Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

Sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử việt nam từ năm 1919 đến 1945 lớp 9, trường trung học cở sở tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.48 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
---------------------

NGUYỄN HẢI YẾN

SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO
HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1919 ĐẾN 1945
LỚP 9, TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TỈNH YÊN BÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ

HÀ NỘI – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
---------------------

NGUYỄN HẢI YẾN

SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO
HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1919 ĐẾN 1945
LỚP 9, TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TỈNH YÊN BÁI
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)
Mã số: 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Đình Tùng



HÀ NỘI – 2012


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn................................................................................................................................................ i
Danh mục viết tắt.................................................................................................................................. ii
Danh mục các bảng.............................................................................................................................. iii
Mục lục..................................................................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
TÀI LIỆUVĂN HỌC NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở TRƢỜNG TRUNG
HỌC CƠ SỞ.......................................................................................................................................... 9
1.1. Cơ sở lý luận................................................................................................................................... 9
1.1.1. Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông................................... 9
1.1.2. Đặc trưng của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông................................................... 11
1.1.3. Đặc điểm tâm lý và quá trình nhận thức của học sinh trung học cơ sở...............13
1.1.4. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông....................15
1.1.5. Quan niệm về tài liệu văn học và mối quan hệ giữa văn học với lịch sử...........16
1.1.6. Quan niệm về hứng thú trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông...................... 23
1.1.7. Ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập
cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam............................................................................ 26
1.2. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................................................. 31
1.2.1. Thực tiễn việc dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở tỉnh Yên Bái...............31
1.2.2. Thực tiễn việc sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho
học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9, trường
THCS tỉnh Yên Bái............................................................................................................................. 32
Chƣơng 2: CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC NHẰM

TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRONG DẠY
HỌCLỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1919 ĐẾN 1945

LỚP 9, TRƢỜNG

TRUNG HỌC CƠ SỞ TỈNH YÊN BÁI. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM................39
2.1. Mục tiêu và nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 ở
trường Trung học cơ sở...................................................................................................................... 39
2.1.1. Mục tiêu...................................................................................................................................... 39
2.1.2. Nội dung kiến thức cơ bản................................................................................................... 40


2.2. Các tài liệu văn học cần khai thác sử dụng trong dạy học lịch sử Việt
Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9, trường trung học cơ sở........................................................... 42
2.3. Những yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập
cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919-1945 lớp 9, trường
trung học cơ sở tỉnh Yên Bái........................................................................................................... 45
2.3.1. Đáp ứng mục tiêu dạy học.................................................................................................... 45
2.3.2. Đảm bảo nguyên tắc liên môn............................................................................................ 46
2.3.3. Tạo được hứng thú học tập cho học sinh trong quá trình học tập........................ 49
2.3.4. Kết hợp nhuần nhuyễn các con đường, biện pháp, thao tác sư phạm..................50
2.4. Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho
học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9, trường trung
học cơ sở tỉnh Yên Bái....................................................................................................................... 50
2.4.1. Trong giờ nội khóa.................................................................................................................. 51
2.4.2. Sử dụng tài liệu văn học trong các hình thức hoạt động ngoại khoá...................59
2.5. Thực nghiệm sư phạm............................................................................................................... 66
2.5.1. Mục đích của việc thực nghiệm sư phạm....................................................................... 66
2.5.2. Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm................................................................................ 66
2.5.3.Đối tượng, địa bàn trường học và giáo viên thực nghiệm sư phạm.......................66

2.5.4. Nội dung và phương pháp tiến hành thực nghiệm...................................................... 68
2.5.5. Kết quả thực nghiệm.............................................................................................................. 69
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ............................................................................................. 74
1. Kết luận............................................................................................................................................... 74
2. Khuyến nghị...................................................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................. 77
PHỤ LỤC............................................................................................................................................... 79


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. GV:
2. HS:
3.

THCS:Trung học cơ sở

4.

SGK:Sách giáo khoa

5.

SGV:Sách giáo viên


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê những tài liệu văn học.............................................................................. 42
Bảng 2.2. Tổng hợp điểm kiểm tra............................................................................................... 71
Bảng 2.3. Tổng hợp kết quả thực nghiệm toàn ph................................................................ 71

Bảng 2.4. Giá trị t và tα của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng.............................72


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế hội nhập thế giới hiện nay, để đạt đƣợc tiêu chí “hoà nhập nhƣng
không hoà tan”, chúng ta phải chú trọng đến việc giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền
thống tốt đẹp của dân tộc cho thế hệ trẻ. Môn Lịch sử ở trƣờng phổ thông là một
môn học có tiềm năng bồi đắp tích cực cho HS về những yếu tố này. PGS.TS.
Nguyễn Thị Côi trong bài viết “Làm thế nào để học sinh nắm vững kiến thức trong
dạy học Lịch sử ở trƣờng phổ thông” đăng trên Tạp chí Giáo dục số 172 (kỳ 29/2007) có viết: “Bộ môn Lịch sử ở trƣờng phổ thông có ƣu thế đặc biệt trong việc
phát triển con ngƣời toàn diện, vừa có tri thức khoa học, có tƣ tƣởng đạo đức đúng
đắn, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa có khả năng tự lập, linh hoạt, sáng tạo…trong
cuộc sống”. [10, tr. 29].
Chính vì vậy, ngƣời GV lịch sử phải xác định đúng vị trí, chức năng, nhiệm vụ
bộ môn Lịch sử trong đào tạo thế hệ trẻ; phải phân tích sâu sắc mối liên hệ giữa
Lịch sử với những bộ môn khác để từ đó tìm ra những phƣơng pháp dạy học phù
hợp, đạt hiệu quả giáo dục cao.
Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng phải đa dạng hoá các nguồn thông tin bằng
nhiều phƣơng tiện, phƣơng pháp dạy học, trong đó tài liệu tham khảo là nguồn kiến
thức không thể thiếu đƣợc trong quá trình giảng dạy.
Có thể nói, lịch sử liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hoá… Chúng ta có thể tìm thấy lịch sử trong hầu hết các môn khoa
học. Nhƣng gần gũi nhất với lịch sử chính là ngành khoa học Xã hội - Nhân văn,
trong đó nổi bật là bộ môn Văn học.
Tài liệu văn học là một loại tƣ liệu lịch sử, là nguồn thông tin không thể thiếu
trong dạy học lịch sử, nhất là chƣơng trình lịch sử dân tộc. Do đặc trƣng của bộ
môn, kiến thức lịch sử là những kiến thức quá khứ, HS khó học, khó nhớ nên khi
GV sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ giúp HS hứng thú hơn, có sự
hình dung đa dạng về quá khứ, tạo đƣợc biểu tƣợng sinh động, chính xác về các sự

kiện, hiện tƣợng lịch sử. Từ đó các em có thể dễ dàng lĩnh hội các thuật ngữ, hình
thành các khái niệm lịch sử, nắm đƣợc những kết luận khoa học mang tính khái
quát. Mặt khác, nó còn có tác dụng trong việc giáo dục tƣ tƣởng, tình cảm đạo đức


