Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

Vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương vào dạy học tùy bút người lái đò sông đà của nguyễn tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.09 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN QUANG BÌNH

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN ĐỒNG BỘ TÁC
PHẨM VĂN CHƯƠNG VÀO DẠY HỌC TÙY BÚT
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ CỦA NGUYỄN TUÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN QUANG BÌNH

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN ĐỒNG BỘ TÁC
PHẨM VĂN CHƯƠNG VÀO DẠY HỌC TÙY BÚT
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ CỦA NGUYỄN TUÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 01 11

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Văn Đức

HÀ NỘI – 2014




LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp Luận văn Vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương
vào dạy học tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân được hoàn thành, tác giả xin
trân trọng cảm ơn:
PGS.TS Trần Khánh Thành, Phó Chủ nhiệm Khoa Sau đại học, Đại học Quốc
gia Hà Nội – người định hướng con đường học tập và nghiên cứu cho tác giả.
PGS.TS Hà Văn Đức – nguyên Trưởng khoa Văn học, Trường Đại học KHXH
và NV, Đại học Quốc gia Hà Nội – Cán bộ hướng dẫn khoa học – đã tận tâm chỉ bảo tác
giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Các thầy giáo, cô giáo giảng viên Khoa Sư phạm, Trường ĐHGD, Đại học Quốc
gia Hà Nội, đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình theo học Lớp Cao học Lý luận
và Phương pháp dạy học Ngữ văn khóa 2012 – 2014.
Các bạn đồng nghiệp ở trường THPT Quốc Oai, THPT Thạch Thất, THPT Bắc
Lương Sơn thuộc Thành phố Hà Nội cùng các em học sinh đã tích cực hợp tác với tác giả
trong quá trình khảo sát thực tế.
Các tác giả những công trình khoa học được sử dụng làm tư liệu tham khảo trong
Luận văn này.
Mặc dù tác giả Luận văn đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, nhưng do năng lực còn
hạn chế nên công trình không tránh khỏi thiếu sót. Chân thành mong quý vị độc giả
lượng thứ!
Phủ Quốc, thu đông 2014

Nguyễn Quang Bình

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

ĐHGD:

Đại học Giáo dục

ĐHQG:

Đại học Quốc gia

GD và ĐT:

Giáo dục và Đào tạo

GV:

giáo viên

GS:

giáo sư

HS:

học sinh

KHXH và NV:


Khoa học xã hội và Nhân văn

LL:

lý luận

PGS:

phó giáo sư

PP:

phương pháp

THPT:

trung học phổ thông

Tr:

trang

TS:

tiến sĩ

SGK:

sách giáo khoa


SGV:

sách giáo viên

ii


MỤC LỤC
Tên mục

Trang

Lời cảm ơn ……………………………………………………………………i
Danh mục các chữ viết tắt ………………………………………………...... ii
Mục lục ………………………………………………………………….......iii
Danh mục các bảng ………………………………………………………......v

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài …………………………..………………………………1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu …………………………………………….......3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………………...9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………………………......10
5. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………10
6. Cấu trúc luận văn …………………………………………………………11

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận ……………………………………………………………12
1.1.1. Quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương…………………..12
1.1.2. Các hướng tiếp cận chủ yếu…………………………………………..13

1.1.3. Mối quan hệ giữa các hướng tiếp cận ……………………………......19
1.2. Cơ sở thực tiễn ………………………………………………………….20
1.2.1. Thực trạng việc dạy học tuỳ bút Người lái đò Sông Đà ………...........20
1.2.2. Khảo sát thực tế ……………………………………………………....22
1.2.3. Kết luận về thực trạng ………………………………………………..31

CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC TUỲ BÚT NGƯỜI LÁI ĐÒ
SÔNG ĐÀ THEO HƯỚNG TIẾP CẬN ĐỒNG BỘ
2.1. Những yêu cầu khi dạy học tùy bút Người lái đò Sông Đà....................35
2.1.1. Phù hợp với trình độ tiếp nhận và tâm lý lứa tuổi học sinh phổ thông 35
2.1.2. Phát huy tính tích cực, chủ động của người học................................... 37

iii


2.1.3. Vận dụng thích hợp tri thức ngoài văn bản............................................ 41
2.1.4. Nắm vững đặc trưng thể loại tuỳ bút Nguyễn Tuân.............................. 49
2.2. Những đề xuất về biện pháp dạy học tùy bút Người lái đò Sông Đà....52
2.2.1. Phương hướng chung................................................................................. 52
2.2.2. Các biện pháp cụ thể.................................................................................. 53
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Giáo án thực nghiệm..................................................................................... 66
3.2. Quá trình thực nghiệm.................................................................................. 82
3.2.1. Mục đích thực nghiệm............................................................................... 82
3.2.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm........................................................... 82
3.2.3. Nội dung và tiến trình thực nghiệm.......................................................... 83
3.2.4. Kết quả thực nghiệm.................................................................................. 85
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..................................................................... 88
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH.................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 91

PHỤ LỤC............................................................................................................... 93

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1 : Kết quả khảo sát thực trạng dạy học môn Ngữ văn của HS trước khi tham gia
thực nghiệm.
Bảng 3.1 : Thống kê kết quả kiểm tra HS về vẻ đẹp của hình tượng Sông Đà.
Bảng 3.2: Thống kê kết quả kiểm tra HS về hình ảnh con người trong văn Nguyễn Tuân
trước và sau năm 1945 (qua tuỳ bút Người lái đò Sông Đà).
Bảng 3.3: Thống kê kết quả kiểm tra HS về đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân qua tuỳ bút Người lái đò Sông Đà.

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã
hội, ngành Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Từ
chỗ là một ngành được tổ chức – hoạt động theo lối tư duy bao cấp, thụ động
trở thành bộ máy hoạt động theo cơ chế mở, năng động, sáng tạo với quá trình
hội nhập mạnh mẽ khu vực và thế giới. Cũng vì vậy, nhiều phương pháp dạy
học, nhiều quan điểm dạy học mới đã được khai triển thành công ở Việt Nam,
trong đó nổi bật là quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương. Quan
điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương đã góp phần thúc đẩy việc đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường trung học trong những năm vừa qua.
Chương trình Ngữ văn THPT hiện hành là kết quả của quá trình Đổi mới
giáo dục phổ thông do Đảng và Nhà nước tiến hành vào đầu những năm 2000.

