Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

SKKN 2018 XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI THEO HƯỚNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.75 KB, 27 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ TĨNH


SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM
Đề tài
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI THEO HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN NGHỊ LUẬN THUỘC
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11

Người thực hiện: NGUYỄN THỊ LỆ THANH
Đơn vị: Trường THPT Lê Quảng Chí

Năm học 2018 – 2019
MỤC LỤC
Trang


A – MỞ ĐẦU …………………………………………………………..
I – Lí do chọn đề tài ………………………………………………………….
II – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………….
III – Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài ……………………………………….
IV – Giả thiết khoa học của đề tài …………………………………………...
V – Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………..
VI – Đóng góp mới của đề tài ……………………………………………….
VII – Cấu trúc của đề tài …………………………………………………….
B – NỘI DUNG………………………………………………......................
CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI……….
1.1.Cơ sở lí luận………………………………………………………………
1.1.1. Vài nét về câu hỏi trong dạy học ………………………………………


1.1.2. Câu hỏi trong dạy học đọc hiểu VB ……………………….................
1.1.3. Văn bản nghị luận...............................................................................
1.2. Cơ sở thực tiễn…………… ……………………………………………
1.2.1.Thực tế sử dụng câu hỏi trong dạy học Ngữ văn……………………..
1.2.2. Thực tế dạy học VBNL ở trường THPT hiện nay……………………….
CHƯƠNG II – XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI………………….....
2.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống câu hỏi dạy học đọc hiểu VBNL ………
2.1.1. Xác định các mục tiêu cần đạt…………………………………………
2.1.2 Đề xuất mô hình câu hỏi sử dụng trong dạy học ………………………
2.2. Hệ thống câu hỏi trong dạy đọc hiểu VBNL……..……………………..
2.2.1. Chiếu cầu hiền…………………………………………………………
2.2.2. Xin lập khoa luật………………………………………………………
2.2.3.Về luân lí xã hội của nước ta…………………………………………..
2.2.4. Một thời đại trong thi ca……………………………………………….
2.2.5. Tiếng mẹ đẻ nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức…………………
2.2.6. Ba cống hiến vĩ đại của Các – mác……………………………………
2.3. Sử dụng hệ thống câu hỏi trong tiến trình dạy học chùm bài VBNL…..
CHƯƠNG III – THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM…………………................
3.1.Thực nghiệm sư phạm……………………………………………………
3.1.1. Mục đích thực nghiệm…………………………………………………
3.1.2.Đối tượng thực nghiệm…………………………………………………
3.1.3. Kế hoạch thực nghiệm…………………………………………………
3.2. Kết quả thực nghiệm ……………………………………………………
3.3 Đánh giá thực nghiệm …………………………………………………
3.3.1. Đánh giá việc tổ chức dạy học thực nghiệm…………………………
3.3.2. Đánh giá qua kết quả học tập của học sinh……………………………
C – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ …………………………………….......
1. Kết luận:…………………………………………………………………...
2. Kiến nghị:………………………………………………………………….


1
1
2
2
2
2
2
2
3
3
3
5
4
6
7
7
8
9
9
9
9
9
10
10
11
12
13
13
14
18

18
18
18
18
18
18
18
19
20
20
20

A – MỞ ĐẦU
I – Lí do chọn đề tài
Dạy học theo hướng phát triển năng lực (PTNL) người học là xu hướng của giáo dục
quốc tế hiện nay. Với Việt Nam từ sau nghị quyết 29 của TW Đảng về Đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục và đào tạo với mục tiêu trọng tâm là chuyển từ hướng tiếp cận tri thức
sang tiếp cận năng lực người học. Hiện nay, công cuộc xây dựng chương trình (CT) và


sách giáo khoa (SGK) mới đang từng bước hoàn thiện, tuy nhiên để dạy học tốt được CT
và SGK mới thì giáo viên (GV) phải thực sự hiểu sâu sắc phương pháp dạy học (PPDH)
theo PTNL học sinh (HS). Có như vậy khi tiếp cận CT mới tránh được sự bỡ ngỡ, bất
ngờ.
Câu hỏi trong dạy học được xem là một trong những cách thức tích cực hóa vai trò của
người học. Đó là một trong những công cụ quan trọng để hướng dẫn người học chiếm
lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng. Xây dựng hệ thống câu hỏi trở thành khâu then chốt
trong quá trình tổ chức dạy học của bất kỳ PPDH nào. Đối với CT môn Ngữ văn sau năm
2015, CT được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực, hệ thống câu hỏi trong giờ đọc
hiểu văn bản (VB) không đơn giản chỉ là hướng dẫn HS thu nhận kiến thức về nội dung

của VB mà còn phải hướng đến việc hình thành và rèn luyện năng lực đọc hiểu cho
người học. Như vậy, xây dựng hệ thống câu hỏi theo hướng PTNL để dạy học đọc hiểu
VB thuộc CT hiện hành là bước đi quan trọng để đổi mới dạy học Ngữ văn hiện nay.
CT Ngữ văn hiện hành với sự đổi mới chuyển từ giảng văn sang đọc hiểu VB, do đó có
sự xuất hiện đa dạng các loại VB như: VB nghệ thuật, văn bản nghị luận (VBNL), VB
nhật dụng… trong đó nổi bật là xuất hiện có tính hệ thống các VBNL, xuyên suốt CT
Ngữ văn THPT. Hơn nữa, xu hướng xây dựng CT và SGK mới cũng định hướng cần phải
6 tác phẩm bắt buộc. Trong 6 tác phẩm bắt buộc đó có 3 tác phẩm thuộc VBNL: Hịch
tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn); Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn Độc lập (Hồ
Chí Minh). Ngoài ra, chúng ta cũng nhận thấy trong CT hiện này, các kiểu VBNL cũng
rất đa dạng, từ nghị luận trung đại đến hiện đại. Có thể thấy VBNL đóng vai rất quan
trọng trong dạy học Ngữ văn theo PTNL người học. Tuy nhiên, đặc trưng của loại VB
này thường khô khan, khó hấp dẫn, vì thế GV và HS thường “cho qua” hoặc dạy học “đối
phó”. Từ thực tế đó tôi quyết định lựa chọn đề tài “Xây dựng hệ thống câu hỏi theo
hướng PTNL HS trong dạy học đọc hiểu VBNL thuộc CT Ngữ văn 11”. Qua đề tài này
tôi muốn xây dựng được hệ thống câu hỏi theo nhiều cấp độ và hình thức khác nhau để
dạy học VBNL theo hướng PTNL người học.
II – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu: Câu hỏi trong dạy học theo hướng PTNL HS
2. Phạm vi nghiên cứu: các VBNL thuộc CT Ngữ văn 11 (cơ bản)
III – Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
1. Mục tiêu của đề tài: Nghiên cứu, xây dựng hệ thống câu hỏi để dạy học theo hướng
PTNL HS. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, qua hệ thống VBNL người viết muốn rút ra
một số kinh nghiệm trong xây dựng và sử dụng câu hỏi để đổi mới PPDH.
2. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu lí luận về câu hỏi trong dạy học Ngữ văn theo hướng PTNL.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi để dạy học VBNL
- Thực nghiệm sư phạm.



