chúng ta đã nhấn mạnh:
nhà trường chính là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của quản lý giáo dục. Đồng
thời, chúng ta cũng nhận thấy: thực chất, chính quản lý đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động của nhà trường được vận hành theo đúng mục tiêu, kế hoạch đã
đề ra. Do đó, quản lý nhà trường là sự cần thiết tất yếu đối với môi trường trường
học. Nó là một bộ phận đặc thù, nòng cốt của quản lý giáo dục.

GS.Phạm Minh Hạc nhận định: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường
lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận

hành theo đúng nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu
đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh.”
GS. Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý nhà trường là quản lý hoạt
động dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng
thái khác để dần tiến tới mục tiêu giáo dục.”
Vì vậy, quản lý nhà trường có những đặc trưng sau:
Một là, quản lý nhà trường là bộ phận nhỏ của quản lý giáo dục với
phạm vi áp dụng là trong đơn vị tế bào của hệ thống giáo dục – nhà trường.

11


Hai là, quản lý nhà trường là hoạt động bao gồm hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm
cho nhà trường vận hành theo đúng đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà

điểm hội tụ là quá trình dạy và học, quá trình giáo dục đào tạo toàn diện nhân
cách người học. Vậy nên, quản lý nhà trường phải vận dụng tất cả những
nguyên lý chung của quản lý giáo dục để đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà
trường theo mục tiêu đào tạo.
Ba là, trong quản lý nhà trường, mọi thành viên của nhà trường vừa là
đối tượng quản lý, vừa là chủ thể tự hoạt động.
Bốn là, sản phẩm tạo ra của nhà trường là giá trị người học được hình
thành trong quá trình học tập, tu dưỡng và phát triển theo yêu cầu của xã hội
và được xã hội thừa nhận.
Nói tóm lại, chính tính đặc thù trên đã quyết định đến yêu cầu đối với
quản lý nhà trường là phải toàn diện, khoa học, hợp lý để nhà trường phát
triển bền vững.
Đồng thời, khi xem xét hoạt động quản lý nhà trường, chúng ta cũng cần
nhận thức được: sự thành công hay thất bại của ngành giáo dục đều phụ thuộc
rất lớn vào sự phát triển bền vững của các tế bào nhà trường; muốn thực hiện
có hiệu quả công tác giáo dục phải xem xét đến những điều kiện đặc thù của
mỗi nhà trường, phải chú trọng công tác quản lý giáo dục đối với nhà trường.
Đây chính là điểm cốt lõi, tối quan trọng mà các nhà quản lý phải lưu ý khi
hoạch định chính sách phát triển nền giáo dục quốc gia.
Riêng đối với công tác quản lý nhà trường quân đội, các nhà quản lý khi xây
dựng kế hoạch, định hướng phát triển cần phải: “nhận thức đúng vị trí, vai trò của
nhà trường trong hệ thống các nhà trường quân đội cũng như trong sự nghiệp xây
dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phải thấy rõ
chất lượng đào tạo của nhà trường có ý nghĩa quan trọng, góp phần quyết định

12


chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội” [4, tr.17] để từ đó
xác định những bước đi đúng đắn, hợp lý, phù hợp với tiến trình phát triển