và hình thành nhân cách cho HS. Có những tác phẩm văn học gắn liền với tên đất,
tên ngƣời cụ thể, gần gũi với cuộc sống, qua đó mà gợi ở các em lòng biết ơn, tôn
kính cha anh; góp phần bồi dƣỡng tình yêu quê hƣơng đất nƣớc. Đây cũng chính là
cội nguồn của lòng yêu nƣớc, tự hào dân tộc.
Thực tiễn dạy học Lịch sử ở trƣờng THCS trên địa bàn tỉnh Yên Bái hiện nay,
mặc dù các GV đã có nhiều cố gắng nhƣng việc sử dụng tài liệu văn học vẫn còn
nhiều hạn chế nhƣ: Tài liệu văn học nghèo nàn, GV chƣa thực sự quan tâm, ít đầu
tƣ thời gian và công sức để sƣu tầm, lựa chọn; việc sử dụng tài liệu mới chỉ dừng ở
mức độ minh hoạ, làm rõ thêm sự kiện chứ chƣa xem đây là nguồn kiến thức cần
phải có trong mỗi bài giảng. Trong quá trình lên lớp, GV còn lúng túng trong việc
xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung, thời lƣợng và mức độ vận dụng vào việc dạy
học từng phần từng bài cụ thể. Chính vì vậy, HS cảm thấy giờ học nặng nề, không
thích học. Hơn nữa, Yên Bái lại là một tỉnh miền núi, kinh tế nghèo nàn, địa hình
phức tạp, số lƣợng HS là ngƣời dân tộc thiểu số cao. Ngoài giờ lên lớp, hầu hết quỹ
thời gian còn lại các em phải lao động giúp gia đình. Bởi vậy, quá trình tự tìm tòi,
nghiên cứu tài liệu tham khảo để khắc sâu kiến thức ở các em rất hạn chế. Tất cả
những vấn đề trên đã dẫn đến chất lƣợng giáo dục bộ môn lịch sử ở trƣờng THCS
tỉnh Yên Bái chƣa cao, chƣa tạo ra mối gắn kết tình cảm và tinh thần trách nhiệm
của HS đối với quê hƣơng, đất nƣớc. Điều đó ảnh hƣởng không nhỏ tới việc hình
thành và phát triển nhân cách ở các em.
Là một GV trực tiếp đứng lớp giảng dạy bộ môn Lịch sử trên địa bàn tỉnh, tôi
luôn trăn trở về những vấn đề: Làm thế nào để GV chọn lựa ra hệ thống các tài liệu
văn học chân thực, sinh động, bám sát tiến trình lịch sử? Làm thế nào để GV có thể
kết hợp một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo giữa tri thức văn học với tri thức lịch sử
để quá trình dạy - học đạt hiệu quả cao? Đây là những “điểm nóng”mang tính cấp

thiết mà chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu, phân tích và tìm ra lời giải đáp trong cuốn
Luận văn này.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Sử dụng tài liệu Văn học nhằm
tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945
lớp 9, trường THCS tỉnh Yên Bái” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ khoa học
giáo dục, chuyên ngành Lý luận và Phƣơng pháp dạy học lịch sử.


2. Lịch sử vấn đề:
Vấn đề sử dụng tài liệu tham khảo nói chung và tài liệu văn học nói riêng đã
đƣợc các nhà lý luận dạy học trong và ngoài nƣớc đặc biệt quan tâm. Dƣới đây là
một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của chúng tôi:
2.1. Tài liệu nước ngoài
Trong cuốn giáo trình “Phƣơng pháp giảng dạy Lịch sử ở trƣờng phổ thông trung
học”, A.A.Vaghin đã khẳng định: “Tài liệu kiến thức lịch sử chiếm một vị trí quan
trọng trong khoá trình lịch sử ở trƣờng phổ thông. Việc lĩnh hội tài liệu ấy là điều kiện
cần thiết để làm cho học sinh có quan niệm Mác xit - Lênin nít về lịch sử” [1, tr. 19].

N.G.Đai ri trong cuốn “Chuẩn bị giờ học Lịch sử nhƣ thế nào” khi đề cập đến
yêu cầu đối với giờ học Lịch sử, ông đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của
nguồn tài liệu tham khảo. Ông cho rằng để có một giờ học đạt hiệu quả GV bắt buộc
phải biết rõ những thành tựu của khoa học lịch sử và các khoa học giáo dục, những
vấn đề mà khoa học đang giải quyết, phải biết tất cả những hiện tƣợng quan trọng
nhất của đời sống chính trị xã hội và văn hoá … GV “phải sử dụng không ngừng và
có hệ thống tất cả mọi nguồn tƣ liệu muôn hình muôn vẻ: tác phẩm kinh điển, văn
kiện của Đảng và Nhà nƣớc, sách chuyên khảo, sách giáo khoa, sách báo tạp chí,
tác phẩm hội hoạ, những cuộc tham quan” [20, tr. 10]. Bởi vì những tài liệu lịch sử
cũng nhƣ các tài liệu khoa học khác đã nâng sự hiểu biết của HS về quá khứ lên
một trình độ mới. Từ việc khẳng định vai trò và tầm quan trọng của các nguồn tài
liệu học tập trong dạy học lịch sử, ông đã khái quát thành sơ đồ để giúp GV biết

cách khai thác nội dung trong SGK, kết hợp với phần tài liệu tham khảo để đƣa vào
bài giảng của mình. Đairi nhấn mạnh: Phải “lựa chọn tài liệu khéo léo, nhằm mục
đích làm cho giờ học đem lại sự phong phú về mặt kiến thức, tình cảm, tƣ duy, ý
nghĩa của chúng đối với sự hình thành khái niệm, đối với việc phát triển tƣ duy và
giáo dục đạo đức cho học sinh, đƣa vào bài học tất cả những yếu tố cần thiết cho
việc xây dựng nhận thức lịch sử hoàn chỉnh” [20, tr. 25].
I.F.Khalamốp trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh nhƣ thế
nào?” đã khẳng định: “Vấn đề sử dụng sách giáo khoa và tài liệu học tập… có lịch
sử của nó mà theo chúng tôi có những điều bổ ích đáng học hỏi…” bởi vì “… trong
quá trình làm việc với sách giáo khoa và tài liệu học tập, học sinh nắm vững và