Ngày 9 tháng 12 năm 2000, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành
Nghị quyết số 40/2000/QH10 về Đổi mới Giáo dục phổ thông. Theo đó, việc
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông “Phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu nội
dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định trong Luật
Giáo dục; khắc phục những mặt hạn chế của chương trình, sách giáo khoa;
tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học; coi trọng kiến
thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công
nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh. Bảo đảm sự thống
nhất, kế thừa và phát triển của chương trình giáo dục; tăng cường tính liên
thông giữa giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học;
thực hiện phân luồng trong hệ thống giáo dục quốc dân để tạo sự cân đối về cơ
cấu nguồn nhân lực; bảo đảm sự thống nhất về chuẩn kiến thức kỹ năng, có
phương án vận dụng chương trình, sách giáo khoa phù hợp với hoàn cảnh và
điều kiện của các địa bàn khác nhau. Đổi mới nội dung, chương trình, sách
giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực hiện đồng bộ với việc

1


nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học, có tổ chức đánh giá, thi cử, chuẩn
hóa trường sở, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản lý giáo dục”.
Với tư cách là môn học cơ bản của ngành KHXH và NV, bộ môn Ngữ
văn có vị trí quan trọng ở bậc giáo dục phổ thông nói chung và bậc THPT nói
riêng. Môn học này không chỉ cung cấp cho các em học sinh tri thức về thẩm
mỹ, về hiện thực cuộc sống, về lịch sử xã hội mà còn góp phần giáo dục lòng
yêu nước, yêu quê hương, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất của dân
tộc Việt Nam. Qua đó, góp phần hoàn thiện nhân cách con người – nhân cách
người học sinh dưới mái trường XHCN.
Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc THPT, chúng tôi nhận
thấy, nhóm các tác phẩm ký của chương trình Ngữ văn 12, đặc biệt, tùy bút

Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân) là văn phẩm tiêu biểu. Đây là tác phẩm
có tính chất tổng hợp cao, bao gồm tri thức lịch sử, địa lý, nhân văn, phong
tục,... Hơn nữa, nó lại được viết bằng thể tài tùy bút, một thể tài vừa mang tính
chất tự do, phóng khoáng vừa đòi hỏi tính khoa học, chính xác. Bởi vậy, việc
tiếp nhận tác phẩm, với các em học sinh, dù là học sinh lớp 12, vẫn gặp nhiều
khó khăn. Ngay cả với một số giáo viên phổ thông, việc minh định phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân, đặc trưng thể tài ký cũng là một vấn đề không đơn
giản. Đó là lý do thứ hai khiến chúng tôi chọn vấn đề Vận dụng quan điểm tiếp
cận đồng bộ tác phẩm văn chương vào dạy học tuỳ bút Người lái đò Sông Đà
làm đề tài nghiên cứu khoa học.
Một lý do nữa thúc đẩy chúng tôi lựa chọn đề tài này, đây là vấn đề
muôn thuở, cũng là vấn đề thời đại, đó là Phương pháp dạy học - phương pháp
dạy học văn học – môn học sáng tạo về sự sáng tạo. Đã có quá nhiều văn bản
pháp quy, những công trình nghiên cứu về vấn đề phương pháp dạy học nói
chung, phương pháp dạy học văn học nói riêng. Các tác giả và công trình
nghiên cứu đó đều đi đến sự thống nhất, là cần thiết phải thay đổi phương pháp
dạy học Ngữ văn. Qua quá trình thanh tra dự giờ ở những trường THPT trên
địa bàn các huyện Quốc Oai, Thạch Thất, Hoài Đức, Đan

2


Phượng (thuộc TP Hà Nội), chúng tôi nhận ra một thực tế: đa số các thầy cô
giáo, nhất là giáo viên có tuổi, gặp khá nhiều khó khăn trong việc hướng dẫn
học sinh tiếp cận văn bản Người lái đò Sông Đà. Có thầy cô chỉ nghiêng về
truyền đạt giá trị nội dung mà coi nhẹ việc khám phá phương diện nghệ thuật,
có người chỉ dừng lại ở hình tượng dòng sông, hình tượng con người mà chưa
làm nổi bật chất ký Nguyễn Tuân,... Ngay trong việc giúp học sinh chiếm lĩnh
nội dung tác phẩm, giữa các thầy cô giáo cũng có sự khác biệt. Có thầy cô chủ
yếu làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông mà quên mất hình tượng người lái đò; ở

hình tượng sông Đà, chưa làm rõ ý nghĩa lời đề từ vô cùng hàm ẩn “Đẹp vậy
thay tiếng hát trên dòng sông” và “Chúng thủy giai Đông tẩu/Đà giang độc Bắc
lưu”.
Bởi vậy, với mong muốn góp thêm một tiếng nói, một cách nhìn về tác
giả lớn Nguyễn Tuân và Người lái đò Sông Đà, chúng tôi chọn đề tài Vận
dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương vào dạy học tùy bút
Người lái đò Sông Đà cho Luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Lý luận
và phương pháp dạy học Ngữ văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Ông để lại một di sản đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại, độc
đáo, đặc sắc về phong cách nghệ thuật. Vì vậy, ngay từ trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân đã trở thành đối tượng nghiên cứu –
phê bình của nhiều tác giả, nhiều tờ báo, tạp chí có uy tín như Tiểu thuyết thứ
Bảy, Tri tân, Phụ nữ tân văn,... Tiêu biểu là cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ
Ngọc Phan.
Trong công trình khảo cứu có giá trị vào bậc nhất của nền phê bình lý
luận hiện đại Việt Nam, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, từ rất sớm, đã khẳng
định “Nguyễn Tuân, như người ta thấy, là một nhà văn đứng riêng hẳn một
phái. Những tập văn của ông, dầu không phải là tùy bút cũng ngả về tùy bút
chẳng ít nhiều... Đọc Nguyễn Tuân bao giờ ta cũng thấy một hứng thú đặc