IV – Giả thiết khoa học của đề tài
Nếu xây dựng hệ thống câu hỏi theo hướng PTNL để dạy học VBNL thành công thì sẽ
giúp cho GV nhận thức được đặc điểm của câu hỏi trong dạy học PTNL. Từ đó vận dụng
linh hoạt trong từng hoàn cảnh và đối tượng HS cụ thể, qua đó đạt được mục tiêu dạy học
theo hướng tiếp cận năng lực.
V – Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: phân tích, tổng hợp lí luận
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: khảo sát, thống kê, thực nghiệm sư phạm...
VI – Đóng góp mới của đề tài
Đề tài có sự nghiên cứu về lí luận về cách xây dựng câu hỏi theo hướng PTNL; cách thức
tổ chức dạy học VBNL theo hướng PTNL. Đây là vấn đề mới và còn nhiều lúng túng
trong quá trình tiếp cận xu hướng dạy học mới hiện nay. Vì vậy, đề tài sẽ là một trong
những tài liệu tham khảo tốt cho GV trong việc tìm tòi đổi mới PPDH.
VII – Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm những nội dung chính sau:
Chương I – Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương II – Xây dựng hệ thống câu hỏi theo hướng PTNL HS trong dạy học đọc hiểu
VBNL thuộc CT Ngữ văn 11.
Chương III – Thực nghiệm sư phạm

B – NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Vài nét về câu hỏi trong dạy học
1.1.1.1. Khái niệm và vai trò của câu hỏi trong dạy học
Câu hỏi là một dạng cấu trúc ngôn ngữ diễn đạt một yêu cầu, một “mệnh lệnh” của GV,
đòi hỏi HS cần giải quyết nội dung kiến thức bài học. Mục đích của việc đặt câu hỏi
trong dạy học: giúp GV thực hiện việc giảng bài, nhằm luyện tập, thực hành, nhằm
hướng dẫn tổ chức HS học, nhằm khích lệ và kích thích suy nghĩ, nhằm đánh giá HS.
Vì câu hỏi có một vai trò quan trọng như thế nên có thể nói chất lượng cũng như khả

năng thành công của một bài học và một giờ dạy sẽ được quyết định chủ yếu qua hệ
thống câu hỏi. Bài học ấy, giờ học ấy đã thật sự phát huy được tính tích cực của người
học hay chưa; mục đích của bài học ấy, giờ học ấy có hướng đến phát triển năng lực hay
không, về căn bản là do hệ thống câu hỏi quyết định. Do đó, khả năng thành công của
việc thay đổi CT theo hướng tiếp cận năng lực sẽ phụ thuộc nhiều vào nhận thức về bản
chất và mục đích của hệ thống câu hỏi cũng như năng lực thiết kế những câu hỏi này của
các nhà biên soạn SGK và GV đứng lớp. Đối với HS câu hỏi được sử dụng như một
phương tiện để tổ chức, hướng dẫn quá trình nhận thức; câu hỏi giúp HS lĩnh hội tri thức


một cách có hệ thống, tránh tình trạng ghi nhớ máy móc và tạo không khí học tập sôi nổi.
Đối với GV đặt câu hỏi giúp GV đánh giá được năng lực của HS giúp người dạy có
thông tin phản hồi từ phía người học để có những điều chỉnh phù hợp. Việc đặt câu hỏi
còn nâng cao tầm hiểu biết của GV bởi vì hỏi cũng là một cách bổ ích cho việc GV đi sâu
vào việc hiểu bài học.
1.1.1.2. Những yêu cầu khi xây dựng câu hỏi trong dạy học môn Ngữ văn
- Phân loại câu hỏi: Mục đích của việc đặt câu hỏi là phải làm nổi bật đặc trưng bộ môn
Ngữ văn nói chung cũng như đặc trưng kiểu bài phân tích tác phẩm nói riêng. Từ đó, ta
có thể xác định được hệ thống câu hỏi cho kiểu bài này thường như sau:
+ Hệ thống câu hỏi tìm những chi tiết liên quan đến nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
+ Hệ thống câu hỏi bộc lộ cảm nhận, cảm xúc của HS từ những chi tiết của tác phẩm
+ Hệ thống câu hỏi phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo của HS.
- Yêu cầu về nội dung:
+ Câu hỏi khai thác được đặc sắc nổi bật thể loại tác phẩm.
+ Câu hỏi có tính dẫn dắt, gợi mở để HS khám phá vẻ đẹp về nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm.
+ Câu hỏi khai thác được cảm nhận và sự đa dạng trong tiếp nhận của HS và có khả năng
phân hóa HS
- Yêu cầu về hình thức
+ Cấu trúc ngắn gọn, rõ ràng, trực tiếp

+ Câu hỏi được diễn đạt hấp dẫn, kích thích năng lực tư duy của HS
- Yêu cầu về phương pháp sử dụng:
+ Hệ thống câu hỏi đa dạng, phù hợp với các khâu, các phần mục của quá trình đọc hiểu
VB; phù hợp với đặc trưng thể loại và mục tiêu bài học
+ Thường xuyên đặt HS vào trong các tình huống thực tế, xử lý câu trả lời của HS có tính
sư phạm và sáng tạo
1.1.2. Câu hỏi trong dạy học đọc hiểu VB theo định hướng PTNLHS
1.1.2.1. Câu hỏi dạy đọc hiểu VB
Câu hỏi trong dạy học đọc hiểu là công cụ được sử dụng để hướng dẫn, tổ chức các hoạt
động đọc hiểu cho HS, giúp HS giải mã và kiến tạo nghĩa cho VB, đồng thời là hệ thống
thao tác giúp HS hình thành năng lực đọc hiểu. Để câu hỏi trong dạy học đọc hiểu phát
huy được hiệu quả, GV bên cạnh việc phải tuân thủ những yêu cầu chung của việc sử
dụng câu hỏi trong dạy học còn cần phải đảm bảo một số yêu cầu của câu hỏi trong dạy
học đọc hiểu nói riêng như:
- Câu hỏi đọc hiểu VB phải được thiết kế phù hợp với đặc trưng thể loại của VB.
- Câu hỏi đọc hiểu VB, đặc biệt là VB văn học, phải hướng dẫn người đọc khám phá, tìm
hiểu cả về phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của VB.


- Câu hỏi đọc hiểu VB phải phản ánh đúng các hoạt động tư duy và xảm xúc xảy ra trong
tiến trình đọc VB, chẳng hạn như liên hệ; hình dung, tưởng tượng; dự đoán; suy luận;
khái quát hóa; đánh giá; kiểm soát quá trình đọc, v.v..
- Câu hỏi đọc hiểu VB phải được thiết kế đảm bảo các giai đoạn của tiến trình đọc hiểu
1.1.2.2. Một số hình thức xây dựng câu hỏi theo hướng PTNL
Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng PTNLHS môn Ngữ Văn
của Bộ GD&ĐT (2014) đã đưa ra các bậc trình độ câu hỏi theo định hướng năng lực như
sau:
- Các bài tập dạng tái hiện: Yêu cầu sự hiểu và tái hiện tri thức. Bài tập tái hiện
không phải trọng tâm của bài tập định hướng năng lực.
- Các bài tập vận dụng: Các bài tập vận dụng những kiến thức trong các tình

huống không thay đổi. Các bài tập này nhằm củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng cơ
bản, chưa đòi hỏi sáng tạo.
- Các bài tập giải quyết vấn đề: Các bài tập này đòi hỏi sự phân tích, tổng hợp,
đánh giá, vận dụng kiến thức vào những tình huống thay đổi, giải quyết vấn đề. Dạng bài
tập này đòi hỏi sự sáng tạo của người học.
- Các bài tập gắn với bối cảnh, tình huống thực tiễn: Các bài tập vận dụng và
giải quyết vấn đề gắn các vấn đề với bối cảnh và tình huống thực tiễn. Những bài tập này
là những bài tập mở, tạo cơ hội cho nhiều cách tiếp cận, nhiều con đường giải quyết khác
nhau.
Qua 4 năm thực hiện, việc đổi mới PPDH và kiểm tra đánh giá theo định hướng
PTNL bước đầu đã gặt hái được những thành công nhất định. Đó là nhận thức và tâm thế
của GV trong việc tiếp cận và chuyển biến về một PPDH mới. Đây chính là sự tập dượt
quan trọng để khi triển khai CT và SGK mới GV tránh khỏi những bỡ ngỡ, lúng túng.
Tuy nhiên, trên nền tảng CT nặng về cung cấp kiến thức như hiện nay, thì dạy học PTNL
vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Vận dụng những PPDH và phương thức kiểm tra đánh giá
mới vẫn còn tình trạng “rượu cũ bình mới”. Về cơ bản một giờ tổ chức học trên lớp vẫn
chưa có sự đổi mới đột phá.
Theo nghiên cứu của một số học giả như: PGS.TS Bùi Mạnh Hùng; ThS Nguyễn
Thị Ngọc Thúy; ThS Dương Thị Hồng Hiếu có đưa hệ thống câu hỏi dạy học PTNL ở
SGK Ngữ văn của một số nước như Mỹ; Nhật Bản; Hàn Quốc… trong đó đặc biệt chú ý
đến việc phát triển kiến thức nền của HS trong dạy học đọc hiểu. Để tổ chức đọc hiểu
một VB, GV sẽ định hướng câu hỏi theo các nhóm sau:
- Trước khi đọc:
+ Yêu cầu HS phát huy năng lực phán đoán trước khi đọc.
+ Tạo nên sự nối kết giữa những điều sắp đọc và những hiểu biết vốn có của HS về phạm
vi cuộc sống mà VB phản ánh.
- Trong khi đọc:


+ Hướng dẫn HS tìm hiểu VB trên cơ sở đặc trưng của thể loại

+ Câu hỏi khơi gợi HS tìm ra giá trị của VB và thông điệp mà HS rút ra từ VB.
- Sau khi đọc:
+ Câu hỏi yêu cầu HS liên hệ, suy ngẫm về những vấn đề trong VB với những vấn đề/
tình huống tương tự trong cuộc sống thực.
+ Câu hỏi/ bài tập đọc hiểu tạo ra những tình huống để HS vận dụng kiến thức, kỹ năng
vừa học trong quá trình đọc để giải quyết tình huống được đặt ra.
Thông qua các bước tổ chức đọc hiểu này, GV rèn luyện và PTNL đọc – viết – nói –
nghe cho HS. Những câu hỏi dạng này giúp người đọc hình thành và rèn luyện kỹ năng
đọc với những chỉ dẫn rất cụ thể tạo ra sự tương tác giữa kiến thức nền của người đọc với
VB.
Chúng ta có thể nhận thấy, ở Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra đánh giá theo định
hướng PTNL HS môn Ngữ Văn của Bộ GD&ĐT (2014) chủ yếu nhận mạnh về cách thức
và phương pháp để xây dựng câu hỏi kiểm tra đánh giá người học, theo các mức độ. Với
phương pháp này giúp chúng ta tạo ra các câu hỏi dùng để phân hóa HS theo năng lực rất
tốt, tuy nhiên để rèn luyện nâng cao PTNL của người học thì chưa rõ. Còn đối với cách
thức mà các tác giả nghiên cứu, học tập từ nước ngoài thì nó sẽ giúp cho GV có phương
pháp xây dựng câu hỏi phù hợp trong tiến trình tổ chức dạy học để nhằm rèn luyện PTNL
cho HS.
1.1.3. Văn bản nghị luận
1.1.3.1. Vài nét về VBNL
“Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn luận
về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết học, đạo đức...). Vấn đề
được nêu ra như một câu hỏi cần được giải đáp, cần được làm sáng tỏ. Luận là bàn về
đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để người ta nhận ra chân lí,
đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin với mình”
Từ đó ta có thể thấy, VBNL là sản phẩm của tư duy khoa học, là kiểu tư duy đi tìm đúng
bản chất sự vật hiện tượng, phản ánh đúng sự vật hiện tượng bằng nhiều phương pháp tư
duy, trong đó có tư duy logic và tư duy phản biện. Tư duy logic là một cấp độ cao của tư
duy, ở đó các mối liên hệ được sắp xếp theo một trình tự nhất định, có quy luật, căn cứ
khoa học. Tư duy phản biện là trình độ tư duy luôn tìm ra những mặt đối lập trong quá

trình tìm hiểu sự vật hiện tượng, vì thế luôn khám phá cái mới. Trong VBNL vẫn có hình
tượng, cảm xúc nhưng đặc điểm nổi bật vẫn là nghệ thuật lập luận sắc bén, luận cứ sắc
sảo, ngôn từ chính xác, sống động và thuyết phục. Chính vì thế văn chương nghệ thuật
thường gõ cửa trái tim và kích thích trí tưởng tượng người đọc trước tiên, còn VNL
nghiêng về khai mở tư duy, bừng sáng trí tuệ, khơi nguồn cảm hứng tranh luận, hùng
biện ở người đọc.


VBNL có một số đặc trưng cơ bản như: bày tỏ quan điểm, tư tưởng; giàu cảm xúc và có
cấu trúc chặt chẽ, logic
1.1.3.2. Các loại VBNL trong CT Ngữ văn THPT hiện hành.
VNL trung đại Việt Nam với các thể loại: chiếu (Chiếu cầu hiền), cáo (Bình Ngô đại
cáo), tựa (Tựa “ Trích diễm thi tập”), văn bia (Hiền tài là nguyên khí của quốc gia), điều
trần (Xin lập khoa luật). VBNL trung đại thường gắn với những sự kiện lịch sử của dân
tộc, được sử dụng trong bộ máy hành chính quốc gia mang tính quy phạm cao. Đặc điểm
nổi bật của loại VB này là tính chất “văn, sử, triết bất phân”.
VBNL hiện đại Việt Nam và nước ngoài có hai dạng: VBNL văn học (Nguyễn Đình
Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc; Một thời đại trong thi ca…) và VBNL
xã hội (Về luân lí xã hội ở nước ta; Tuyên ngôn độc lập; Nhìn về vốn văn hóa dân tộc;
…). VBNL hiện đại đề cập đến rất nhiều vấn đề của đời sống xã hội và văn học, thể hiện
những quan điểm, tư tưởng của cá nhân người viết nên rất phong phú về nội dung và
cách thể hiện.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực tế sử dụng câu hỏi trong dạy học Ngữ văn hiện nay
1.2.1.1. Hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài ở SGK
Một số điểm nổi bật của hệ thống câu hỏi ở phần “Hướng dẫn học bài” ở SGK:
- Câu hỏi đã thể hiện tinh thần dạy đọc hiểu theo đặc trưng thể loại.
- Hệ thống câu hỏi đã chú ý tích cực hóa hoạt động đọc hiểu của HS.
- Hệ thống câu hỏi đọc hiểu VBNL trong SGK Ngữ văn THPT đã chú ý phân hóa đối
tượng HS.

Tuy nhiên, soi chiếu theo tinh thần dạy học theo hướng PTNL, hệ thống câu hỏi trong
SGK vẫn còn tồn tại một hạn chế như:
- Hệ thống câu hỏi nặng về kiểm tra kiến thức, thiếu các câu hỏi tạo tình huống để PTNL
HS. Những câu hỏi có tình huống để tạo điều kiện cho HS tranh luận, phản bác còn hạn
chế. Cách nêu một số câu hỏi chưa kích thích nhu cầu tự khám phá, khả năng tư duy độc
lập và sự hứng thú của HS đối với việc đọc hiểu VB.
Hệ thống câu hỏi chưa thể hiện rõ tính tích hợp trong dạy học Ngữ văn, đặc biệt là tích
hợp các yêu cầu hình thành, rèn luyện 4 kĩ năng đọc, nghe, nói, viết trong bài đọc hiểu.
Kĩ năng đọc và nghe chưa được chú ý quan tâm trong quá trình hướng dẫn HS đọc hiểu
VB. Chưa có nhiều câu hỏi yêu cầu vận dụng kiến thức đã có, kiến thức liên môn để giải
quyết tình huống cụ thể đặt ra trong bài đọc, câu hỏi yêu cầu HS tích hợp các thông tin,
suy luận các thông tin, để tìm ra ẩn ý mục đích của người viết.
Khảo sát câu hỏi ở phần “Hướng dẫn học bài” của các VBNL ở SGK Ngữ văn 11 ta có
thể nhận thấy tính “mệnh lệnh”, áp đặt; đơn điệu, thiếu tính kết nối càng kiến cho VBNL
trở nên khô khan hơn. Các câu hỏi chỉ tập trung vào nội dung của VB, chưa thể hiện tính
tích hợp với các VB trước và sau nó; câu hỏi liên hệ thực tế còn ít; câu hỏi tạo tình huống


chưa có. Cùng với đó là ngôn ngữ dùng để diễn đạt câu hỏi còn khá áp đặt, chưa thể hiện
sự khơi gợi, hay cơ hội bày tỏ quan điểm của HS.
1.2.1.2. Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá
Một trong những bước quan trọng then chốt của đổi mới PPDH, đó là đổi mới hình thức
kiểm tra đánh giá. Từ 2014 đến này, hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá của môn Ngữ văn
đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, từ câu hỏi mang tính kiểm tra kiến thức sang PTNL. Việc
đưa VB ngoài SGK vào đề kiểm tra được xem là bước đi đột phá, tạo được hứng thú rất
lớn cho GV và HS. Tuy nhiên, trên thực tế, ở các bài kiểm tra thường xuyên GV ít chú
trọng đưa ra các câu hỏi theo hướng PTNL, mà chủ yếu là câu hỏi kiểm tra kiến thức. Hình
thức kiểm tra còn khô khan, hình thức thiếu tính sáng tạo, khám phá. Câu hỏi phần kiểm
tra định kỳ thì cũng chủ yếu là NLVH, thiên về kiểm tra kiến thức, thiếu tính vận dụng,
liên hệ thực tế. Có thể thấy, khi chuyển sang dần từ dạy học theo hướng chủ trọng kiến