củng cố đƣợc kiến thức, đồng thời các em tiếp thu đƣợc kỹ năng, kĩ xảo” [14, tr.
37]. Ông còn khẳng định: “Tài liệu học tập tự nó đã chứa đựng nhiều yếu tố kích
thích động viên tính ham hiểu biết và tính tích cực tƣ duy của học sinh” [14, tr. 88].
Trên đây là một số tài liệu tiêu biểu của các tác giả nƣớc ngoài. Tất cả họ đều
nhấn mạnh đến sự cần thiết phải sử dụng tài liệu dạy học ở trƣờng phổ thông bởi nó
sẽ góp phần nâng cao kiến thức, bồi dƣỡng tƣ tƣởng tình cảm và phát huy đƣợc
năng lực nhận thức độc lập, sáng tạo cho HS. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn
đƣa ra những cơ sở lý luận, cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn quý giá cho việc
sử dụng tài liệu học tập sao cho phù hợp với đối tƣợng, cấp học, đặc trƣng vùng
miền… Đây chính là cơ sở quan trọng đầu tiên để chúng tôi dựa vào đó mà triển
khai các nhiệm vụ của đề tài.
2.2. Tài liệu trong nước
Thái Duy Tuyên trong cuốn: “Những vấn đề cơ bản của giáo dục hiện đại” cho
rằng việc sử dụng các tƣ liệu trong dạy học là vô cùng cần thiết. Nó có tác dụng
nâng cao hiệu quả bài học, làm phong phú vốn kiến thức cho HS…
Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt trong cuốn “Giáo dục học” đã nêu lên tầm quan
trọng của các tài liệu trong nội dung dạy học. Các ông đã phân tích rõ ý nghĩa của
các nguồn tài liệu ngoài sách SGK và nêu lên cách sử dụng, yêu cầu sử dụng những

nguồn tài liệu đó trong dạy học và các bộ môn ở trƣờng phổ thông.
Trịnh Đình Tùng trong cuốn “Phƣơng pháp dạy học lịch sử” - Tập II, xuất bản
năm 2010 đã khẳng định: “Do đặc trƣng của việc học tập lịch sử, các loại tài liệu
tham khảo, học tập khác (ngoài sách giáo khoa) góp phần nhất định vào việc khôi
phục, tái hiện hình ảnh quá khứ. Các loại tài liệu này là căn cứ khoa học, bằng
chứng về tính chính xác, tính cụ thể, phong phú của sự kiện lịch sử mà học sinh cần
thu nhận; nó giúp các em khắc phục việc “hiện đại hoá” lịch sử, hoặc “hƣ cấu” sai
sự thực” [17, tr. 66].
Cũng tác giả Trịnh Đình Tùng, trong cuốn: “Hệ thống các phƣơng pháp dạy học
lịch sử ở trƣờng trung học cơ sở” xuất bản năm 2006, ông viết: “Các tác phẩm văn học
có vị trí, vai trò to lớn trong việc dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông nói chung, trƣờng
THCS nói riêng…, các tác phẩm văn học bằng hình tƣợng cụ thể, có tác động mạnh mẽ
đến tƣ tƣởng, tình cảm ngƣời đọc, trình bày những nét đặc trƣng,


điển hình của đời sống xã hội. Giữa văn học và các khoa học nói chung, Sử học nói
riêng có mối quan hệ khăng khít… Sử dụng các tác phẩm văn học sẽ có tác dụng
làm cho bài giảng lịch sử thêm sinh động, hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của
học sinh” [26, tr. 123].
Trong cuốn: “Đổi mới phƣơng pháp dạy học Lịch sử ở trƣờng phổ thông” do
GS.TS. Phan Ngọc Liên chủ biên, xuất bản năm 2005, có bài viết: “Tích hợp kiến thức
các bộ môn khoa học xã hội trong dạy học Lịch sử ở trƣờng phổ thông” của tác giả
Nguyễn Anh Dũng có viết rằng: “Việc tích hợp kiến thức các môn học, chủ yếu về khoa
học xã hội, đem lại nhiều kết quả: tiết kiệm thời gian dạy học, củng cố và phát triển
kiến thức lịch sử, phát huy tính tích cực, năng động của học sinh và gây hứng thú học
tập. Do đó, chất lƣợng dạy học bộ môn đƣợc nâng lên” [16, tr. 102].

Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí nghiên cứu giáo dục, nghiên
cứu lịch sử; các bài tham gia hội thảo về đổi mới phƣơng pháp dạy học lịch sử; các
luận án, luận văn ngành lý luận và phƣơng pháp dạy học bộ môn lịch sử đã ít nhiều

đề cập đến vấn đề này nhƣ:
- Hoàng Đình Chiến - Về việc sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch
sử

-

PTTH hiện nay - Nghiên cứu lịch sử số 3, 1998.
Mai Văn Năm - Tích hợp trong dạy học lịch sử ở trường THCS - Tạp chí Giáo

dục số 166, 2007.
-

Phạm Văn Thiện - Sử dụng kiến thức văn học, địa lý, chính trị trong giờ học

Lịch sử ở trường PTTH theo nguyên tắc liên môn - Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Hà
Nội…
Các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đây đã nêu rõ những vấn đề lý
luận về việc sử dụng tài liệu tham khảo nói chung và tài liệu văn học nói riêng trong
quá trình dạy học bộ môn. Ở đây, các tác giả đều khẳng định vai trò, ý nghĩa và đƣa
ra các cách sử dụng tài liệu. Từ những kết quả nghiên cứu giá trị của các bậc đi
trƣớc, chúng tôi tiếp thu, chọn lọc và từng bƣớc tìm hiểu sâu hơn việc sử dụng tài
liệu văn học sao cho phù hợp với địa bàn tỉnh Yên Bái nhằm tạo hứng thú học tập
cho HS trong dạy học lịch sử dân tộc ở từng giai đoạn nhỏ để giúp GV đỡ lúng túng
hơn, đạt hiệu quả cao hơn khi sử dụng loại tài liệu này.


3.

Đối tƣợng nghiên cứu


Quá trình sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy
học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9, trƣờng THCS tỉnh Yên Bái.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu việc sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học
tập cho HS trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919-1945 lớp 9, trƣờng THCS trên
địa bàn tỉnh Yên Bái.
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi lựa chọn nguồn tài liệu văn học cần thiết
và đề xuất hƣớng sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 ở 3
trƣờng: Trƣờng THCS Xuân Ái, trƣờng THCS Thị trấn Cổ Phúc, trƣờng THCS
Kiên Thành.
5.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt
Nam từ 1919 đến 1945 (lớp 9) của GV trƣờng THCS tỉnh Yên Bái để xác định các
loại tài liệu văn học có thể sử dụng và đề xuất các biện pháp sử dụng góp phần nâng
cao hiệu quả dạy học bộ môn lịch sử ở tỉnh Yên Bái.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề sử dụng tài liệu tham khảo nói chung và

tài liệu văn học nói riêng trong dạy học lịch sử dân tộc.
-

Khảo sát, đánh giá tình hình thực tiễn việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy

học lịch sử Việt Nam ở một số trƣờng THCS của tỉnh Yên Bái để làm nền tảng cho

việc giải quyết vấn đề của đề tài.
- Tìm hiểu chƣơng trình, nội dung SGK lịch sử lớp 9 [phần lịch sử Việt Nam
(1919-1945)] và tài liệu văn học thời kỳ này để xác định những nội dung văn học có
thể và cần sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam.
-

Hệ thống hoá và đề xuất những biện pháp sƣ phạm có tính khả thi nhằm tạo

hứng thú học tập cho HS trong việc tổ chức dạy học trên lớp cũng nhƣ ngoài giờ
học.
-

Qua thực nghiệm khẳng định hiệu quả sƣ phạm của các biện pháp đã đề xuất,

từ đó rút ra những kết luận về tính khả thi của các biện pháp đƣợc tiến hành.