3


biệt: đó là sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong quan sát, sự hành văn
một cách hoàn toàn Việt Nam”[21, tr.429].
Sau năm 1945, cùng với quá trình phát triển của sự nghiệp Cách mạng
và kháng chiến, số lượng tác phẩm của Nguyễn Tuân nở rộ phong phú, đa
dạng. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ, bàn chân

Nguyễn tiên sinh đã in dấu trên nhiều nẻo đường của non sông đất Việt, đặc
biệt, vùng giang sơn gấm vóc phía Tây của Tổ quốc. Kết quả là sự ra đời của
những tập tùy bút nổi tiếng Đường vui – 1949; Tình chiến dịch – 1950; Chú
Giao làng Seo – 1953;...
Trong những năm miền Bắc đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội, miền
Nam đấu tranh thống nhất Đất nước, Nguyễn Tuân tiếp tục có những đóng góp
lớn cho nền nghệ thuật ngôn từ dân tộc. Giờ đây, ông không chỉ “xê dịch”
trong nước, đến với những địa danh thân thương như Điện Biên, Mộc Châu,
Quỳnh Nhai, Hiền Lương,... mà ông còn “xê dịch” ra nước ngoài, đến với anh
em bè bạn quốc tế để giới thiệu nền văn hóa văn nghệ giàu tiềm năng của đất
Việt, để kêu gọi nhân dân thế giới ủng hộ sự nghiệp đấu tranh thống nhất của
Nhân dân Việt Nam. Và những Tờ hoa, Trang hoa lại tiếp tục nở rộ trong văn
nghiệp Nguyễn Tuân với Tùy bút Kháng chiến và Hòa bình (Tập I – 1955; tập
II – 1956); Sông Đà (1960); Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),... Vì vậy, cuộc
đời và sự nghiệp Nguyễn Tuân trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà
phê bình trong và ngoài nước.
Ở trong nước, các công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói chung và
Người lái đò Sông Đà nói riêng hết sức phong phú. Đó là các Giáo trình đại
học môn Văn học, Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Tuân và các Luận án Tiến
sĩ, Luận văn thạc sỹ,...
Trước hết, xin được nói về Nguyễn Tuân trong các Giáo trình đại học.
Có thể khẳng định, đây là những công trình học thuật nghiên cứu về Nguyễn
Tuân một cách hệ thống, bài bản, công phu.

4


Trong Giáo trình Văn học Việt Nam 1945 – 1975, cuộc đời và sự nghiệp
Nguyễn Tuân được GS Nguyễn Đăng Mạnh trình bày một cách hệ thống, khoa
học. Lần đầu tiên, tài năng và những đóng góp của Nguyễn Tuân cho nền văn

nghệ Cách mạng được làm rõ dưới ánh sáng lý luận phê bình Mác – Lênin. Ở
công trình nghiên cứu mang tính mở đường này, người đọc gặp lại những kết
luận khoa học chính xác, mang tính phát hiện mà GS đã viết trong Lời giới
thiệu Tuyển tập Nguyễn Tuân, Tập I, NXB Văn học ấn hành năm 1981. Nói về
phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, GS nhận định “Nguyễn Tuân bước vào
nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ. Về căn bản, đó là phản ứng của chủ
nghĩa cá nhân kiêu ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức sống nhưng bế tắc...
Sau Cách mạng, cái ngông của Nguyễn Tuân không có lý do để tồn tại nữa...
giọng văn của ông nói chung là tin yêu, đôn hậu”[24, tr.54].
Nghiên cứu về Nguyễn Tuân, GS Phan Cự Đệ nhận định “Trước Cách
mạng, trong tác phẩm Nguyễn Tuân đã hình thành một phong cách tài hoa và
độc đáo... Khi thế giới quan và phương pháp sáng tác đã chuyển biến về cơ bản
thì phong cách nghệ thuật cũng thay đổi theo. Tuy nhiên, phong cách mới
không phủ định phong cách cũ một cách tuyệt đối mà có sự phê phán và kế
thừa. Nhiều hình tượng và mô típ, nhiều thủ pháp nghệ thuật được lặp lại và
mang một ý nghĩa mới qua những hình tượng gió, con đường, dòng sông, sân
ga, biên giới...”[24, tr.63]
Năm 1996, nhà nghiên cứu Hà Văn Đức đã hoàn thành Luận án Tiến sĩ
Văn học với đề tài Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Là người có nhiều
năm công tác, giảng dạy ở Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH và NV, Đại
học Quốc gia Hà Nội, PGS.TS Hà Văn Đức đồng thời cũng là một chuyên gia
về Nguyễn Tuân. Luận án của ông đã dựng lại đầy đủ, sâu sắc với nhiều phát
hiện mới về cuộc đời sáng tạo của nghệ sĩ lớn – nhà văn hoá Nguyễn Tuân.
Trong công trình nghiên cứu này, tuy không tìm hiểu riêng về Người lái đò
Sông Đà nhưng bằng bản lĩnh và kinh nghiệm của một nhà khoa