của hệ thống giáo dục và hệ thống quân đội nói chung.
1.1.3. Thiết bị dạy học
1.1.3.1. Khái niệm thiết bị dạy học
Nói đến TBDH là nói đến mặt cơ sở vật chất của kết cấu nhà trường. Nó
vận động, phát triển cùng với nhịp biến đổi của cơ sở vật chất toàn xã hội nói
chung trong từng thời kỳ tiến hóa. Khi xã hội còn ở trình độ phát triển thấp
tương ứng với sự tồn tại của nhà trường ở trạng thái giản đơn, sơ khai thì nội
hàm của TBDH trong nhà trường rất nhỏ, chỉ cần hiểu là những dụng cụ sơ
khai sử dụng trong quá trình dạy học. Nhưng khi xã hội phát triển ở trình độ
cao, sự tham gia sâu rộng của công nghệ khoa học kỹ thuật vào mọi lĩnh vực
của xã hội thì kết cấu vật chất của nhà trường đã phong phú hơn rất nhiều,
kéo theo sự đa dạng trong phạm vi TBDH. Chính sự tác động mạnh mẽ, mang
tính quyết liệt đó đã nảy sinh hiện tượng nhà trường hiện đại với sự xuất hiện
của quá trình đào tạo hiện đại bao gồm nội dung, phương pháp mới và cơ sở
vật chất tiên tiến, bắt kịp thời đại nhằm chuyển tải hiệu quả nhất những thay
đổi trong bản chất nội dung, phương pháp đó. Bởi vậy, TBDH đóng vai trò
như cầu nối các yếu tố trong quá trình chuyển tải nội dung đào tạo.
TBDH còn có những cách gọi khác nhau như công cụ dạy học, phương
tiện dạy học, thiết bị giáo dục, học cụ, đồ dùng dạy học,… nhưng cách gọi
thống nhất và phổ biến nhất vẫn là TBDH.
TBDH là một trong những thành tố của quá trình dạy học, có vai trò quan
trọng ảnh hưởng đến kết quả hoạt động dạy học. Nó là tập hợp những vật mang tin
và truyền tin, đóng vai trò hỗ trợ để thực hiện các mục đích, nhiệm vụ cũng như nội
dung của quá trình dạy học. Hay nói cách khác, TBDH chính là tập hợp toàn bộ
những trang thiết bị đồ dung, dụng cụ phục vụ cho việc giảng dạy và học tập.

13


GS. Nguyễn Ngọc Quang nhìn nhận: “Phương tiện dạy học bao gồm mọi

thiết bị kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp được dùng trong quá trình dạy học
để làm dễ dàng cho sự truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, kỹ xảo”.
Trần Doãn Quới cho rằng: “Phương tiện dạy học là tất cả phương tiện,
vật chất cần thiết giúp đỡ giáo viên hay học sinh tổ chức và tiến hành hợp lý,
có hiệu quả quá trình giáo dục và giáo dưỡng ở các cấp học, ở các lĩnh vực
các môn học để có thể thực hiện những yêu cầu của chương trình giảng dạy.”
Có thể thấy, quan điểm của các nhà khoa học khi nói đến phương tiện
dạy học, chính là nói đến TBDH, thường trọng tâm vào hai ý chính:
i)
ii)

TBDH là bộ phận xuất hiện trong quá trình dạy học;
TBDH được sử dụng nhằm mục đích truyền tải thông tin của quá trình

dạy học tới người học.
Theo quan điểm người viết, cách hiểu đơn giản, ngắn gọn và cơ bản nhất về

TBDH như sau:
“Thiết bị dạy học là bộ phận cơ bản của cơ sở vật chất nhà trường, bao
gồm toàn bộ những dụng cụ, phương tiện được sử dụng nhằm truyền đạt hiệu
quả nội dung của quá trình dạy học.”
Định nghĩa trên đã cho thấy nội hàm của TBDH chứa đựng những đặc
điểm cốt yếu, nổi bật sau:
Một là, TBDH là công cụ thống nhất, biện chứng trong quá trình sử
dụng giữa người dạy và người học. Người dạy sử dụng TBDH như phương
tiện để khai thác thông tin trong quá trình truyền đạt, còn người học tiến hành
những thao tác với TBDH để lĩnh hội kiến thức, luyện tập kỹ năng. Nói cách
khác, cả người dạy và người học đều là chủ thể của quá trình tác động lên
TBDH, cùng nhau hành động tương hợp để chiếm lĩnh nội dung đào tạo, thực
hiện mục tiêu đào tạo và sử dụng phương pháp đào tạo.