6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
-

Dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm

đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc về giáo dục phổ thông nói chung và giáo dục lịch
sử nói riêng.
-

Lý luận về tâm lý, giáo dục học, phƣơng pháp dạy học lịch sử của các nhà

giáo dục, giáo dục lịch sử.

6.2. Phương pháp nghiên cứu
-

Nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu giáo dục học, giáo dục lịch sử,

chƣơng trình nội dung SGK lịch sử lớp 9 THCS, tài liệu văn học liên quan đến đề
tài nghiên cứu.
- Nghiên cứu thực tiễn:
+

Tiến hành điều tra cơ bản việc dạy học lịch sử ở trƣờng THCS trên địa bàn

tỉnh Yên Bái bằng nhiều hình thức khác nhau nhƣ: dự giờ, quan sát, kiểm tra, đánh
giá HS; trao đổi với GV, HS, những ngƣời quản lý chuyên môn… Điều tra xã hội
học thông qua phiếu điều tra GV và HS để đánh giá mức độ, thực trạng việc sử
dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử.
+

Phƣơng pháp thực nghiệm: Soạn - giảng theo dự kiến về những biện pháp mà

luận văn đƣa ra để kiểm tra giả thiết và hiệu quả của các biện pháp sƣ phạm đã đề
xuất.
+

Phƣơng pháp thống kê toán học: Tập hợp và xử lý các số liệu thu đƣợc giữa

lớp thực nghiệm và lớp đối chứng bằng cách lập bảng thống kê số liệu để rút ra
những kết luận khoa học về các biện pháp sƣ phạm mà luận văn đã đề xuất.
+


Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh kết quả thực nghiệm để rút ra kết

luận sƣ phạm.
7.

Giả thuyết khoa học
Nếu GV vận dụng các biện pháp sử dụng tài liệu văn học theo yêu cầu mà luận

văn đƣa ra sẽ góp phần tạo hứng thú học tập cho HS và nâng cao chất lƣợng dạy
học lịch sử ở trƣờng THCS tỉnh Yên Bái.
8. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài
8.1. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học:


Góp phần làm phong phú thêm lý luận về việc sử dụng tài liệu văn học trong
dạy học lịch sử Việt Nam để nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp GV giảng dạy lịch sử nắm chắc
nội dung tài liệu văn học cần thiết và các yêu cầu, phƣơng pháp sử dụng chúng để
tạo thú học tập cho HS trong quá trình dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945
lớp 9 ở trƣờng THCS trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
8.2. Đóng góp của đề tài
-

Đề tài xác định đƣợc những tài liệu văn học có liên quan đến nội dung lịch sử

Việt Nam từ 1919 đến 1945 (ở lớp 9), sự cần thiết và mức độ sử dụng nó trong các
bài giảng.
-


Đề tài khẳng định rõ vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu văn học trong

dạy học lịch sử và đề xuất các biện pháp sử dụng mang tính khả thi nhằm nâng cao
chất lƣợng dạy học bộ môn lịch sử ở tỉnh Yên Bái.
-

Đề tài góp phần hoàn chỉnh thêm hệ thống cơ sở lý luận cho việc sử dụng tài

liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam.
9.

Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội

dung chính của luận văn đƣợc trình bày trong 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng tài liệu văn học nhằm
tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trƣờng Trung
học sơ sở
Chƣơng 2: Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập
cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 lớp 9, trƣờng Trung
học cơ sở tỉnh Yên Bái. Thực nghiệm sƣ phạm


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN
HỌC NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông
Đất nƣớc ta đang bƣớc vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hoá, với mục tiêu
đến năm 2020 trở thành nƣớc công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Trong
bối cảnh đó, đặt ra những yêu cầu mới đối với phẩm chất và năng lực của ngƣời lao
động. Để đáp ứng đƣợc yêu cầu này, cần phải nâng cao chất lƣợng giáo dục. Luật
Giáo dục đƣợc nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày
25/12/2001 đã nêu: “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con ngƣời Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành
với lí tƣởng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dƣỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc” [18, tr 8].
Từ mục tiêu chung của nền giáo dục; từ mục tiêu cấp học; từ quan điểm, đƣờng
lối của Đảng về sử học và giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương
trình giáo dục phổ thông – Môn Lịch sử (tháng 5/2006) trong đó có xác định mục
tiêu môn Lịch sử nhƣ sau: “Môn Lịch sử ở trƣờng phổ thông nhằm giúp cho học
sinh có đƣợc những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế
giới; góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê
hƣơng, đất nƣớc, truyền thống dân tộc, cách mạng; bồi dƣỡng năng lực tƣ duy,
hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội” [6, tr 3].
Vậy để hoàn thành đƣợc mục tiêu trên, ngƣời GV lịch sử cần thực hiện những
nhiệm vụ cơ bản sau:
_ Về kiến thức, giúp HS lĩnh hội đƣợc những kiến thức cơ bản về lịch sử dân
tộc và lịch sử thế giới, giúp các em có đƣợc biểu tƣợng chân thật về quá khứ lịch sử
bao gồm: sự kiện lịch sử cơ bản, nhân vật tiêu biểu, thời gian, không gian, các khái


niệm, thuật ngữ, những hiểu biết về quan niệm lí luận sơ giản, những vấn đề về
phƣơng pháp nghiên cứu và học tập, phù hợp với yêu cầu và trình độ HS. Các em
không những biết, hiểu lịch sử mà còn phải vận dụng những tri thức lịch sử vào giải
quyết các bài tập lịch sử để củng cố tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo và các

phƣơng pháp tƣ duy, đặc biệt là tƣ duy độc lập sáng tạo.
_ Về kỹ năng, giúp HS tiếp tục hoàn thành các kĩ năng cần thiết, cụ thể là:
+

Bồi dƣỡng tƣ duy biện chứng trong nhận thức và hành động, biết phân tích,

đánh giá, so sánh, liên hệ và rút ra kết luận.
+

Rèn luyện kĩ năng học tập và thực hành bộ môn nhƣ sử dụng SGK, tài liệu

tham khảo, nâng cao năng lực trình bày nói và viết, làm và sử dụng đồ dùng trực
quan, sử dụng công nghệ thông tin phục vụ học tập, tổ chức và thực hiện hoạt động
nhóm, hoạt động ngoại khóa của môn học.
+ Vận dụng các kiến thức lịch sử đã học vào cuộc sống hiện tại.
_ Về thái độ, tình cảm, tư tưởng, bồi dƣỡng cho HS:
+

Lòng yêu quê hƣơng đất nƣớc, có niềm tin vững chắc vào sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ tổ quốc, noi gƣơng các thế hệ cha anh đi trƣớc, phấn đấu học tập,
rèn luyện để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+

Tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các dân tộc; đấu tranh cho độc

lập, tự do, văn minh, tiến bộ xã hội, hòa bình, dân chủ.
+ Niềm tin vào sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài ngƣời và dân tộc.
+ Ý thức làm nghĩa vụ công dân, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ quốc tế.
+ Những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống cộng đồng…

Nhƣ vậy, ta thấy bộ môn Lịch sử ở trƣờng phổ thông có vai trò và sứ mệnh vô
cùng to lớn. Nó không những cung cấp kiến thức cơ bản, có hệ thống cho HS mà
còn giáo dục tƣ tƣởng, tình cảm đúng đắn và phát triển toàn diện cho các em. Đây
chính là thông qua “dạy chữ để dạy ngƣời”.
Muốn làm tốt điều này, ngƣời GV phải thực sự có lƣơng tâm, kiến thức và trách
nhiệm; chịu khó đầu tƣ suy nghĩ, không ngừng đổi mới, tìm ra phƣơng pháp dạy học
tối ƣu để giúp HS nắm vững kiến thức. Việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch
sử cũng là một biện pháp để góp phần thực hiện mục tiêu môn học đề ra.