5


học có uy tín, ông đã phác họa những nét chính về giá trị và vị trí quan trọng

của Người lái đò Sông Đà trong sự nghiệp của Nguyễn Tuân và nền văn học
Cách mạng Việt Nam. Xin được nói thêm, PGS.TS Hà Văn Đức cũng là tác giả
Chương XXII: Nguyễn Tuân trong Giáo trình Văn học Việt Nam 1900 – 1945.
Ở chương này, PGS.TS Hà Văn Đức đã xác lập, phân tích sâu sắc các đặc điểm
phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, đặc trưng thể tài tùy bút đã làm nên
“phong vị” Nguyễn Tuân như là những giá trị mang tính ổn định. Điều đó giúp
chúng ta tìm hiểu về Nguyễn Tuân sau năm 1945 thuận lợi hơn.
Năm 2007, tác giả Bùi Thị Anh Chung giới thiệu luận văn Phong cách
Nguyễn Tuân qua Tuỳ bút Kháng chiến. Sau khi khảo sát vấn đề phong cách
nhà văn, đặc trưng của thể tài tuỳ bút, Bùi Thị Anh Chung đã xây dựng hệ
thống các luận điểm về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua Tuỳ bút
Kháng chiến, đó là:
- Cảm hứng nghệ thuật bao trùm - Kháng chiến như một phong hội mới: tác
giả Bùi Thị Anh Chung viết “Đọc Tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân, ta
nhận ra cảm hứng nghệ thuật bao trùm đó là cảm hứng kháng chiến. Kháng
chiến đối với nhà văn giống như một phong hội mới, mở ra một chặng đường
sáng tác mới. Có một cái gì phơi phới vui tin, một tình cảm chân thành đến hôn
nhiên đối với quê hương Đất nước mình. Tình cảm với Nhân dân và kháng
chiến càng thắm thiết thì lòng yêu thiên nhiên Đất nước cũng dào dạt hơn.
Người đọc vẫn thấy bóng dáng của người nghệ sĩ đi tìm cái đẹp nhưng không
còn là những hình ảnh u ám, úa tàn trên cái nền ảm đạm của một thời xưa
cũ”[8, tr.40].
- Hiện thực cuộc sống kháng chiến được miêu tả rõ nét từ những tên người, tên
đất đến những vật dụng của cuộc sống hằng ngày. Diện mạo của khách thể
thẩm mĩ hiện ra với muôn mặt phong phú: lao động, chiến đấu, thi đua. Ở đó,
hình ảnh con người luôn là trung tâm của thiên tuỳ bút. Họ hiện ra mộc mạc,
giản dị mà vẫn mang bóng dáng tài hoa nghệ sĩ.

6



- Về đặc sắc ngôn ngữ của tác phẩm, Bùi Thị Anh Chung cho rằngkhi miêu tả,
nhà văn luôn có sự lựa chọn từ ngữ cho hợp cảnh hợp tình. Có những từ ngữ
hết sức bình thường giản dị lại được nhà văn sáng tạo đến bất ngờ - “bông hoa
rau muống” được so sánh với “lông ngỗng Mị Châu”, giáo viên dạy “bình dân
học vụ” sánh với “những vị Huấn đạo ngày xưa”,... Câu văn Nguyễn Tuân luôn
luôn khác người, mang dấu ấn phong cách và cá tính ông với đặc điểm nổi bật
- khi trùng điệp, lúc linh hoạt uyển chuyển.


luận văn thạc sỹ Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong tùy bút Sông Đà

của Nguyễn Tuân, tác giả Nguyễn Thị Thúy Nga lại đi sâu phân tích tùy bút
Sông Đà, trong đó có Người lái đò Sông Đà dưới góc độ nghệ thuật trần thuật
– một đặc trưng ngôn ngữ của thể ký văn học. Tác giả Thúy Nga đã làm rõ
những đặc điểm chính của kiến trúc câu văn Nguyễn Tuân trong Tùy bút Sông
Đà. Câu văn của Nguyễn Tuân trong Sông Đà có nhiều kiểu kiến trúc đa dạng.
Đó là: kiểu kiến trúc đơn giản, kiểu kiến trúc tầng bậc và kiểu kiến trúc đối
xứng. Nhưng nhiều nhất vẫn là kiểu câu dài với kiến trúc tầng bậc. Loại câu
này rất phù hợp khi tác giả miêu tả đối tượng và trình bày những suy nghĩ, tâm
tư một cách chủ quan. Các kiểu kiến trúc này thay đổi liên tục, biến hoá phong
phú, vì thế ngôn ngữ Nguyễn Tuân trở nên tự nhiên, sinh động, linh hoạt như
chính cuộc sống mà ông cảm nhận.
Luận văn Giảng dạy tác phẩm ký trong trường THPT qua “Người lái đò
Sông Đà” của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng
Phủ Ngọc Tường của thạc sỹ Đinh Thị Phương Thảo đã đi sâu tìm hiểu phương
pháp dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường theo
đặc trưng thể loại. Trong công trình khoa học của mình, Đinh Thị Phương
Thảo đã chỉ ra các đặc điểm cơ bản của thể tài ký. Đó là:
- Ký viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, ký đòi hỏi sự trung

thực, chính xác.
- Tác giả ký khéo sử dụng tài liệu đời sống kết hợp với tưởng tượng, cảm thụ,
nhận xét, đánh giá.

7


- Nổi bật lên trong tác phẩm ký chính là tính chủ quan, chất trữ tình sâu đậm
của cái tôi tác giả.
Trên cơ sở đó, tác giả Phương Thảo đã đề xuất hướng dạy học hai bài ký
trên theo đặc trưng thể loại.
Cũng với các đối tượng nghiên cứu như tác giả Phương Thảo, luận văn
của thạc sỹ Trần Thị Anh Đào lại đề xuất phương pháp dạy học theo phong
cách nghệ thuật nhà văn. Sau khi phân tích các đặc điểm phong cách nghệ
thuật Nguyễn Tuân, phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Thị
Anh Đào đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt của phong cách nghệ thuật giữa
tác giả Người lái đò Sông Đà và tác giả Ai đã đặt tên cho dòng sông? Đồng
thời, đem đến cho các bạn đồng nghiệp và học sinh cách tiếp cận mang tính
khoa học hai áng văn tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Đó là:
- Sử dụng hợp lý các phương pháp dạy học tích cực;
- Chú trọng hoạt động đọc văn của học sinh;
- Sử dụng đồ dùng trực quan;
- Áp dụng công nghệ dạy học hiện đại;
- Tổ chức các hoạt động ngoại khoá nhằm tạo hứng thú cho học sinh,...
Trong Báo cáo khoa học Cách tiếp cận tác phẩm Người lái đò Sông Đà
của Nguyễn Tuân, tác giả Phạm Thị Hải Yến đã đề xuất các hướng tiếp cận tác
phẩm nổi tiếng của Nguyễn Tuân sau năm 1945:
- Tiếp cận tác phẩm từ thi pháp tác giả (tức là từ phong cách nghệ thuật của
nhà văn): theo Phạm Thị Hải Yến, Nguyễn Tuân là nhà văn ưa mới lạ, độc đáo,
thích biến ảo nên văn ông cũng bắt người đọc phải thực sự tham gia vào trò

chơi rượt đuổi nghệ thuật. Nguyễn Tuân có cảm hứng mãnh liệt với những hiện
tượng gây cảm giác lạ; ông là nhà văn luôn khám phá sự vật hiện tượng ở
phương diện văn hoá thẩm mĩ; nhân vật trong văn nguyễn Tuân là con người
tài hoa nghệ sĩ.
- Tiếp cận từ thi pháp thể loại: Phạm Thị Hải Yến cho rằng, chính phong cách
tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân khiến Nguyễn Tuân tìm