14


Hai là, TBDH có tính sư phạm định hướng cao, có tác động tích cực đến
tư tưởng, tình cảm và độ tin cậy, tự tin trong quá trình truyền đạt, lĩnh hội
kiến thức của người dạy và người học.
Ba là, bản thân TBDH không chỉ đơn thuần tồn tại ở dạng tĩnh mang
thông tin mà nó còn thể hiện ở dạng động là vật truyền đạt thông tin.
Bốn là, TBDH là công cụ để giám sát, đánh giá, kiểm tra định tính, định
lượng kết quả của quá trình lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, có tác động quan
trọng giúp cho người dạy nâng cao khả năng tổ chức, điều khiển quá trình dạy
học và thúc đẩy người học biết cách điều chỉnh khả năng tự học của bản thân.

1.1.3.2. Vai trò và yêu cầu của thiết bị dạy học ở trường đại học
Đại học là bậc học chú trọng đến mục tiêu trang bị cho người học những
kiến thức và kỹ năng thực hành nghề nghiệp [5]. Do đó, TBDH càng có vai
trò quan trọng trong quá trình đào tạo, thực hiện hiệu quả chức năng cầu nối
truyền tải thông tin đào tạo.
Thông thường, quá trình đào tạo gồm sáu nhân tố cốt lõi sau:
(i)

Mục tiêu đào tạo;

(ii)

Nội dung đào tạo;

(iii)


Phương pháp đào tạo;

(iv)

Lực lượng đào tạo;

(v)

Đối tượng đào tạo;

(vi)

Thiết bị dạy học.

Trong đó, ba nhân tố: lực lượng đào tạo, đối tượng đào tạo và TBDH là
các lực lượng vật chất mang mục đích hiện thực hóa mục tiêu đào tạo, tái tạo
và sáng tạo nội dung và phương pháp đào tạo.
Trong quá trình đào tạo, TBDH chính là công cụ lao động của lực lượng
đào tạo, là công cụ nhận thức của đối tượng đào tạo, là sự cụ thể hóa của nội
dung dạy học, có vai trò vật chất hóa phương pháp đào tạo, thúc đẩy quá trình

15


hiện thực hóa mục tiêu đào tạo, góp phần làm cho quá trình đào tạo có chất
lượng, hiệu quả.
Chính vì vậy, có quan điểm cho rằng: “Không có sự tương hợp nhau về
nội dung, phương pháp đào tạo với TBDH thì sớm hay muộn sự hiện thực hóa
mục tiêu đào tạo sẽ bị kìm hãm, quá trình đào tạo sẽ bị phá vỡ sự cân đối,
toàn vẹn.”[22, tr.288]

Để thấy được rõ nét hơn tầm quan trọng của TBDH trong quá trình đào
tạo, chúng ta có thể sơ đồ hóa mối quan hệ của sáu thành tố trên như sau:

Mục tiêu
đào tạo

Lực lượng
đào tạo

Nội dung
đào tạo

Thiết bị
dạy học

Sơ đồ 1.3: Mối quan hệ giữa các thành tố của quá trình đào tạo
Qua đó, chúng ta thấy rằng: vai trò của một hệ thống TBDH tốt, đạt
chuẩn là vô cùng quan trọng, hữu dụng khi chính nó cho phép khai thác được
những khả năng sư phạm như:
(i)
(ii)

Nâng cao tốc độ tri giác thông tin của cả người dạy và người học;
Cho phép cả thầy và trò tăng khối lượng kiến thức trong quá trình

trao đổi và giúp tiết kiệm thời gian lĩnh hội;

16



(iii)

Cho phép diễn đạt một cách tường minh, sâu sắc và sinh động những

kiến thức, hiện tượng trừu tượng bằng cách nhiều cách đơn giản, dễ hiểu khác
nhau;
(iv)

Góp phần rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo thông qua hoạt động thường

xuyên với công cụ, phương tiện, kết hợp với trí óc chân tay;
(v)