1.1.2. Đặc trưng của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông
Kiến thức của bộ môn Lịch sử ở trƣờng phổ thông là những hiểu biết của HS
về lịch sử phát triển của xã hội loài ngƣời và của dân tộc kể từ khi xã hội loài ngƣời
và con ngƣời xuất hiện đến nay đƣợc khoa học Lịch sử xác nhận và ghi chép trong
SGK lịch sử mới nhất. Kiến thức đó mang những đặc điểm cơ bản nhƣ sau:
Kiến thức lịch sử mang tính tương đối. Nó đƣợc diễn đạt, trình bày bằng những
ngôn ngữ, văn phong khác nhau. Điều ấy có nghĩa là kiến thức lịch sử chỉ có đúng
hoặc sai mà không tuyệt đối chính xác. Đặc điểm này mách bảo chúng ta trong việc
xác định mức độ kiến thức rồi sử dụng các phƣơng pháp nào cho phù hợp. Nếu
mức độ vừa phải thì chỉ cần thông báo cho trò biết, còn nếu ở mức độ cao hơn thì
chúng ta phải phân tích, so sánh, đánh giá, liên hệ và rút ra kết luận.
Kiến thức lịch sử mang tính quá khứ. Lịch sử là quá trình phát triển hợp quy
luật của xã hội loài ngƣời từ lúc con ngƣời và xã hội hình thành đến nay. Tất cả
những sự kiện và hiện tƣợng lịch sử đƣợc chúng ta nhắc đến đều là những chuyện
đã xảy ra trong quá khứ. Bởi vậy, chúng ta không thể trực tiếp quan sát đƣợc lịch sử
mà chỉ nhận thức chúng một cách gián tiếp thông qua các tài liệu đƣợc lƣu lại hoặc
dựa vào các hiện tƣợng lịch sử tƣơng tự của cái mới xảy ra hay của các dân tộc
khác để phân tích, suy nghĩ về những vấn đề lịch sử chúng ta đang nghiên cứu.
Chính vì thế, việc dạy học lịch sử gặp nhiều khó khăn, buộc chúng ta phải tìm đƣợc
những phƣơng pháp để khôi phục, tái hiện lại cái lịch sử đã xảy ra. Nhƣng bên

cạnh đó, nó cũng có những thuận lợi căn bản, đó là giúp GV bồi dƣỡng và phát
triển trí tƣởng tƣợng, tái tạo của HS.
Kiến thức lịch sử mang tính không lặp lại. Mỗi sự kiện, hiện tƣợng lịch sử chỉ
xảy ra trong một thời gian và không gian nhất định. Không có một sự kiện, hiện
tƣợng lịch sử nào hoàn toàn giống nhau dù chúng có điểm giống nhau mà chỉ là sự
kế thừa, phát triển. Trong một cấp học, HS chỉ đƣợc học một lần duy nhất về một
kiến thức lịch sử, những kiến thức đó lần sau không lặp lại nữa. Điều đó gây khó
khăn nhất định cho chúng ta trong dạy học. Kiến thức càng ngày càng nhiều lên mà
lại không đƣợc củng cố một cách tự nhiên cho nên HS rất dễ quên và nhầm lẫn kiến
thức. Chính điều này buộc các nhà giảng dạy lịch sử phải chú ý đến các phƣơng
pháp để củng cố giúp HS ghi nhớ.


Kiến thức lịch sử mang tính cụ thể. Lịch sử là khoa học nghiên cứu tiến trình
lịch sử cụ thể của các nƣớc, các dân tộc khác nhau và quy luật của nó. Lịch sử mỗi
nƣớc, mỗi dân tộc đều có diện mạo riêng do những điều kiện riêng quy định. Nó
luôn luôn gắn liền với một thời gian, một địa điểm, một nhân vật, một diễn biến,
một kết quả cụ thể. Điều này lƣu ý chúng ta trong dạy học phải sử dụng các
phƣơng pháp đảm bảo tính cụ thể, tính hình ảnh, tính sinh động của kiến thức lịch
sử. Kiến thức lịch sử cơ bản trình bày càng cụ thể bao nhiêu, càng sinh động bao
nhiêu, giàu hình ảnh bao nhiêu lại càng hấp dẫn bấy nhiêu.
Kiến thức lịch sử mang tính hệ thống (tính lôgic lịch sử). Nội dung tri thức lịch
sử rất phong phú bao gồm cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa nghệ thuật, khoa
học kĩ thuật…. Kiến thức lịch sử không tự nhiên xuất hiện, tự nhiên mất đi và cũng
không có những kiến thức, sự kiện lịch sử nào là đơn độc mà chúng liên kết chặt
chẽ, có mối đan xen phức tạp với nhau. Một sự kiện hiện tƣợng mất đi là nguyên
nhân xuất hiện sự kiện mới. Điều này đòi hỏi ngƣời GV phải luôn chú ý đến mối
quan hệ ngang dọc, trƣớc sau của các vấn đề lịch sử cũng nhƣ mối quan hệ ngang,
nội tại của chúng để từ đó lựa chọn các phƣơng pháp hệ thống hóa kiến thức cho
HS, giúp các em có cái nhìn lôgic. Nhờ vậy HS mới thích, mới hiểu lịch sử.

Kiến thức lịch sử có sự thống nhất giữa sử và luận. Các sự kiện, hiện tƣợng
lịch sử chỉ diễn ra một lần duy nhất, không lặp lại thế nhƣng những ghi chép về nó
lại có rất nhiều. Tuy nhiên, lý luận lịch sử cũng nhƣ quan điểm lịch sử trƣớc khi có
chủ nghĩa Mác, về cơ bản xuất phát từ lập trƣờng bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột.
Khi chủ nghĩa Mác ra đời, sử học mới bắt đầu trở thành một khoa học thực sự, chân
chính. Vậy, việc nghiên cứu và dạy học lịch sử cần dựa vững chắc vào những
nguyên lí của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ở đây, tính giai cấp
của giai cấp vô sản và tính khoa học của lịch sử là hoàn toàn đồng nhất, giữa “sử”
và “luận” có sự thống nhất cao độ. Từ đặc điểm này mà trong giảng dạy lịch sử
ngƣời GV phải đảm bảo sự thống nhất giữa trình bày sự kiện với giải thích, bình
luận. Mọi giải thích và bình luận đều phải xuất phát từ sự kiện lịch sử cụ thể, chính
xác, đáng tin cậy và không có sự kiện, hiện tƣợng nào không đƣợc giải thích làm
sáng tỏ bản chất của sự kiện, hiện tƣợng đó.