8


đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu. Tuỳ bút Nguyễn Tuân có nhiều yếu tố
truyện đồng thời mang đậm chất ký, giàu chất trữ tình.
Nguyễn Tuân là một trong số ít các nhà văn Việt Nam được xuất bản và
nghiên cứu khá công phu ở nước ngoài. Tác phẩm của ông đã được xuất bản ở
Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, là đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa
học nổi tiếng như Viện sĩ Viện văn học thế giới thứ ba N.I.Niculin, Viện sĩ Viện
Hàn lâm khoa học Nga A.D.Likhachep,...
Có thể khẳng định, cuộc đời và văn nghiệp Nguyễn Tuân đã được độc
giả và các nhà phê bình soi chiếu kỹ càng từ nhiều góc độ, bằng nhiều phương
pháp khoa học. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu việc vận dụng quan điểm
tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương vào khám phá thế giới nghệ thuật
Nguyễn Tuân và một sáng tác cụ thể của ông vẫn còn khá ít. Vì vậy, chúng tôi
quyết định lựa chọn đề tài khoa học trên cho Luận văn tốt nghiệp Cao học
chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học Ngữ văn của mình. Chúng tôi
hy vọng công trình nhỏ này sẽ góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị chân –
thiện – mĩ của văn chương Nguyễn Tuân, khẳng định tài năng bậc thầy của nhà
văn hoá Nguyễn Tuân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích trước hết của Luận văn là nghiên cứu lý luận về quan điểm

tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương và việc vận dụng quan điểm đó vào dạy
học Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay.
Tiếp đến, chúng tôi tiến hành nghiên cứu chung về tác phẩm Người lái
đò Sông Đà của Nguyễn Tuân ở các phương diện nội dung tư tưởng và giá trị
nghệ thuật.
Về nội dung tư tưởng của tuỳ bút: qua khảo sát, đánh giá, tác giả Luận
văn mong muốn các bạn đồng nghiệp và học sinh có cái nhìn toàn diện về thế
giới nghệ thuật mà Nguyễn Tuân tái hiện trong văn phẩm. Đó là vẻ đẹp hung

9


bạo và thơ mộng trữ tình của Sông Đà; là nét tài hoa nghệ sĩ của người lao
động trên mặt trận Sông Đà.
Về giá trị nghệ thuật của Người lái đò Sông Đà: Luận văn đi theo hướng
làm nổi bật chất tài hoa uyên bác của văn Nguyễn Tuân, chất cổ điển mẫu mực
của kiến trúc câu văn, bố cục chặt chẽ của tác phẩm, sự phong phú của giọng
điệu, của ngôn từ nghệ thuật, của các phương thức biểu đạt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong Luận văn này, chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng dạy học tùy
bút Người lái đò Sông Đà trong trường THPT ở huyện Quốc Oai và một số địa
phương xung quanh như huyện Thạch Thất, huyện Hoài Đức thuộc TP Hà Nội.
Nhiệm vụ thứ hai của Luận văn, là đề xuất, xây dựng Phương pháp dạy
học tác phẩm Người lái đò Sông Đà theo hướng tiếp cận đồng bộ.
Cuối cùng, là phần thiết kế giáo án và quá trình đưa vào thực nghiệm sư
phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là tùy bút Người lái đò Sông Đà
trong SGK Ngữ văn 12, Tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội - 2012.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn bao gồm lý thuyết tiếp cận đồng bộ
tác phẩm văn chương và quá trình vận dụng trong việc dạy học tùy bút Người
lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã đề ra, chúng tôi dựa trên những phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp loại hình: nghiên cứu văn bản Người lái đò Sông Đà dưới góc
độ đặc trưng thể loại tuỳ bút.

10


- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết như phân tích văn bản, tổng
hợp tài liệu, tư liệu về tác giả, tác phẩm.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tế như điều tra khảo sát hiện trạng,
phát phiếu điều tra, thống kê số liệu, thực nghiệm sư phạm từ đó rút ra kết
luận.
(Nguồn số liệu, tư liệu sử dụng trong Luận văn này được lấy từ việc
khảo sát cụ thể tại trường THPT Quốc Oai, Hà Nội. Ngoài ra, được phép của
các bạn đồng nghiệp, chúng tôi có sử dụng một số tư liệu, hình ảnh trong quá
trình dạy học bộ môn ở các trường trong khu vực).
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn của chúng tôi gồm ba chương
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn. Đây là chương có nhiệm vụ nghiên cứu
lý luận chung về quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương, quan điểm
tiếp cận đồng bộ tuỳ bút Người lái đò Sông Đà.
- Chương 2: Tổ chức dạy học tác phẩm Người lái đò Sông Đà theo hướng tiếp
cận đồng bộ. Trên cơ sở định hướng lý luận chung, chúng tôi đi sâu tìm hiểu
các cách thức, biện pháp dạy học tác phẩm một cách toàn diện, đồng bộ.

- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm. Gồm giáo án giảng dạy, quá trình thực
nghiệm và các kết luận khoa học.