thức sang hướng PTNL, GV còn lúng túng, bế tắc trong cách tổ chức dạy học. Một trong
những nguyên nhân đó là chưa xây dựng được hệ thống câu hỏi cốt lõi của dạy học PTNL.
1.2.2. Thực tế dạy học VBNL ở trường THPT hiện nay
1.2.2.1. Về phía GV
Qua khảo sát thực tế, cũng như từ thực tiễn dạy học của bản thân thường không hứng thú
khi dạy phần VBNL. Tỷ lệ GV chọn các VBNL để dạy thao giảng là rất thấp, đại đa số
GV đều cho rằng VBNL khô khan, giờ dạy thiếu tính hấp dẫn. Chính vì thế, khi dạy phần
VB này đa số GV ít đầu tư, tìm tòi đổi mới phương pháp; thường có tâm lí dạy cho qua,
ít nhấn mạnh. Khi dạy thường thiên về truyền đạt kiến thức, chú trọng nội dung hơn là
nghệ thuật, vì thế giờ dạy nặng về lí trí hơn là cảm xúc thẩm mỹ.
CT Ngữ văn hiện hành được xây dựng trên tinh thần tích hợp, tuy nhiên GV chưa có ý
thức dạy học tích hợp các VBNL với phần tiếng Việt và Làm văn trong CT, GV chưa
khai thác lợi thế của VBNL để rèn luyện PTNL HS.
1.2.2.2. Về phía HS
Về thái độ học tập, chúng ta dễ nhận thấy HS khá thờ ờ khi tiếp nhận những VBNL trong
CT. Có thể thấy ở mỗi tiết đọc hiểu VBNL, các em không hứng thú mà cũng không quan
tâm nhiều về nội dung và nghệ thuật của các VBNL.
Về kiến thức, kỹ năng đọc hiểu và tạo lập VBNL của HS nhìn chung chưa cao. Đối với
HS THPT thì hầu hết các bài kiểm tra đánh giá đều được thực hiện bằng hình thức viết
VNL (NLXH và NLVH). Một thực tế chúng ta dễ nhận thấy số HS có khả năng lập luận,
trình bày vấn đề một cách mạch lạc là rất ít. Đa số các em làm bài theo cảm tính, nhớ đến
đâu viết đến, các luận điểm, luận cứ thiếu tính logic, khoa học. Vì thấy đối với một bài
NLXH lỗi thường gặp của HS là thường đem dẫn chứng ra trước, nói lan man theo suy
nghĩ chủ quan của mình. Còn đối với NLVH, nếu là thơ thì các em thường “diễn nôm,
diễn xuôi” ý thơ, nếu là văn xuôi thì các em chủ yếu là tóm tắt lại cốt truyện chứ chưa tạo
được các luận điểm, luận cứ chặt chẽ. Một trong những nguyên nhân của lỗi thường gặp


này đó là HS chưa có ý thức học kỹ năng lập luận từ các VBNL trong CT. Đó cũng là
một “lỗ hỏng” đáng tiếc trong việc rèn luyện PTNL của bản thân qua hệ thống VBNL.

Từ những tồn tại của thực tế đó, chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận, tìm ra giải pháp để
khắc phục. Xây dựng hệ thống câu hỏi theo hướng PTNLHS là bước đi quan trọng, hứa
hẹn sẽ đem lại hiệu quả cao cho việc dạy phần VBNL trong CT Ngữ văn 11 nói riêng và
VBNL nói chung.
CHƯƠNG II: XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI THEO HƯỚNG PTNL HS
TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VBNL THUỘC CT NGỮ VĂN 11
2.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống câu hỏi dạy học đọc hiểu VBNL thuộc CT Ngữ
văn 11 theo hướng PTNL
2.1.1. Xác định các mục tiêu cần đạt
2.1.1.1. Mục tiêu về chuẩn kiến thức – kỹ năng
- Nắm được nghệ thuật lập luận của các VBNL: luận điểm mới mẻ, lập luận chặt chẽ,
phong cách đa dạng
- Hiểu được nội dung tư tưởng sâu sắc mới mẻ của các VBNL
- Nhận biết một vài đặc điểm cơ bản của VBNL trung đại và hiện đại
- Biết cách đọc - hiểu tác phẩm VNL theo đặc trưng thể loại
- Biết cách vận dụng những hiểu biết về VNL để tạo lập VB
2.1.1.2. Mục tiêu về năng lực cần đạt
- Năng lực tự học và tự chủ: Thông qua các VBNL thuộc CT Ngữ văn 11 có thể rèn luyện
năng lực tự tìm kiếm thông tin, tài liệu về VB. Từ việc nắm được đặc trưng thể loại của
VBNL có thể rèn luyện tư duy phản biện, bày tỏ quan điểm của cá nhân.
- Năng lực giao tiếp và hợp tác: Mục đích của VNL là thuyết phục người khác, do đọc
hiểu VBNL phải hình thành năng lực giao tiếp và hợp tác cho HS một cách “thấu tình,
đạt lí”
- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: Từ việc nắm được kiến thức cơ bản của đọc
hiểu VBNL, GV cần tạo ra các tình huống, gắn liền với thực tiễn để rèn luyện và PTNL
giải quyết vấn đề và khả năng năng sáng tạo của HS.
- Năng lực thẩm mỹ: Thông qua khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của VBNL, cần
PTNL cảm thụ vẻ đẹp về tư tưởng, nhân cách, trí tuệ cũng như nghệ thuật sử dụng ngôn
từ của tác giả.
- Năng lực ngôn ngữ: VBNL là một trong những phương tiện hữu hiệu để rèn luyện kỹ

năng: đọc, viết, nói và nghe cho HS.
2.1.2.. Đề xuất mô hình câu hỏi sử dụng trong dạy học đọc hiểu VBNL theo hướng
PTNL. (Phục lục 1)
2.2. Hệ thống câu hỏi trong dạy đọc hiểu VBNL theo hướng PTNL
2.2.1. Chiếu cầu hiền
Nội dung câu hỏi


Trước
đọc

khi (1) Bài chiếu ra đời trong bối cảnh xã hội như thế nào? Tại sao Quang
Trung phải viết chiếu cầu hiền và người chấp bút lại là Ngô Thì Nhậm?
(2) Nhan đề cung cấp cho chúng ta những thông tin gì? Giới thiệu rõ
hơn về những thông tin đó.
(3) Nếu được vua Quang Trung giao viết chiếu cầu hiền, em sẽ viết như
thế nào? Hãy vạch ra một số ý chính mà em sẽ viết?
(4) Đọc lướt VB, xác định bố cục của bài chiếu?
Trong
khi (1) Trong phần 1, tác giả đặt ra vấn đề gì cho người hiền và để làm rõ vấn
đọc
đề đó, người viết dùng hình ảnh nào?
(2) Việc mở đầu bài Chiếu cầu hiền bằng lời của Khổng Tử có tác dụng
gì đối với các nhỏ sĩ thuở đó?
(3) Đọc đoạn văn “Trước đây… phụng sự vương hầu chăng?” Tác giả
dùng những điển tích điển cố nào? Nội dung của các điển tích điển cố
đó là gì? Việc sử dụng chúng cùng với các câu hỏi tu từ đem lại hiệu
quả như thế nào?
(4) Hiền tài ở thời nào cũng cần có đóng góp cho đời, song lúc này
đang là khi nhà vua và triều chính thật sự cần có sự giúp đỡ của hiền

tài, điều đó đã được thể hiện như thế nào ở phần 2 của bài chiếu?
(5) Tìm những từ ngữ trong phần 2 để chứng minh rằng, Quang Trung
thành tâm, khiêm nhường nhưng rất kiên quyết trong việc cầu hiền?
(6) Con đường cầu hiền của Quang Trung hết sức rộng mở. Em có đồng
ý với kiến đó không? Vì sao?
(7) Theo em, những bậc hiền tài thời Quang Trung sẽ có thái độ như thế
nào sau khi đọc Chiếu cầu hiền?
(8) Theo em bài Chiếu cầu hiền có thành công không? Có thuyết phục
được bậc hiền tài không? Vì sao?
Sau khi đọc
(1) Dùng bản đồ tư duy khái quát lại nội dung bài học?
(2) Qua bài Chiếu cầu hiền này em có suy nghĩ gì về chính sách kêu
gọi nhân tài của Nhà nước ta và hiện tượng chảy máu chất xám hiện
nay?
(3) Ngô Thì Nhậm lập luận “người hiền” có sứ mệnh phục vụ đất nước.
Vậy trong xã hội hiện nay, sứ mệnh đó thuộc về ai?
(4) Từ tư tưởng của vua Quang Trung trong Chiếu cầu hiền và của
Thân Nhân Trung trong Hiền tài là nguyên khí quốc gia, anh (chị) suy
nghĩ gì về vai trò và trách nhiệm của hiền tài đối với đất nước?
2.2.2. Xin lập khoa luật
Trước khi đọc
Trong khi đọc

Nội dung câu hỏi
(1) Tại sao Nguyễn Trường Tộ lại viết điều trần Xin lập khoa luật?
(2) Thuật ngữ “khoa luật” trong dùng trong bối cảnh ra đời của văn
bản có lạc lỏng không? Vì sao?
(1) Nhận xét về vị thế của tác giả và đối tượng thuyết phục của 2 VB Xin
lập khoa luật và Chiếu cầu hiền. Từ đó chỉ ra khác biệt trong cách lập
luận của 2 tác giả?