TBDH tạo ra môi trường sinh động mà trong đó người học đóng vai

trò là chủ thể được hoạt động thực sự với TBDH tạo ra những sự lôi cuốn,
hấp dẫn đối với cả người dạy và người học, phát huy tối đa tích cực tham gia
các hoạt động nhận thức.
Chính vì vai trò quan trọng không thể thay thế được trong quá trình đào
tạo, nên TBDH ở các trường đại học cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, TBDH phải đáp ứng, theo kịp yêu cầu mà mục tiêu, nội dung,
phương pháp đào tạo cho các ngành nghề về số lượng, chủng loại, chất lượng
tương ứng với nhiệm vụ đào tạo của các trường đại học.
Thứ hai, TBDH phải phục vụ hiệu quả cho quá trình dạy học kiến thức
cơ bản, kiến thức chuyên ngành của các ngành đào tạo.
Thứ ba, TBDH phải đáp ứng những đòi hỏi của hoạt động nghiên cứu
khoa học chuyên sâu trong trường đại học.
Thứ tư, TBDH phải đầy đủ, đa dạng, hiện đại và mang tính ứng dụng
cao trong quá trình phục vụ cho các xưởng thực hành, xưởng sản xuất và các
dịch vụ khác.

1.2. Cơ sở lý luận quản lý thiết bị dạy học của trƣờng đại học trong quân
đội 1.2.1. Các quan điểm về GD-ĐT trong quân đội và công tác đầu tư cho
hoạt động đào tạo đối với nhà trường quân đội
Trong giai đoạn hiện nay, các quan điểm về GD-ĐT và công tác đầu tư cho
hoạt động đào tạo của các nhà trường quân đội được tập trung thể hiện sâu sắc
trong hai Nghị quyết mang tính quan trọng, chiến lược của Đảng uỷ quân sự

17


Trung ương là Nghị quyết 93/ĐUQSTW ngày 01/06/1994 và Nghị quyết
86/NQ-ĐUQSTW ngày 29/03/2007.
1.2.1.1. Quan điểm về công tác giáo dục-đào tạo trong quân đội
Nghị quyết số 93/ĐUQS TW 01/06/94 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về
“Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ nhân viên chuyên môn kỹ thuật và xây
dựng nhà trường chính quy” đã xác định tư tưởng chỉ đạo và biện pháp thực hiện
công tác GD-ĐT là: “Kết hợp chặt chẽ hệ thống các nhà trường quân đội với hệ
thống các nhà trường ngoài quân đội trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân
viên chuyên môn kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, tiếp tục chấn chỉnh hệ thống
nhà trường, đẩy mạnh xây dựng nhà trường chính quy, từng bước hiện đại. Nâng
cao chất lượng đào tạo trong thời bình, hình thành một số trung tâm đào tạo
mạnh trên các vùng chiến lược. Tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo và xây
dựng các trường tương ứng với các trường ngoài quân đội.”
Tiếp đó, quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội Đảng X,
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về GD-ĐT, Nghị quyết Trung ương 8 khóa
IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ Quân đội lần thứ VIII, Nghị quyết số 51/NQ/TW của Bộ chính trị và Nghị
quyết 513-NQĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương về tiếp tục hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, Nghị quyết số 86/NQ-ĐUQSTW ngày
29/03/2007 về công tác GD-ĐT đã xác định phương hướng chỉ đạo:

-

Phát triển GD-ĐT là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng

hàng đầu của cấp ủy và chỉ huy các cấp, các ngành trong Quân đội. Tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư nguồn lực về con người, ngân sách và có chính sách
ưu tiên phù hợp để GD-ĐT phát triển trước một bước.
-

Phát triển GD-ĐT phải đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân

Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng
về chính trị làm cơ sở; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc

18


trong tình hình mới; gắn GD-ĐT với sự phát triển của yêu cầu tác chiến, trang
bị, khoa học và công nghệ hiện đại; gắn kết quả đào tạo với tuyển chọn, sử
dụng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ.
-

Gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp bồi dưỡng kiến thức, năng lực tư duy

với rèn luyện năng lực thực hành; chú trọng truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu
và giáo dục truyền thống cho người học. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo;
kết hợp chặt chẽ đào tạo tại trường với đào tạo tại đơn vị, đào tạo với tự đào
tạo liên tục trong quá trình công tác. Thực hiện tốt liên thông đào tạo giữa các
trường Quân đội với các trường trong hệ thống giáo dục quốc gia.
- Nâng cao khả năng đào tạo của Bộ Quốc phòng; đồng thời, gắn với việc huy