11


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương
Tác phẩm văn học là sản phẩm sáng tạo tinh thần của nhà văn với nội
dung trọn vẹn và hình thức hoàn chỉnh. Việc tiếp cận, chiếm lĩnh thế giới nghệ
thuật của tác phẩm là một quá trình khó khăn, phức tạp đòi hỏi người tiếp nhận
phải có năng lực, có cách thức, phương pháp phù hợp. Điều này phụ thuộc vào
lứa tuổi, trình độ, hoàn cảnh của người tiếp nhận. Có thể nói, cùng với sự ra
đời của văn chương, khoa học tiếp cận cũng xuất hiện, như một công cụ hiệu
năng giúp người đọc, người học chiếm lĩnh giá trị tác phẩm, đồng sáng tạo với
nhà văn. Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học vừa mang tính lịch sử, vừa in
đậm dấu ấn thời đại, đồng thời thể hiện bản sắc của mỗi cộng đồng. Đặc biệt,
phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học chịu ảnh hưởng mạnh mẽ các khuynh
hướng nghiên cứu, phê bình văn học.
Những năm vừa qua, việc tiếp cận tác phẩm văn học trong và ngoài nhà
trường, vì vậy, cũng có nhiều đổi thay. Có khi, đã quá thiên về phương diện
lịch sử phát sinh, có lúc chịu ảnh hưởng của lý thuyết cấu trúc,... Đến những
năm 60 của thế kỷ XX, lý thuyết tiếp nhận văn học đạt được nhiều thành tựu
mới. Do ảnh hưởng của tâm lý học sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật, khuynh
hướng phân tích văn chương theo hướng lịch sử chức năng được đặc biệt đề
cao. Ở nước ta, theo GS Phan Trọng Luận, tùy thuộc năng lực và bản lĩnh khoa
học của mỗi người mà mỗi người có cách tiếp cận tác phẩm văn chương khác
nhau. Có người coi trọng hoàn cảnh lịch sử xã hội ra đời tác phẩm; có người đề

cao cách thức khám phá giá trị tác phẩm từ góc độ cấu trúc; lại có người do
ảnh hưởng của phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm (hay hướng
học sinh vào trung tâm) lại coi trọng sở thích cảm thụ chủ quan của người
học,... Điều đó dẫn đến sự “lệch pha” trong quá trình khám phá thế giới nghệ
thuật vô cùng phong phú đa dạng của tác phẩm.

12


Vậy đâu là quan điểm đúng đắn về cách tiếp cận tác phẩm văn học?
Theo GS Phan Trọng Luận, “Nguyên nhân chủ yếu không phải ở trình độ, tài
năng mà chính là ở phương pháp luận tiếp cận tác phẩm văn chương cụ thể.
Một kết luận khoa học văn chương quan trọng và cơ bản đối với người nghiên
cứu và giảng dạy văn học là luôn luôn nắm vững một quan điểm tiếp cận đồng
bộ, một sự vận dụng hài hòa các phương pháp lịch sử phát sinh, cấu trúc văn
bản và lịch sử chức năng khi tiếp cận tác phẩm văn chương. Một phương pháp
tiếp cận khoa học như vậy được xây dựng từ nhận thức đúng đắn về nguồn gốc
của văn học, về bản chất cấu trúc và sinh mệnh của tác phẩm văn chương và đó
cũng là sự vận động nhuần nhuyễn những quan điểm khách quan và khoa học
về việc tìm hiểu một tác phẩm văn chương cụ thể.”[18, tr.250]
1.1.2. Các hướng tiếp cận chủ yếu
1.1.2.1. Tiếp cận tác phẩm văn chương từ góc độ lịch sử phát sinh
Văn học là một hình thái ý thức thuộc kiến trúc thượng tầng, phản ánh
cuộc sống bằng hình tượng với ngôn từ giàu chất nghệ thuật. Tác phẩm văn
học, dù ra đời ở đâu, thời kỳ nào cũng đều phản ánh cuộc sống, bộc lộ tâm tư
khát vọng của con người. Sự ra đời của mỗi tác phẩm luôn gắn liền với một bối
cảnh lịch sử - văn hóa cụ thể. Từ hiện thực vô cùng sinh động của bộn bề cuộc
sống, nhà văn, bằng tài năng và tâm huyết của mình tái hiện trong tác phẩm
những hình tượng tiêu biểu, điển hình. Qua đó, nhà nghệ sĩ bộc lộ nỗi niềm
tâm trạng, bày tỏ mơ ước và lý tưởng của thời đại. Bởi vậy, việc tiếp cận và

chiếm lĩnh thế giới của sự sáng tạo đó không thể tách khỏi hoàn cảnh ra đời,
lịch sử phát sinh phát triển của xã hội – cái nôi sinh dưỡng nhà văn và tác
phẩm. Đây chính là cơ sở của quan điểm tiếp cận văn chương từ khuynh hướng
lịch sử phát sinh tác phẩm.
Quan điểm tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ lịch sử phát sinh xuất
hiện rất sớm và có nhiều đóng góp cho ngành phê bình văn học thế giới và
trong nước. Để hiểu giá trị của hai thiên sử thi Iliat và Odixe, không thể tách

13


rời chúng khỏi bối cảnh lịch sử - xã hội Hy Lạp giai đoạn chuyển từ chiếm hữu
nô lệ sang hình thành xã hội có giai cấp; giá trị của Đường thi, Tống phú, Minh
Thanh truyện sẽ sáng rõ hơn khi ta đặt chúng dưới lăng kính của tư tưởng Tam
giáo đồng nguyên. Tương tự như vậy, làm sao Truyện Kiều (Nguyễn Du) phát
huy hết ý nghĩa của nó trong lòng độc giả khi ta tách tác phẩm khỏi bối cảnh xã
hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, đành rằng sáng
tạo của Tố Như có nguồn gốc từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân tận bên xứ Trung Quốc xa lắc xa lơ!
Đây là cách vận dụng những tri thức ngoài văn bản để soi sáng giá trị
bên trong tác phẩm. Hướng tiếp cận này, ngoài việc chủ yếu đi sâu tìm hiểu
hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm, còn hướng người đọc tìm hiểu về cuộc
đời và sự nghiệp của tác giả - chủ thể sáng tạo. Điều đó là hết sức có lý bởi tư
tưởng của tác phẩm chính là sự ánh phản tư tưởng thời đại qua tâm hồn tác giả.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua đối tượng nghiên cứu của chính luận văn
– tùy bút Người lái đò Sông Đà. Sau khi cuộc trường kỳ kháng chiến chống
Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc đi lên xây dựng CNXH, đối tượng phản ánh
của nền văn hoc có nhiều thay đổi. Lý tưởng lớn của thời đại, bên cạnh khát
vọng thống nhất Đất nước, là xây dựng cuộc sống mới trên miền Bắc thân
thương. Nền văn học xuất hiện những hình tượng mới mang tầm vóc thời đại