(2) Tư tưởng canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ được thể hiện
như thế nào trong Xin lập khoa luật?
(3) Theo em bài điều trần của Nguyễn Trường Tộ có thuyết phục
không? Vì sao?


Sau khi đọc

(4) Văn bản “Xin lập khoa luật” có giá trị như thế nào trong xã hội ta
ngày nay?
(1) Qua sách báo và Internet, em hãy tìm hiểu những nội dung liên
quan đến cuộc đời của vua Quang Trung, tác giả Ngô Thì Nhậm và
Nguyễn Trường Tộ. Danh phận, vị thế của mỗi người và bối cảnh lịch
sử-xã hội có tác động như thế nào tới nội dung và cách thức lập luận
của các VB trên?
(2) Em hiểu như thế nào về tính chất “văn-sử-triết” bất phân trong văn
chương trung đại? Tính chất đó được biểu hiện như thế nào trong hai
VB Chiếu cầu hiền và Xin lập khoa luật?
(3) Tìm hiểu và nhận xét về tình hình thực hiện luật pháp ở nước ta hiện
nay, trên một số lĩnh vực mà em biết?

2.2.3.Về luân lí xã hội của nước ta
Trước khi đọc

Trong khi đọc

Sau khi đọc

Nội dung câu hỏi
(1) Những hiểu biết của em về Phan Châu Trinh?

(2) Hãy tìm hiểu về văn diễn thuyết?
(3) Vấn đề mà Phan Châu Trinh đề cấp đến trong bài diễn thuyết là gì?
(4) Đọc lướt và ghi lại dàn ý của của bài diễn thuyết
(1) Theo anh (chị), luân lí xã hội mà tác giả nêu trong đoạn trích này là gì?
(2) Đối tượng của bài diễn thuyết là ai? Đối tượng đó đã chi phối đến
bài cách đặt vấn đề của tác giả như thế nào?
(3) Theo anh (chị) vì sao tác giả khẳng định nước ta tuyệt nhiên không
có luân lí xã hội? Thái độ của tác giả như thế nào về vấn đề này?
(4) “Một dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc
chúng ta làm sao được?” Phải chăng đó là thái độ bi quan của Phan
Châu Trinh khi nhận thức rõ tình trạng đen tối của đất nước?
(5) Theo tác giả muốn có luân lí xã hội thì cần phải làm gì? Anh (chị)
nhìn nhận như thế nào về những đề nghị đó?
(6) Tìm những câu cảm thán trong đoạn trích. Qua đó cho ta thấy được
cảm xúc của tác giả như thế nào? Từ đó nhận xét về nghệ thuật nghị
luận của bài diễn thuyết?
(1) Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh được thể hiện trong đoạn
trích như thế nào?
(2) Chủ trương xây dựng luân lí xã hội mà Phan Châu Trinh đưa ra,
hiện nay có còn ý nghĩa thời sự ở Việt Nam không? Vì sao?
(3) Từ lập luận của bài diễn thuyết, hãy tự rút ra cấu trúc của bài văn
nghị luận xã hội?
(4) Tìm đọc một số bài diễn thuyết nổi tiếng trên thế giới.

2.2.4. Một thời đại trong thi ca
Trước khi đọc

Nội dung câu hỏi
(1) Trong những bài thơ đã học như: Nhàn, Câu cá mùa thu, Tự tình và Vội
vàng, Tràng giang, Đây thôn Vỹ Dạ anh (chị) thích bài thơ nào? Vì sao?

(2) Hoài Thanh – Hoài Chân là ai?
(3) Vấn đề mà tác giả bàn luận trong đoạn trích là gì? Vấn đề này có
ảnh hưởng gì đối với thời điểm ra đời của nó?


Trong khi đọc

Sau khi đọc

(4) Giải thích nhan đề “Một thời đại trong thi ca”? Nêu hiểu biết của
em về phong trào thơ mới?
(1) Tác giả đã vạch ra con đường và cách thức để đi tìm “tinh thần thơ
mới” Bước đi này có cần thiết không? Vì sao?
(2) Theo Hoài Thanh quan niệm thế nào là “tinh thần thơ mới”?
(3) Nội dung của chữ tôi và chữ ta được hiểu như thế nào?
(4) Anh (chị) có nhận xét gì về cách dẫn dắt, diễn đạt của tác giả?
(5) Từ cách hiểu về bi kịch thời đại chữ tôi của Hoài Thanh, giúp cho
chúng ta có cái nhìn như thế nào về các nhà thơ mới?
(6) Cái tôi rơi vào bi kịch gì? Vì sao? Lối thoát của cái tôi có ý nghĩa
như thế nào đối với nền văn chương nước nhà?
(7) Anh (chị) thấy đoạn văn sau có hay không? Vì sao?: “Đời chúng ta
… Huy Cận”
(8) Từ các tác giả đã học, anh (chị) thấy đánh giá của Hoài Thanh có
chính xác và dễ hiểu không?
(9) Là VBNL nhưng đoạn trích Một thời đại trong thi ca có đem lại
cho chúng ta những cảm xúc khác biệt. Sự khác biệt đó đến từ đâu?
(1) Đoạn trích có giúp ích gì cho em trong việc cảm nhận các bài thơ
mới không? Vì sao?
(2) Qua đoạn trích em rút được kinh nghiệm gì khi làm bài văn nghị
luận văn học?

(3) Qua bài tiểu luận em hiểu gì thêm về tâm hồn các nhà thơ lãng mạn
và thế hệ thanh niên đương thời? Cách thể hiện lòng yêu nước của họ
như thế nào?
(4) Đọc bài thơ Tràng giang, em thử lí giải nhận định của Hoài Thanh:
Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.
(5) Trong bài tiểu luận, Hoài Thanh dùng hai chữ đắm say để nói về
Xuân Diệu. Qua một số bài thơ đã học, đã đọc của Xuân Diệu, em có
đồng tình với ý kiến của Hoài Thanh không? Vì sao?.

2.2.5. Tiếng mẹ đẻ nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức
Trước khi đọc
Trong khi đọc

Sau khi đọc

Nội dung câu hỏi
(1) Bối cảnh ra đời của VB? Bối cảnh đó giúp chúng ta hiểu gì về VB?
(2) Xác định thể loại của VB? Kể tên một số tác phẩm VCL đã học?
Dựa vào cách tiếp cận VBCL hay nêu định hướng để tiếp cận VB?
(1) Dựa vào đâu mà tác giả cho rằng tiếng mẹ đẻ là “nguồn giải phóng
dân tộc bị áp bức”?
(2) Nguyễn An Ninh đã nêu những hành vi nào của thói học đòi Tây
hóa? Thái độ của ông khi nêu ra hành vi đó? Suy nghĩ gì về nhưng biểu
hiện của thói học đòi ngôn ngữ nước ngoài của HS hiện nay?
(3) Tác giả quan niệm như thế nào về mối quan hệ giữa ngôn ngữ
nước ngoài với ngôn ngữ nước mình? Quan niệm khi sử dụng ngôn
ngữ nước ngoài trong bối cảnh hiện nay?
(4) Nhận xét nghệ thuật lập luận của tác giả trong VB? Vấn đề đặt ra
trong VB đến nay có còn ý nghĩa hay không?
(1) Bài viết ra đời từ đầu thế kỷ XX, liệu đến này nó có còn giá trị thời sự?