Nhƣ vậy, qua tìm hiểu những đặc trƣng riêng biệt của bộ môn đã mách bảo
chúng ta rằng phải cố gắng lựa chọn các phƣơng pháp dạy học phù hợp để khôi
phục, tái hiện lại cái lịch sử đã xảy ra; trình bày các sự kiện thật cụ thể, sinh động,
giàu hình ảnh…; củng cố, hệ thống hóa kiến thức cho HS giúp các em ghi nhớ và có
cái nhìn lôgic về kiến thức lịch sử. Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ
giúp ngƣời GV đạt đƣợc một vài phần của yêu cầu trên.
1.1.3. Đặc điểm tâm lý và quá trình nhận thức của học sinh trung học cơ sở
1.1.3.1. Đặc điểm tâm lý
Lứa tuổi học sinh THCS bao gồm những em có độ tuổi từ 11, 12 đến 14, 15.
Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và nó có một vị trí đặc biệt trong thời kì
phát triển của trẻ em. Trong cuốn Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm (2008),
tác giả Lê Văn Hồng có trình bày về lứa tuổi này nhƣ sau: “Vị trí đặc biệt này đƣợc
phản ánh bằng những tên gọi khác nhau của nó: “thời kì quá độ”, “tuổi khó bảo”,
“tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”…[12, tr 27].
Đây là thời kì các em chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trƣởng thành, sự phát

triển về thể chất đang diễn ra mạnh mẽ nhƣng thiếu cân đối về các mặt trí tuệ, đạo
đức. Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi này là tính tích cực xã
hội nhằm lĩnh hội những giá trị, những chuẩn mực nhất định. Từ đó, các em tạo lập
những mối quan hệ phù hợp với ngƣời lớn, bạn bè và cuối cùng là tự điều chỉnh
nhân cách của mình, xây dựng kế hoạch tƣơng lai với ý đồ thực hiện những ý định,
mục đích, nhiệm vụ…một cách độc lập.
Học sinh THCS luôn có xu hƣớng tìm hiểu, khám phá các môn khoa học với
tinh thần thái độ tích cực, tính ham hiểu biết, ham tìm tòi cái mới; tính tò mò muốn
làm rõ những gì mình hoài nghi.
Tuy nhiên, sự phát triển tâm lý ở lứa tuổi này diễn ra không đồng đều về mọi
mặt. Điều đó quyết định sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính ngƣời lớn”
ở các em. Do đó, tính kiên trì, độc lập trong các em chƣa cao. Bởi vậy, ngƣời GV
cần nghiên cứu, sử dụng các phƣơng pháp giảng dạy để làm cho HS phát huy tính
tích cực học tập; khơi gợi hứng thú, niềm đam mê với môn học; chủ động lĩnh hội
kiến thức; tìm tòi sáng tạo; có óc độc lập suy nghĩ; biết phê phán, đánh giá và hoài
nghi khoa học; kiên trì, chịu khó để đạt đƣợc kết quả cao trong học tập.


Mỗi môn học ở nhà trƣờng phổ thông đều có đặc trƣng và vai trò giáo dục
riêng của nó nhƣng đều thống nhất ở một điểm là giáo dục nhân cách toàn diện cho
con ngƣời xã hội chủ nghĩa. Lịch sử cũng vậy, nó là một môn khoa học nghiên cứu
về quá khứ. Thế nên, việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử là một
trong những biện pháp quan trọng để đạt đƣợc mục tiêu và chất lƣợng giáo dục nói
chung. 1.1.3.2. Đặc điểm nhận thức
Quá trình nhận thức của HS đƣợc diễn ra theo con đƣờng “từ trực quan sinh
động đến tƣ duy trừu tƣợng và từ tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn, đó là con đƣờng
biện chứng của nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan” [7, tr 114].
HS với tƣ cách là thực thể xã hội có ý thức, có khả năng thu đƣợc những phản
ánh khách quan về nội dung và chủ quan về hình thức. Tức là về nội dung, HS có
khả năng phản ánh đúng bản chất và những quy luật của thế giới khách quan; còn về

hình thức, mỗi HS có cách phản ánh riêng của mình. Giai đoạn có tính chất “bản lề”
cho toàn bộ quá trình nhận thức này chính là giai đoạn trực quan. Vì vậy, việc GV
giúp HS nắm đƣợc những sự kiện, vấn đề lịch sử một cách khách quan, khoa học là
rất quan trọng, có tính chất quyết định tới quá trình tƣ duy trừu tƣợng và trở về
thực tiễn của HS.
Mặt khác, quá trình lĩnh hội kiến thức của HS khác với quá trình nghiên cứu
của các nhà khoa học ở chỗ HS không phải là ngƣời tìm ra cái mới lạ mà chỉ là
ngƣời tìm hiểu những tri thức khoa học đã đƣợc khẳng định một cách gián tiếp
thông qua ngƣời thầy và các phƣơng tiện thông tin khác. HS ở lứa tuổi này lại thích
tiếp xúc, khám phá khoa học.
Nhƣ vậy, trƣớc những đặc điểm trên, ngƣời thầy phải làm chủ đƣợc kiến thức
khoa học để định hƣớng cho HS và tổ chức các hoạt động dạy học thông qua các tài
liệu lịch sử hợp lý, phát huy đƣợc tính tích cực học tập của HS, khiến HS chủ động
lĩnh hội, khám phá tri thức khoa học. Một trong những loại tài liệu giúp HS thực
hiện tốt giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, giai đoạn “trực quan sinh động”
chính là tài liệu văn học. Trên thực tế cho thấy, giai đoạn “trực quan sinh động”
càng đạt hiệu quả cao bao nhiêu thì giai đoạn “nhận thức lý tính – tƣ duy trừu
tƣợng” càng tốt bấy nhiêu.