như người lính, anh thợ mỏ, chị nông dân... những con người đang ngày đêm
cống hiến và hy sinh nơi hậu phương lớn miền Bắc XHCN.
Trong việc tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp tác giả, vấn đề phong cách
nghệ thuật có vai trò quan trọng. Có thể khẳng định, phong cách tác giả góp
phần làm nên phong cách thời đại, phong cách văn học dân tộc. Bởi vậy, việc
khám phá phong cách Nguyễn Tuân giúp chúng ta hiểu rõ hơn Người lái đò
Sông Đà.
Tuy nhiên, nếu quá coi trọng yếu tố lịch sử ra đời của tác phẩm sẽ dẫn
đến sự phiến diện trong nghiên cứu bởi tính chủ quan, một chiều. Điều này,
trong thực tế đã diễn ra với nền phê bình Việt Nam sau năm 1945. Vẫn biết

14


tác phẩm văn chương là sản phẩm sáng tạo của một “con người này”(chữ dùng
của Hegel), của thời đại, nhưng cũng chỉ nên xem đây là một trong các kênh
thông tin giúp người đọc, người học chiếm lĩnh tác phẩm một cách trọn vẹn.
1.1.2.2. Tiếp cận từ góc độ cấu trúc tác phẩm
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thẩm mĩ có sự thống nhất cao giữa
nội dung và hình thức. Văn bản văn học là những tác phẩm đi sâu phản ánh
hiện thực khách quan, khám phá thế giới nội tâm, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ
của con người. Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn ngữ nghệ thuật, có
hình tượng, có tính thẩm mĩ cao, gợi nhiều liên tưởng, tưởng tượng. Nó được
xây dựng theo một phương thức riêng của từng loại thể với quy ước, cách thức
đặc trưng. Với thể tự sự, là cốt truyện, nhân vật, lời văn; với thể trữ tình là vần
điệu, nhịp điệu, giọng điệu, tứ thơ; với kịch là xung đột, hồi, cảnh, lời thoại,...
Vì vậy, có thể khẳng định, tiếp cận văn học, trước hết và quan trọng nhất chính
là khám phá bản thân tác phẩm, từ đề tài đến chủ đề, từ tư tưởng đến cảm hứng
nghệ thuật, từ ngôn ngữ đến kết cấu,... Hướng tiếp cận này quan tâm đến thế
giới bên trong của văn bản nhằm xác lập giá trị và vị trí của tác phẩm. Quan

điểm tiếp cận này giúp người học tập, nghiên cứu không thoát ly văn bản – đứa
con tinh thần của nhà văn.
Để thẩm thấu được các giá trị tự thân của văn bản, đòi hỏi mỗi người
phải có vốn hiểu biết nhất định về ngôn ngữ, về lý luận văn học, về tâm lý học.
Đây là điểm mấu chốt phân biệt phương pháp tiếp cận văn học đích thực với
lối phân tích xã hội học tầm thường. Hướng tiếp cận này đòi hỏi người đọc
phải có tri thức tổng hợp, toàn diện, dù ở mức tối thiểu. Đó là kiến thức về
ngôn ngữ, về loại thể, về thi pháp, phong cách. Người đọc cũng cần sự trải
nghiệm trong môi trường văn chương, môi trường học thuật thì quá trình tiếp
nhận mới thực sự hiệu quả.
Trước hết, nói về vốn ngôn ngữ. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của tác
phẩm, cũng là đối tượng cảm nhận của người đọc. Ngôn ngữ trong tác phẩm

15


là ngôn ngữ của cuộc sống xã hội, được nhà văn lựa chọn, sử dụng một cách
sáng tạo. Vì vậy, nó vừa là phương tiện, vừa là mục đích mà người nghệ sĩ
hướng đến. Ngôn từ trong tác phẩm vừa mang tính lịch sử, vừa in đậm dấu ấn
thời đại đồng thời có những đặc trưng cơ bản. Đó là tính hình tượng, tính hàm
súc, tính biểu cảm và tính cá thể. Để tri nhận giá trị tác phẩm, đòi hỏi người
đọc cũng phải có vốn ngôn ngữ, có khả năng cảm hiểu và sáng tạo
Bên cạnh ngôn ngữ, người đọc cũng cần có hiểu biết về lý luận văn học,
đặc biệt kiến thức về loại thể, về phong cách. GS Phan Trọng Luận từng khẳng
định “Một trong những con đường đi vào tác phẩm văn chương là nhận diện
được loại thể. Đến với thơ không giống với tự sự hay kịch”[18, tr.255]. Thơ là
thể loại văn chương nằm trong phương thức trữ tình, nảy sinh rất sớm trong đời
sống. Thơ tác động đến người đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa bằng
khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc suy nghĩ cụ thể,
vừa gián tiếp qua liên tưởng và những tưởng tượng phong phú. Tự sự, đặc biệt

là tiểu thuyết, nổi bật lên ở khả năng phản ánh một cách toàn vẹn và sinh động
hiện thực đời sống theo hướng tiếp xúc hết sức gần gũi. Ngoài khả năng tái
hiện bức tranh mang tính tổng thể của đời sống xã hội, khả năng đi sâu khám
phá số phận cá nhân cũng là một phẩm chất tiêu biểu của tự sự. Trong mối liên
hệ với các loại hình khác, kịch hướng tới sự khái quát nghệ thuật bằng việc
miêu tả tập trung, dồn nén hiện thực và một hình thái ngôn ngữ mang tính loại
biệt. Gạt bỏ những gì rườm rà, tản mạn không phù hợp với điều kiện sân khấu,
kịch lựa chọn những xung đột trong đời sống làm đối tượng mô tả. Dưới dạng
xung đột, những vấn đề thuộc bản chất của hiện thực được quy tụ, nổi bật. Lý
giải được điều đó, nghĩa là nhà văn đã giải mã những vấn đề nhân bản của cuộc
sống.
Việc nắm vững các vấn đề trên góp phần nâng cao hiệu quả tiếp nhận tác
phẩm theo hướng văn bản. Đây là hướng tiếp cận quan trọng, mang tính chất
chủ đạo trong quá trình dạy học ngữ văn ở bậc phổ thông hiện nay. Tuy nhiên,
cũng cần ngăn ngừa khuynh hướng cực đoan, chỉ nhìn nhận giá trị tác