động nguồn lực của toàn xã hội để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng

GD-ĐT. Nhà trường Quân đội phải đi đầu trong đào tạo về khoa học công
nghệ, một số lĩnh vực trọng yếu cần được ưu tiên hàng đầu.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước đã xác định việc đầu
tư cho giáo dục nói chung, hệ thống các nhà trường nói riêng (trong đó có nhà
trường quân đội) để đổi mới toàn diện về: nội dung, chương trình đào tạo;
phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy; tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật
chất cho giáo dục… là vô cùng quan trọng và cần thiết.
1.2.1.2. Quan điểm về công tác đầu tư cho hoạt động đào tạo của các nhà
trường quân đội
Nghị quyết 93/ĐUQSTW về tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ,
nhân viên chuyên môn, kỹ thuật và xây dựng nhà trường chính quy, chỉ đạo
phải đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho hoạt động đào tạo:
-

Tăng tỷ trọng đầu tư cho công tác đào tạo, tập trung xây dựng cơ bản cho

các trường trọng điểm. Thường xuyên điều động bổ sung những trang bị kỹ thuật
mới cần thiết cho các trường, bảo đảm trang bị cho công tác giáo dục đào tạo tại

19


trường không lạc hậu mà đi trước đơn vị và tương ứng với các trường ngoài
quân đội. Đầu tư hợp lý một phần kinh phí cho việc tạo nguồn.
-

Đề nghị Nhà nước tăng đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của quân


đội, đi đôi với phát huy tính năng động, sang tạo, tự lực của các cấp, các ngành,
các nhà trường, đơn vị để cải thiện điều kiện ăn ở, giảng dạy và học tập.

Nghị quyết 86/ĐUQSTW khẳng định phải tăng cường đầu tư về cơ sở
vật chất cho các nhà trường: tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho các
nhà trường về cơ sở vật chất, đáp ứng lưu lượng và yêu cầu nâng cao chất
lượng đào tạo. Trong đó, phải xác định rõ thứ tự ưu tiên, trước mắt bảo đảm
nhu cầu về chỗ ở, khu học tập, làm việc; xây dựng xong các trường trọng
điểm và đẩy nhanh tiến độ xây dựng gọn một số hạng mục thiết yếu trong các
học viện, nhà trường khác. Nâng dần tỷ lệ đầu tư xây dựng cơ bản, phấn đấu
đến năm 2010 đảm bảo đủ chỗ ở, học tập, làm việc của các nhà trường.
Đầu tư xây dựng sở chỉ huy diễn tập của một số học viện, trường; tập
trung đầu tư nâng cấp thao trường, bãi tập, trung tâm huấn luyện dã ngoại, thư
viện, phòng học chuyên ngành, cơ sở thực hành. Ưu tiên đầu tư phòng thí
nghiệm công nghệ cao cho một số ngành mũi nhọn phục vụ nghiên cứu, giảng
dạy, thực hành và sản xuất; sử dụng tốt các trang bị hiện có, mua sắm, điều
động vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới cho nhà trường.
1.2.2. Đặc điểm giáo dục - đào tạo của nhà trường quân đội
1.2.2.1. Đặc điểm hệ thống giáo dục- đào tạo trong quân đội
-

Theo Luật giáo dục 2005, hệ thống nhà trường quân đội nằm trong hệ

thống giáo dục quốc dân, thuộc các trường của lực lượng vũ trang nhân dân,
có nhiệm vụ: “Đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp và công nhân quốc phòng; bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý
nhà nước về nhiệm vụ và kiến thức quốc phòng, an ninh”.

20



-

Hệ thống tổ chức nhà trường quân đội bao gồm:

(i)

Các học viện, trường sĩ quan, trường đại học, cơ sở đào tạo sau đại học;

(ii)

Các trường quân sự quân khu, quân đoàn;

(iii)

Các trường quân sự tỉnh, thành phố;

(iv)

Các trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề;

(v)

Các trường, lớp thiếu sinh quân.

Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, đến nay hệ thống nhà
trường quân đội gồm có: 9 học viện, 10 trường sĩ quan, 1 trường đại học, 1
trường cao đẳng, 15 trường trung cấp chuyên nghiệp, 1 trường kỹ thuật, 1
trường hạ sĩ quan, 12 trường quân sự quân khu quân đoàn, 2 trường thiếu sinh

quân, 2 trường cao đẳng nghề, 15 trường trung cấp nghề và 63 trường quân sự
địa phương, tỉnh (thành phố) trực thuộc trung ương.
Công tác GD-ĐT trong quân đội vừa phải tuân thủ theo các yêu cầu,
nguyên tắc, nội dung công tác đào tạo chung của giáo dục quốc gia, vừa phải
phù hợp với đặc thù của hệ thống tổ chức quân đội.
1.2.2.2. Đặc điểm đào tạo
Các nhà trường quân đội là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân
nên cũng có những đặc điểm chung như các trường ngoài quân đội. Nhưng GDĐT trong các nhà trường quân đội là một hoạt động của lực lượng vũ trang nên
nó có những đặc điểm riêng, nghiên cứu những đặc điểm này là cơ sở quan trọng
để nâng cao chất lượng công tác đầu tư, quản lý và sử dụng trang TBDH.

- Đào tạo theo kế hoạch và có địa chỉ: Căn cứ vào tổ chức, biên chế của
các đơn vị, Bộ Quốc phòng lập kế hoạch đào tạo và giao nhiệm vụ đào tạo
cho các trường. Học viên tốt nghiệp được phân công về các đơn vị theo kế
hoạch, quy hoạch được xác định trước. Không có tình trạng học viên ra
trường không có việc làm.

21


-

Kinh phí đào tạo: Do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ thông qua

ngân sách quốc phòng. Người học không phải đóng học phí, được bảo đảm
toàn bộ chi phí về học liệu, được hưởng phụ cấp theo cấp bậc quân hàm và
các chế độ khác của người quân nhân.
-

Nghề nghiệp chỉ gắn với quân đội, ngoài một số chuyên ngành có khả


năng thích ứng với nền kinh tế quốc dân như quân y, thông tin, kỹ thuật…,
hầu hết các ngành chỉ ứng dụng trong lực lượng vũ trang. Học viên học tại
các nhà trường quân đội là xác định con đường binh nghiệp của mình. Về cơ
bản họ phục vụ quân đội suốt cuộc đời. Vì vậy, quá trình đào tạo trong các
nhà trường quân đội luôn gắn chặt với tính kỷ luật cao. Việc học tập, rèn
luyện phải tuân theo điều lệnh kỷ luật bộ đội. Các hoạt động từ học tập đến
các chế độ sinh hoạt hàng ngày được quản lý chặt chẽ.
Như vậy, đào tạo ở các nhà trường quân đội có nhiều điểm khác so với
các trường ngoài quân đội. Những đặc điểm về đào tạo đòi hỏi công tác đầu
tư, quản lý, sử dụng trang thiết bị phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu nâng
cao chất lượng đào tạo.
1.2.2.3. Đặc điểm tổ chức quá trình đào tạo
Xuất phát từ nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt đối
với quân đội, và xuất phát từ yêu cầu về phẩm chất và năng lực người cán bộ.
Việc tổ chức quá trình đào tạo ở các trường quân đội có những đặc điểm sau:
-

Cơ cấu ngành đào tạo: đào tạo theo danh mục, Bộ Quốc phòng quản lý.

-

Quy mô đào tạo: theo chỉ tiêu của Bộ Quốc phòng.

- Mục tiêu đào tạo: nhà trường đề xuất, Bộ Quốc phòng phê duyệt và quản lý.
-

Chương trình nội dung: Thực hiện theo chương trình khung đã được

Bộ GD&ĐT ban hành. Nội dung và hình thức huấn luyện do bộ môn, khoa

xác định, nhà trường quản lý.
-

Tuyển sinh: thi tuyển quốc gia theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và đào

tạo, Cục Nhà trường tổ chức.

22


×