1.1.4. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông
Hiện nay, cuộc cách mạng về đổi mới phƣơng pháp dạy – học đã và đang
diễn ra liên tục và mang tính toàn cầu. Ở Việt Nam, đổi mới phƣơng pháp trong
những năm gần đây đang trở thành vấn đề đƣợc quan tâm đặc biệt trong nhà trƣờng
và phƣơng pháp dạy – học lịch sử cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Vậy làm sao
tạo đƣợc bƣớc chuyển mang lại hiệu quả mạnh mẽ, toàn diện trong dạy – học lịch
sử đang là nỗi lo, nỗi trăn trở của các nhà phƣơng pháp.
Những năm gần đây, việc dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông cũng đã có nhiều
tiến bộ cả về nhận thức, nội dung và phƣơng pháp. Nhiều GV giỏi, tâm huyết với nghề
đã dày công nghiên cứu tìm ra những hƣớng tiếp cận kiến thức mới, giúp cho việc tiến

hành bài giảng trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát, có sức lôi cuốn, hấp dẫn đối với HS mà
vẫn đảm bảo đƣợc trọng tâm kiến thức. Nhƣng bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận
không nhỏ GV nặng về cách dạy, cách học cũ, nhiều GV chƣa nhận thức đƣợc vai trò
của việc kết hợp các phƣơng pháp dạy học để phát huy tính tích cực, độc lập nhận thức
của HS trong học tập. Bên cạnh đó, SGK lịch sử đã đƣợc biên soạn theo tinh thần đổi
mới nhƣng phƣơng pháp dạy học của GV lại chƣa theo kịp đƣợc nội dung của sách.
Cụ thể là, các bài viết trong sách đƣợc trình bày ngắn gọn, có tính gợi mở song GV lại
chƣa có đủ độ sâu về kiến thức để hƣớng dẫn HS tìm ra những kiến thức chìm trong
đó. Đặc biệt, nhiều GV khi dạy chỉ truyền đạt lƣợng kiến thức giống hệt nhƣ trong
SGK mà không sử dụng thêm tài liệu tham khảo hay có sử dụng thì chỉ mang tính chất
minh họa dẫn đến HS không nắm đƣợc kiến thức cơ bản hoặc sa đà vào những câu
chuyện không nhằm mục đích cụ thể hóa và khắc sâu kiến thức…. Về phƣơng pháp
dạy học môn Lịch sử, xin dẫn theo lời của Giáo

sƣ Đinh Xuân Lâm trên báo Tuổi Trẻ ngày 01.8.2011 nhƣ sau: "Lâu nay chúng ta
vẫn sử dụng phƣơng pháp giảng dạy theo lối áp đặt. Cả Bộ Giáo dục lẫn ngƣời dạy
sử đều quan niệm sử là môn học thuộc lòng. Thầy vào lớp không có không gian
sáng tạo, hoàn toàn phụ thuộc SGK, đến câu hỏi trên lớp cũng đƣợc ấn định sẵn
trong SGK. Kiến thức đƣợc truyền thụ theo lối từ trên xuống dƣới. HS tiếp thu
cũng bị động nên không chút hào hứng. Nói tóm lại, dạy và học sử trên lớp là công
việc thụ động cả hai chiều".


Chính vì vậy, đổi mới phƣơng pháp dạy học lịch sử trở thành một yêu cầu quan
trọng, góp phần nâng cao chất lƣợng dạy học bộ môn. Việc đổi mới này đòi hỏi chúng
ta chuyển từ mô hình dạy học “lấy GV làm trung tâm” sang dạy học “lấy HS làm trung
tâm”. “Lấy HS làm trung tâm” trong dạy học lịch sử thực chất là phát huy tính tích cực,
độc lập nhận thức của ngƣời học, trong đó chủ yếu là tƣ duy. Với hƣớng đổi mới này,
ngoài bài giảng của GV, HS còn đƣợc tiếp xúc với nhiều nguồn kiến thức khác nhau
nhƣ SGK, tài liệu tham khảo, đồ dùng trực quan (tranh, ảnh, bản đồ…), thực tế cuộc

sống (học trong nhà bảo tàng, học ở di tích lịch sử…); trong giờ học, HS đƣợc chủ
động trao đổi, thảo luận, lĩnh hội kiến thức thông qua các hình thức hoạt động nhóm….
Nhờ đó, các năng lực và phẩm chất trong hoạt động

nhận thức của HS có điều kiện phát huy….
Tóm lại, để đạt đƣợc mục tiêu bộ môn và góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo,
dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông cần phải đổi mới về phƣơng pháp để nâng cao
chất lƣợng. Việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ góp phần không
nhỏ cho GV trong việc thực hiện hƣớng đổi mới này.
1.1.5. Quan niệm về tài liệu văn học và mối quan hệ giữa văn học với lịch sử
1.1.5.1. Quan niệm về tài liệu văn học
Các tác phẩm văn học từ xa sƣa đến nay, trong lịch sử dân tộc cũng nhƣ lịch sử
thế giới đều có vị trí, vai trò to lớn trong việc dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông
nói chung, trƣờng THCS nói riêng. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” của các tác
giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì tác phẩm văn học là công trình
nghệ thuật ngôn từ, do cá nhân hoặc tập thể sáng tạo, phản ánh bằng hình tƣợng
cuộc sống con ngƣời, biểu hiện tâm sự, tình cảm, thái độ của chủ thể trƣớc thực tại.
Nhƣ vậy, các tác phẩm văn học bằng hình tƣợng cụ thể có tác động mạnh mẽ
đến tƣ tƣởng, tình cảm ngƣời đọc, trình bày những nét đặc trƣng, điển hình của các
hiện tƣợng kinh tế, chính trị, những quy luật của đời sống xã hội. Giữa văn học và
các khoa học nói chung, sử học nói riêng có mối quan hệ khăng khít. Trong khi sáng
tác một tác phẩm văn học (ví dụ: tiểu thuyết lịch sử), nhà văn phải nghiên cứu các
loại tài liệu lịch sử. Không ít các tác phẩm văn học tự nó là một tƣ liệu lịch sử nhƣ
“Hịch tƣớng sĩ” của Trần Hƣng Đạo, “Cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi, “Tuyên
ngôn độc lập” của Hồ Chủ Tịch…


Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử sẽ có tác dụng làm cho bài giảng
lịch sử thêm sinh động, hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của HS. Bởi vì, các tác
phẩm thực sự có giá trị đều phản ánh cuộc sống một cách chân thực. Bộ tiểu thuyết

“Tấn trò đời” của O. Đơ Bandắc, “Chiến tranh và hòa bình” của L. Tônxtôi, “Tắt
đèn” của Ngô Tất Tố, “Bƣớc đƣờng cùng” của Nguyễn Công Hoan, “Chí Phèo”
của Nam Cao, “Số đỏ” của Nguyễn Trọng Phụng… đều phác họa bức tranh xã hội
đƣơng thời của mỗi nƣớc , rất cần thiết cho việc học tập lịch sử về nƣớc ấy.
1.1.5.2. Các loại tài liệu văn học
Trong dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông, GV có thể sử dụng các loại tài liệu
văn học chủ yếu sau:
_ Các tác phẩm văn học dân gian:
Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các tầng lớp dân
chúng, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển qua các thời kỳ lịch sử cho
tới ngày nay. Nó rất phong phú, bao gồm nhiều thể loại nhƣ thần thoại, truyền
thuyết, truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyện cƣời, ca dao, tục ngữ, hò vè… Đây là
những tài liệu có giá trị, phản ánh nội dung nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử
dân tộc. Nếu gạt bỏ những yếu tố hƣ cấu, thần bí, hoang đƣờng thì sẽ phát hiện
những sự thực lịch sử trong các tác phẩm văn học dân gian. Những câu chuyện cổ
tích, truyền thuyết, thần thoại đƣợc học trong các giờ văn học giúp HS có những tƣ
liệu sống động để tạo biểu tƣợng về một thời đại lịch sử. Ví dụ trong truyện “Thánh
Gióng”, sau khi lƣợc bỏ những yếu tố thần bí chúng ta nhận thấy công cuộc chống
giặc ngoại xâm là một trong những vấn đề vô cùng cấp bách, thƣờng xuyên trong
thời kì dựng nƣớc. Đồng thời vào giai đoạn cuối của thời đại Hùng Vƣơng, lực
lƣợng sản xuất đã rất phát triển thể hiện ở chỗ công cụ bằng sắt khá phổ biến trong
sản xuất và chiến đấu. Các tác phẩm văn học ra đời ở thời điểm này cũng phản ánh
rất rõ nét vấn đề này. Nhƣ trong tác phẩm “Tiên Dung – Chử Đồng tử”, ngoài
những yếu tố hoang đƣờng, thần bí, ngƣời đọc sẽ hình dung một cách khá chính
xác công cuộc khai phá đất đai, mở mang bờ cõi rất gian khổ của nhân dân ta ở
đồng bằng châu thổ sông Hồng.