(2) Suy nghĩ của em về thái độ cần có khi sử dụng Tiếng Việt trong bối
cảnh hiện nay?


2.2.6. Ba cống hiến vĩ đại của Các – mác
Trước khi đọc
Trong khi đọc

Sau khi đọc

Nội dung câu hỏi
(1) Bằng vốn hiểu biết của bản thân, hãy cho biết Mác và Ăng – ghen là ai?
(2) Hoàn cảnh ra đời của VB? Với hoàn cảnh đó, hãy hình dung VB sẽ
bàn về điều gì?
(1) Ăng – ghen thông báo về sự ra đi của Các – Mác như thế nào? Qua
đó ta thấy được tình cảm của Ăng – ghen với Mác như thế nào?
2) Nhan đề nêu lên “Ba cống hiến vĩ đại…” Vậy đó là những cống
hiến nào? Tác giả đã dùng những biện pháp lập luận nào để nêu bật các
lập luận đó?
(3) Sau khi nêu và chứng minh thuyết phục nhận định về Mác “Nhà tư
tưởng vĩ đại nhất trong số các nhà tư tưởng hiện đại”, Ăng – ghen đã kết
luận bằng câu văn nào? Hãy trình bày suy nghĩ của em về câu văn đó?
(4) Qua VB, em cảm nhận được điều gì về thái độ và tình cảm của
Ăng-ghen với Mác?
(1) Đây là một bài văn điếu, nhưng cách viết của Ăng – ghen lại
nghiêng về cảm hứng nào?
(2) Đọc VB, em học được kinh nghiệm gì, khi viết VNL?

2.3. Sử dụng hệ thống câu hỏi trong tiến trình dạy học chùm bài VBNL
Để sử dụng được hệ thống câu hỏi theo hướng PTNL HS, thì GV cần phải xây

dựng, thiết kế tổ chức bài học theo PPDH mới, trong đó cần nhấn mạnh vai trò và con
đường tiếp cận kiến thức của HS. Thiết kế tiến trình của bài học là kịch bản hóa những
nội dung dạy học đã được lựa chọn sắp xếp. Đối với dạy học đọc hiểu VB thì bài học
được thiết kế thành 6 bước:
- Bước 1: Xác định vấn đề HS cần phải giải quyết
- Bước 2: Tạo tình huống xuất phát
- Bước 3: Hình thành, kiến tạo kiến thức mới
- Bước 4: Luyện tập, củng cố kiến thức, kỹ năng
- Bước 5: Vận dụng kiến thức đã học vào tình huống cụ thể
- Bước 6: Phát triển ý tưởng sáng tạo
. Trong giới hạn của đề tài này, tôi xin thiết kế 2 VB: Chiếu cầu hiền và Một thời đại
trong thi ca như là đại diện cho 2 kiểu VBNL trung đại và hiện đại. Trên cơ sở đó, chúng
ta có thể vận dụng cho các VBNL khác trong CT.
2.3.1. Chiếu cầu hiền – Ngô Thì Nhậm
Bước 1: Xác định vấn đề HS cần phải giải quyết
Ở bước này GV nên sử dụng câu hỏi ở phần “Trước khi đọc”, giao vấn đề để HS tự
nghiên cứu, đọc tài liệu ở nhà.


- Nếu được vua Quang Trung giao viết chiếu cầu hiền, em sẽ viết như thế nào? Hãy vạch
ra một số ý chính mà em sẽ viết?
- Đọc lướt văn bản, xác định bố cục của bài chiếu?
Bước 2: Tạo tình huống xuất phát
GV có thể đưa các tình huống gắn liền với thực tế rồi dần chuyển tâm thể để HS
tiếp nhận bài mới. Cụ thể như sau: Có một lớp X, vì mâu thuẫn nên lớp mất đoàn kết,
GVCN cắt cử một BCS mới, tuy nhiên tình hình vẫn chưa được tốt. Nhà trường có cuộc
thi văn nghệ, một số bạn có tài năng như không muốn hợp tác. Nếu em là một trong
những thành viên của BCS em sẽ làm gì để các bạn đồng tâm cùng hợp tác?
Từ quan điểm HS đưa ra, GV dần dẫn dắt vào nội dung bài học
Bước 3: Hình thành, kiến tạo kiến thức mới

1. Tìm hiểu về vài nét về tác giả - tác phẩm:
- Bài chiếu ra đời trong bối cảnh xã hội như thế nào? Tại sao Quang Trung phải viết
Chiếu cầu hiền và người chấp bút lại là Ngô Thì Nhậm?
- Nhan đề cung cấp cho chúng ta những thông tin gì? Giới thiệu rõ hơn về những thông
tin đó.
2. Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật
GV có thể tổ chức thảo luận nhóm để tìm hiểu về nội dung này. Chia thành 4
nhóm với 4 vấn đề sau:
Nhóm 1: Trong phần 1, tác giả đặt ra vấn đề gì cho người hiền và để làm rõ vấn đề đó,
người viết dùng hình ảnh nào? Việc mở đầu bài Chiếu cầu hiền bằng lời của Khổng Tử
có tác dụng gì đối với các nhỏ sĩ thuở đó?
Nhóm 2: Trước việc Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt Trịnh, nho sỹ Bắc Hà có thái độ
như thế nào? Nhận xét cách sử dụng hình ảnh và hiệu quả đạt được ?
Nhóm 3: Triều đình buổi đầu đang gặp phải những khó khăn nào? Trước tình hình khó
khăn ấy, vua Quang Trung đã làm gì ? Thái độ và tâm trạng của vua Quang Trung như
thế nào?
Nhóm 4: Con đường cầu hiền của Quang Trung hết sức rộng mở. Em có đồng ý với kiến
đó không? Vì sao?
Bước 4: Luyện tập, củng cố kiến thức, kỹ năng
- Dùng bản đồ tư duy khái quát lại nội dung bài học?
- Theo em, những bậc hiền tài thời Quang Trung sẽ có thái độ như thế nào sau khi đọc
Chiếu cầu hiền?
- Theo em bài Chiếu cầu hiền có thành công không? Có thuyết phục được bậc hiền tài
không? Vì sao?
Bước 5: Vận dụng kiến thức đã học vào tình huống cụ thể
- Theo em, những bậc hiền tài thời Quang Trung sẽ có thái độ như thế nào sau khi đọc
Chiếu cầu hiền?


- Qua bài Chiếu cầu hiền cùng với tư tưởng của Thân Nhân Trung trong Hiền tài là

nguyên khí quốc gia em có suy nghĩ gì về chính sách kêu gọi nhân tài của Nhà nước ta và
hiện tượng chảy máu chất xám hiện nay?
Bước 6: Phát triển ý tưởng sáng tạo
- Ngô Thì Nhậm lập luận “người hiền” có sứ mệnh phục vụ đất nước. Vậy trong xã hội
hiện nay, sứ mệnh đó thuộc về ai?
2.3.2. Một thời đại trong thi ca
Bước 1: Xác định vấn đề HS cần phải giải quyết
GV giao nhiệm vụ cho HS về tìm hiểu các tài liệu liên quan đến các vấn đề sau:
- Hoài Thanh – Hoài Chân là ai?
- Vấn đề mà tác giả bàn luận trong đoạn trích là gì? Vấn đề này có ảnh hưởng gì đối với
thời điểm ra đời của nó?
Bước 2: Tạo tình huống xuất phát
- Trong những bài thơ đã học như: Nhàn, Câu cá mùa thu, Tự tình và Vội vàng, Tràng
giang, Đây thôn Vỹ Dạ anh (chị) thích bài thơ nào? Vì sao?
Với câu hỏi trên, GV có thể cho HS trình bày quan điểm chủ quan của mình, từ đó
dẫn dắt vào nội dung bài mới.
Bước 3: Hình thành, kiến tạo kiến thức mới
1. Tìm hiểu về vài nét về tác giả - tác phẩm:
- Trình bày những nét cơ bản về Hoài Thanh?
- Giải thích nhan đề “Một thời đại trong thi ca”? Nêu hiểu biết của em về phong trào thơ
mới?
- Đọc lướt và ghi lại dàn ý của đoạn trích?
2. Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật
GV có thể tổ chức thảo luận nhóm để tìm hiểu về nội dung này. Chia thành 4
nhóm với 4 vấn đề sau:
Nhóm 1: Theo Hoài Thanh quan niệm thế nào là “tinh thần thơ mới”? Tác giả đã vạch ra
con đường và cách thức để đi tìm “tinh thần thơ mới” Bước đi này có cần thiết không? Vì
sao?
Nhóm 2: Nội dung của chữ tôi và chữ ta được hiểu như thế nào? Anh (chị) có nhận xét
gì về cách dẫn dắt, diễn đạt của tác giả?