16


phẩm ở phương diện thẩm mĩ. Đúng là nghệ thuật chân chính muôn thuở luôn
hướng đến các giá trị chân – thiện – mĩ. Nhưng, nói như đại thi hào Đức
W.Gơthe “Chỉ cây đời mới mãi mãi xanh tươi”. Tác phẩm văn học chứa đựng
trong nó muôn màu muôn vẻ của đời sống xã hội, con người mà bạn đọc không
thể bỏ qua. Hơn nữa, theo GS Phan Trọng Luận “Chính những yếu tố văn hóa
của văn bản lại càng làm nổi rõ hơn yếu tố thẩm mĩ trong tác phẩm”[18,
tr.253]. Vì vậy, hướng tiếp cận tác phẩm văn chương từ góc độ cấu trúc văn
bản có ý nghĩa quan trọng với người dạy, người học.
1.1.2.3. Tiếp cận từ lịch sử chức năng
Một lần nữa, có thể khẳng định, môn Văn có vị trí và ý nghĩa quan trọng
trong nền giáo dục phương Đông, xưa cũng như nay. Và phương pháp dạy học

văn, vì thế cũng luôn được coi trọng và làm mới, nó thay đổi theo thời đại,
theo sự chi phối của ý thức hệ.
Thời phong kiến trung đại, do ảnh hưởng của hệ ý thức và mĩ học Khổng
giáo, dạy học Văn là dạy học để viết văn, làm thơ nhằm mục đích khoa cử.
Thời Pháp thuộc, mô hình giáo dục và nhà trường tư sản thuộc địa được thiết
lập, dần thay thế cho nền học cũ. Mặc dù môn học quốc văn bị bạc đãi, nhiều
giáo viên người Việt yêu nước, có tư tưởng tiến bộ đã khơi gợi lòng tự hào dân
tộc qua nhiều giờ dạy. Nhằm mục đích đó, phương pháp dạy học đã có nhiều
thay đổi, trở nên sinh động, linh hoạt, gần với nền giáo dục thế giới hơn. Sau
năm 1945 “Môn văn có vị trí xứng đáng chưa từng có trong nhà trường”[18,
tr.47]. Chúng ta tiếp thu nhiều phương pháp dạy học tiến bộ của nhân loại,
trong đó chủ yếu từ Liên Xô cũ và Đông Âu. Tuy nhiên, một lần nữa, cuộc
sống với sự phát triển nhanh chóng lại đặt ngành giáo dục, trong đó có môn
Ngữ văn trước nhiều thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải “Đổi mới căn bản,
toàn diện” nội dung và phương pháp dạy học.
Lý luận văn học những năm gần đây đã nhấn mạnh thêm hướng lịch sử
chức năng trong tiếp cận tác phẩm văn chương. Đó là việc xem xét, khẳng định
vai trò quan trọng của độc giả đối với tác phẩm. Các nhà văn, đặc biệt là

17


những tác giả lớn như A.X.Puskin, A.Sêkhốp, L.Tônxtôi, F.Kapka, A.Camuy,
Ơ.Hêminguê... rất coi trọng vai trò của độc giả, coi độc giả là người đồng hành
của quá trình sáng tạo, góp phần quyết định sinh mệnh của tác phẩm. Rõ ràng,
tác phẩm văn chương, dù kì vĩ như Iliat, dù tráng lệ như RamaYana,...
thì cũng chỉ là tập hợp những kí hiệu ngôn từ mang nghĩa nếu nó không đến
với độc giả. Văn bản chỉ là tác phẩm khi nó được độc giả đón nhận, thưởng
thức, khi người đọc cùng suy tư, chiêm nghiệm với nhà văn. Khi ấy, tác phẩm
mới thực sự “sống” trong lòng độc giả. Nó có hành trình, có số phận, có cuộc

đời riêng.
Nếu tác giả và tác phẩm chỉ có một thì độc giả lại vô cùng phong phú, đa
dạng về dân tộc, trình độ, hoàn cảnh. Tác phẩm lớn là tác phẩm, nói như Nam
Cao trong Đời thừa “Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình...
Nó làm cho người gần người hơn”[6, tr.76]. Bởi vậy, quá trình tiếp nhận tác
phẩm cũng hết sức đa chiều, nhiều cấp độ.
Trước hết, cần phân biệt tiếp nhận và đọc. Tiếp nhận rộng hơn đọc vì
trước khi có chữ viết và công nghệ in ấn, tác phẩm văn học đã được truyền
miệng. Ngày nay, khi tác phẩm văn học chủ yếu được in ra, nhiều người vẫn
tiếp nhận tác phẩm không phải do đọc bằng mắt mà nghe bằng tai, như nghe
chính tác giả đọc thơ. Tiếp nhận văn học chính là quá trình hòa mình vào tác
phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên
bằng ngôn từ, lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, cái
tài của người nghệ sĩ. Bằng trí tưởng tượng, bằng kinh nghiệm sống, người đọc
khám phá ý nghĩa ngôn từ, cảm nhận sức sống của mỗi hình ảnh, làm cho tác
phẩm từ một văn bản khô khan trở thành thế giới sống động, cuốn hút.
Quá trình giao tiếp giữa độc giả với tác phẩm mang tính cá thể hóa rõ
nét. Năng lực, thị hiếu, sở thích của các nhân có vai trò quan trọng. Tùy thuộc
lứa tuổi, học vấn, kinh nghiệm sống mà có kết quả tiếp nhận khác nhau. Thậm
chí, cùng một người, một tác phẩm nhưng ở những thời điểm khác nhau lại có

18


×