Các loại hình văn học dân gian không chỉ góp phần minh họa những sự kiện
lịch sử mà còn làm cho bài giảng trở nên sinh động hơn, tạo đƣợc không khí gần

gũi với bối cảnh lịch sử sự kiện đang học. Ví dụ, trong câu thơ sau:
“Một nhà sinh đặng ba vua
Vua sống, vua chết, vua thua chạy dài”.
Nhân dân ta đã phản ánh tình trạng rối ren của triều đình Huế sau khi Tự Đức
chết, ba vua này là Đồng Khánh (sống), Kiến Phúc (chết), Hàm Nghi (chạy ra Sơn
Phòng) đều là con của Kiến Thái Vƣơng – em vua Tự Đức. Họ là anh em ruột trong
cùng một nhà (GV cần phân tích rõ từ “thua” thuộc quan điểm của giai cấp nào).
Sử dụng tài liệu văn học dân gian, GV có thể tiến hành có kết quả việc giáo dục
tƣ tƣởng, đạo đức nói chung và giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng cho HS.
_ Các tác phẩm văn học xuất hiện vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử và
phản ánh sự kiện ấy bằng hình tượng văn học:
Những tác phẩm văn học ra đời đồng thời với sự kiện lịch sử sẽ phản ánh hiện
thực xã hội lúc bấy giờ một cách sinh động, cụ thể bởi nhà văn lấy chất liệu trong
cuộc sống để xây dựng nên tác phẩm của mình. Tác phẩm đó phản ánh một thời đại,
một giai đoạn lịch sử nhất định hay nói cách khác là nhà văn lấy chất liệu cuộc sống
xã hội phản ánh lại cuộc sống xã hội.
Tóm lại, các tác phẩm văn học là những tấm gƣơng phản ánh hiện thực cuộc
sống. Nó có tác động rất lớn trong việc mở rộng và nâng cao nhận thức của chúng ta
về xã hội, về con ngƣời. Do đó, văn học là tài liệu tham khảo có giá trị đối với việc
dạy học lịch sử. GV sử dụng những tài liệu này sẽ góp phần giúp HS dễ dàng tái
hiện lại bức tranh quá khứ mà các em đang học. Cũng vì thế mà Ăng ghen cho rằng:
“Ban – dắc, ngƣời thầy của chủ nghĩa hiện thực” đã trình bày trong tác phẩm “Tấm
hài kịch của nhân loại” một cách hiện thực, tài tình nhất lịch sử của nƣớc Pháp”. Ở
đó, Ăng ghen đã “học tập đƣợc nhiều hơn là trong tất cả các sách của các nhà sử
học, các nhà kinh tế học, các nhà thống kê chuyên nghiệp thời ấy cộng lại”.
Ta có thể dẫn chứng một vài tác phẩm có thể sử dụng để làm tƣ liệu khi dạy
lịch sử nhƣ: Tác phẩm “Những ngƣời khốn khổ” của Víchto Huygô. Trong tác
phẩm này, tác giả đã ghi lại những nét hiện thực của xã hội Pháp đầu thế kỉ XIX. Xã



hội tƣ sản tàn bạo đƣợc phản ánh trong những nhân vật phản diện nhƣ Giave,
Tênácđiê. Tình cảnh cùng khổ của ngƣời dân lao động đƣợc mô tả bằng những
cảnh thƣơng tâm của những ngƣời cố nông sau khi trở thành tù phạm, một ngƣời
mẹ, một đứa trẻ sống trong cảnh khủng khiếp của cuộc đời tối tăm, ngạt thở. Đồng
thời tác phẩm cũng toát lên giá trị nhân đạo cao cả, ca ngợi đạo đức của ngƣời dân
lao động, ca ngợi tự do; chống lại cƣờng quyền, áp bức, bóc lột qua các hình tƣợng
Giăng Van giăng, Phăngtin, Gavơrốt. GV có thể sử dụng một số đoạn trích của tác
phẩm này khi giảng dạy bài 3 “Chủ nghĩa tƣ bản đƣợc xác lập trên phạm vi thế
giới” (SGK Lịch sử 8) để khắc họa tình cảnh khốn khổ của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động cũng nhƣ khí thế hừng hực của cách mạng tháng 7 – 1830 ở
Pháp. Hay, khi GV dạy bài 18 “Cuộc kháng chiến của nhà Hồ và phong trào khởi
nghĩa chống quân Minh đầu thế kỉ XV” và bài 19 “Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (SGK
Lịch sử 7) có thể sử dụng tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi để làm tƣ
liệu giúp HS tái hiện lại một thời điểm lịch sử đầy đau thƣơng nhƣng rất hào hùng
của dân tộc ta. Trong tác phẩm, tội ác vô cùng dã man của quân "cuồng Minh" đƣợc
thể hiện rõ nét, sinh động. Chúng tàn sát nhân dân ta một cách man rợ, dồn nhân
dân ta vào bƣớc đƣờng cùng, vào hố diệt vong:
“Nƣớng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dƣới hầm tai vạ”…
Đồng thời, tác phẩm cũng diễn tả sức mạnh nhƣ vũ bão của quân ta:
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông” …
Ngoài ra, tƣ tƣởng nhân nghĩa, mục đích chiến đấu cao đẹp, niềm tự hào về truyền
thống giữ nƣớc và dựng nƣớc của dân tộc, kế sách dụng binh, tài thao lƣợc, tinh thần
đoàn kết một lòng, ý chí chiến đấu bất khuất…của quân và dân ta đƣợc thể hiện sâu sắc
trong tác phẩm. Do đó, tác phẩm văn học chính là một nguồn tài liệu vô cùng quý báu
để GV lịch sử khai thác, chọn lọc đƣa vào bài giảng của mình sao cho hiệu quả. Sang
phần lịch sử dân tộc đầu thế kỉ XX, GV có thể lựa chọn nhiều



×