Nhóm 3: Cái tôi rơi vào bi kịch gì? Vì sao? Lối thoát của cái tôi có ý nghĩa như thế nào
đối với nền văn chương nước nhà? Từ cách hiểu về bi kịch thời đại chữ tôi của Hoài
Thanh, giúp cho chúng ta có cái nhìn như thế nào về các nhà thơ mới?
Nhóm 4: Là VBNL nhưng đoạn trích Một thời đại trong thi ca có đem lại cho chúng ta
những cảm xúc khác biệt. Sự khác biệt đó đến từ đâu?
Bước 4: Luyện tập, củng cố kiến thức, kỹ năng


- Từ các tác giả đã học, anh (chị) thấy đánh giá của Hoài Thanh có chính xác và dễ
hiểu không? Vì sao?
Bước 5: Vận dụng kiến thức đã học vào tình huống cụ thể
- Qua đoạn trích em rút được kinh nghiệm gì khi làm bài văn NLVH?
- Qua bài tiểu luận anh (chị) hiểu gì thêm về tâm hồn các nhà thơ lãng mạn và thế hệ
thanh niên đương thời? Cách thể hiện lòng yêu nước của họ như thế nào?
Bước 6: Phát triển ý tưởng sáng tạo
- Đọc bài thơ Tràng giang, em thử lí giải nhận định của Hoài Thanh: Ta ngơ ngẩn buồn
trở về hồn ta cùng Huy Cận.
- Trong bài tiểu luận, Hoài Thanh dùng hai chữ đắm say để nói về Xuân Diệu. Qua một
số bài thơ đã học, đã đọc của Xuân Diệu, em có đồng tình với ý kiến của Hoài Thanh
không? Vì sao?.
CHƯƠNG III – THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1.Thực nghiệm sư phạm
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
Mục đích thực nghiệm là tôi muốn kiểm tra tính khả thi của hệ thống câu hỏi được xây
dựng trong đề tài, từ đó đánh giá khả năng ứng dụng của hệ thống câu hỏi này trong việc
PTNL HS. Thông qua thực nghiệm để xác định tính đúng đắn và mức độ thành công của
đề tài.
3.1.2. Đối tượng thực nghiệm
Tôi chọn 4 lớp 11 ở hai nhóm đối tượng:
+ Nhóm học sinh khá giỏi: 11C thực nghiệm và 11D đối chứng

+ Nhóm học sinh trung bình và yếu: 11H thực nghiệm và 11M đối chứng
Tùy vào nhóm đối tượng HS tôi lựa chọn PPDH phù hợp để thực nghiệm, kiểm chứng
tính hiệu quả của hệ thống câu hỏi.
3.1.3. Kế hoạch và nội dung thực nghiệm
- Thời gian thực nghiệm: năm học 2017 – 2018
- Bài thực nghiệm: Chiếu cầu hiền và Một thời đại trong thi ca
- Nội dung thực nghiệm: Đề kiểm tra (Phụ lục 2)
3.2. Kết quả thực nghiệm ( Xem phụ lục 3 và 4)
3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm
3.3.1. Đánh giá việc tổ chức dạy học thực nghiệm
* Ưu điểm:
- GV làm việc nhẹ nhàng hơn, chủ yếu là nêu nhiệm vụ và chốt kiến thức


- GV tổ chức các hoạt động cho HS khá linh hoạt và phù hợp với đối tượng
- HS hứng thú trình bày, bộc lộ quan điểm của cá nhân
* Nhược điểm:
- Ở phần thảo luận nhóm nề nếp lớp có đôi lúc còn lộn xộn.
- Thời gian phân bố giữa các phần kiến thức chưa phù hợp
3.3.2. Đánh giá qua kết quả học tập của học sinh
- Đánh giá định tính qua thái độ học tập của HS:
+ Chuẩn bị bài đầy đủ theo hướng dẫn của GV
+ Thảo luận nhóm sôi nổi, có hiệu quả
+ Tập trung vào bài học, tích cực tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài học. Nhìn
chung, HS thực sự làm chủ giờ học của mình.
+ HS rất hứng thú khi tiếp nhận các vấn đề tình huống gắn với thực tế.
- Đánh giá định lượng qua bài kiểm tra: Bảng điểm cho thấy:
+ Ở nhóm đối tượng HS khá giỏi lớp TN tỉ lệ bài đạt khá, giỏi cao hơn so với lớp ĐC
(TN: 62% > ĐC 37,5%). Số HS dưới điểm 5 là hầu như không có.
+ Ở nhóm đối tượng HS trung bình và yếu lớp TN tỉ lệ học sinh có điểm từ 0 – 2 là chấm

dứt hẳn, tỷ lệ trung bình và yếu giảm xuống, đặc biệt là tỉ lệ HS yếu giảm đáng kể (TN
13% < ĐC 55%).
Câu hỏi theo định hướng PTNL trong dạy học được tôi sử dụng khá thường xuyên trong
tiến trình dạy học của mình. Thực tế giảng dạy không phải lúc nào cũng dùng các PPDH
mới được, vì vậy việc linh hoạt và sáng tạo trong sử dụng câu hỏi để dẫn dắt HS khá
phám nội dung bài học sẽ đem lại những hiệu quả rất tốt. Trong kỳ thi THPT Quốc gia
2018, mặc dù trường ở vùng khó khăn, điểm đầu vào của HS khá thấp, tuy điểm trung
bình môn Ngữ văn của trường tôi vẫn xếp trong tốp 10 của tỉnh. Có được thành công đó,
một phần GV đã có ý thức sử dụng câu hỏi theo hướng mở, hình thành kỹ năng làm bài
cho HS.

C – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận

Thứ nhất, dạy học theo định hướng PTNHS là mục tiêu trọng tâm, cơ bản của giáo dục
hiện nay. Nó thể hiện CT giáo dục hiện đại, phù hợp với nhu cầu người học và xu thế phát
triển của giáo dục thế giới. Do đó GV cần tìm hiểu và thực sự đổi mới về tư duy, nhận thức
để công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện của giáo dục được thành công.


Thứ hai, xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí, phù hợp với mục tiêu dạy học là một trong
những khâu then chốt để đổi mới PPDH theo định hướng năng lực. Bởi câu hỏi trong dạy
học là con đường mà GV định hướng cho HS tiếp cận tri thức, qua đó giúp cho HS phát
huy được các năng lực của bản thân qua các bài học. Sử dụng thiết kế, xây dựng và tổ
chức bài học theo định hướng PTNL là một hướng đi đúng đắn, khoa học, làm tăng chủ
động của người học. Tuy nhiên, khi sử dụng hệ thống câu hỏi theo hướng PTNL, GV cần
linh hoạt, sáng tạo tùy vào từng đối tượng HS và bài học cụ thể để đạt hiệu quả tốt.
Thứ ba, chùm VBNL thuộc CT Ngữ văn 11 có kết cấu rất đặc biệt. Nó vừa có đầy đủ các
kiểu loại VBNL, từ NL trung đại đến NL hiện đại, NL về chính trị xã hội, NL về văn
học… Bởi vậy, khi dạy học phần này, GV cần phải có sự kết nối, tích hợp để HS nắm

được toàn bộ đặc trưng của VBNL và bồi dưỡng, phát huy được các năng lực cần thiết
của HS.
Như vậy với việc xây dựng hệ thống câu hỏi để dạy học chùm VBNL thuộc CT Ngữ văn
11 theo hướng PTNL HS, tôi đã nhận thức được phần nào về dạy học theo định hướng
năng lực. Đây cũng là những kinh nghiệm dạy học của bản thân tôi trong tiến trình đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà hiện nay.
2. Kiến nghị
Đối với Sở giáo dục đào tạo: Cần tổ chức tập huấn sâu rộng và có tài liệu hướng dẫn cụ
thể về đổi mới dạy học theo hướng PTNLHS
Đối với nhà trường THPT: Cần tạo điều kiện cho tổ chuyên môn tổ chức những Hội thảo
về việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng PTNLHS. Triển khai những
chuyên đề, sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng vào giảng dạy thực tế.
Đối với tổ chuyên môn:
Thứ nhất trong việc chủ động xây dựng PPCT như hiện nay, cần sắp xếp các VBNL trong
CT thành chủ đề để giảng dạy được hợp lý và hiệu quả hơn.
Thứ hai, tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo phong phú đa dạng, để HS có thể
phát huy tốt năng lực của bản thân thông qua học tập kiến thức bộ môn Ngữ văn.
Đối với GV: Dạy học theo định hướng PTNL là một xu hướng dạy học mới, tiến bộ, để
đạt được hiệu quả tốt, GV cần phải tích cực tự học hỏi, tràu dồi kiến thức chuyên môn và
liên môn; rèn luyện kỹ năng ICT, khả năng tìm kiếm thông tin mở. Bồi dưỡng PTNLHS,
là GV cũng đã tự bồi dưỡng chính năng lực nghiệp vụ cho bản thân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2018), Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông
môn Ngữ văn, NXB Giáo dục.
[2]. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2008), Ngữ văn 11 tập 1, NXB Giáo dục.
[3]. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2008), Ngữ văn 11 tập 2, NXB Giáo dục.


[4]. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra đánh
giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh, môn Ngữ văn, (Lưu

hành nội bộ)
[5]. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2017), Tập huấn cán bộ quản lí và giáo viên THPT về đổi
mới PPDH, kĩ thuật xây dựng ma trận đề và biên soạn câu hỏi kiểm tra đánh giá môn
Ngữ văn, (Lưu hành nội bộ)
[6]. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2015), Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông
tổng thể
[7]. Phan Huy Dũng (chủ biên), (2016), Để làm tốt bài thi môn Ngữ văn kỳ thi
THPT Quốc gia, NXB Giáo dục
[8]. PGS. TS. Bùi Mạnh Hùng (2013), Chuẩn CT cốt lõi của Mĩ và một số liên hệ với
việc đổi mới CT Ngữ văn ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm
TPHCM
[9]. Phan Trọng Luận và nhóm tác giả (2012), Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng ,
NXB Đại học sư phạm
[10]. ThS. Nguyễn Thị Ngọc Thúy (2014), Về hệ thống câu hỏi đọc hiểu văn bản trong
SGK Ngữ văn của Mỹ, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TPHCM


PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Mô hình câu hỏi dạy học đọc hiểu VBNL
MÔ HÌNH CÂU HỎI DẠY HỌC VBNL THEO HƯỚNG PTNL

Trước khi đọc

Trong khi đọc

Sau khi đọc

Xác
định
luận

điểm
luận
Đánh
của
cứ VB
của
giá nghệ
Nhận
VB thuật
xét vềlập
hình
luận
thức
luận
Bối
cảnhTừ
xãbối
hộicảnh
của VB

tiêunội
đề dung
dự Xác
đoán
định
về
các
luận
luận
đềcác

của
điểm
VBTìm
Đánh
giá vềnghị
tính
Rúttư
ratưởng
nhữngcủa
đặcVB
trưng
Đọcmột
thể
cácloại
VB
của
NL
VBkhác
Từ tiêu
đề
hãy
phán
đoán
của
VB
Viết
đoạn
VNL
về một đề trong cuộ


Phụ lục 2: Đề kiểm tra theo hướng PTNLHS


XÂY DỰNG MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA
Mức độ cần đạt
Tổng
số

Nội dung
Kiểm tra đánh giá
Nhận biết
I. Đọc
hiểu

Tổng

II.
Làm
văn

Tổng
Tổng
toàn
bài

Vận dụng
cao

Thông hiểu


Vận dụng

Hiểu được quan
điểm, tư tưởng
của tác giả qua
đoạn trích

Rút ra bài học
quan trọng nhất
với bản thân

Số câu

- Nhận diện phương
thức biểu đạt
- Xác định các thao
tác lập luận
- Chủ đê của VB
2

1

1

4

Số điểm

1,0


1,0

1,0

3,0

Tỉ lệ

10%

10%

10%

30%

Ngữ liệu:
01 đoạn văn
nghị luận

Câu 2:
Nghị luận
văn học

Viết bài văn nghị
luận văn học
hoàn chỉnh

Số câu
Số điểm


1
7,0

1
7,0

Tỉ lệ

70%

70%

1
7,0
70%

5
10,0
100%

Số câu
Số điểm
Tỉ lệ

2
1,0
10%

1

1,0
10%

1
1,0
10%

Đề 1: (Bài viết số 2)
Phần I: Đọc hiểu
Đọc đoạn trích và trả lời các câu hỏi:
Những ngày qua, thông tin về những du học sinh Việt Nam ra đi không trở về đã khiến
nhiều người đặt ra câu hỏi: Tại sao đất nước không giữ chân được người tài? Thật khó để
đưa ra câu trả lời duy nhất đúng.
Tôi thấy nên nhìn đơn giản lại. Ai trong chúng ta cũng đi khỏi tổ ấm của mình, có khác là
chúng ta đi bao xa. Du học tới một đất nước khác về mặt nào đó cũng giống như hàng
trăm nghìn sinh viên tỉnh lẻ đổ về thành phố học mỗi năm. Dường như ai ra đi cũng
mang theo một khát vọng gì đó bên mình. Và đó là lý do họ đập cánh, họ không ngừng
hướng về phía trước, họ bơi ra biển lớn, ra bầu trời rộng.
Những người tới thủ đô, tới thành phố, họ cũng thường không quay trở về sống ở mái
nhà cũ họ từng lớn lên. Đất chật, người đông, bầu trời hẹp, không khí bụi bặm, thực


phẩm không an toàn, lòng người lạnh nhạt… đủ lý do để phản bác cho việc ở lại thành
phố làm việc nhưng họ gạt đi tất cả, bởi hai chữ cơ hội.
Có những môi trường, họ có cơ hội việc làm tốt hơn, cơ hội giáo dục cho con cái tốt hơn,
cơ hội quen những người bạn lớn, và trao đổi những điều lớn lao hơn, cuộc sống sẽ có ý
nghĩa hơn. Tôi cũng sẽ định cư tại Hà Nội chứ chưa hề có ý nghĩ sẽ trở về quê hương.
Bởi tôi tin rằng, một nơi không có nhiều cơ hội sẽ làm cuộc sống của tôi trở nên mất đi
nhiều ý nghĩa khi không được cống hiến.
Thay vì đi vào bế tắc bởi những thứ quá lớn lao như chính sách trọng dụng nhân tài, chảy

máu chất xám, đề xuất điều chỉnh bộ máy hành chính để người tài thực sự muốn về đóng
góp… sao không nghĩ đơn giản hơn, rằng cũng đã có bao nhiêu người trẻ xuất chúng đi
học ở thành phố trở về quê hương lập nghiệp? Và hãy rộng lượng hơn kể cả với những
người muốn về hay ở. Thế giới đã bước vào thời đại của công dân toàn cầu. Những người
trẻ năng động, sống để cống hiến luôn muốn xê dịch và chuyển động. Họ muốn đến
những vùng đất mới, muốn đến những chân trời mới, làm những điều mới, sống cuộc
sống tự do. Du học sinh trở về sẽ cống hiến cho đất nước, du học sinh không về sẽ cống
hiến cho nhân loại. Chỉ cần mỗi người đều tiến về phía trước, về hay ở đâu còn là chuyện
quá quan trọng để hoang mang.
Đã mấy tháng trôi qua, tôi vẫn bị câu nói của chị bán trứng nướng ám ảnh. Những nơi vốn
từng là nhà, và sau này chúng ta gọi nó là quê, đó là một khoảng lặng nấc lên không nhiều
người để ý. Một khoảng lặng trống vắng, là cảm giác của tôi đôi khi thấy nao lòng khi trở về
nhà, hay là quê, rồi sau đó lên phòng, mẹ vẫn dọn phòng tôi sạch sẽ…
Mẹ chờ tôi về. Những người mẹ chờ những đứa con trở về, để rồi nhìn chúng ra đi.
(Dẫn theo Hạ Hồng Việt, Du học sinh – về hay ở?, />Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
Câu 2: Xác định các thao tác lập luận chính của đoạn trích?
Câu 3: Tác giả đã sử dụng những lí lẽ gì để giải thích và chứng minh cho ý tưởng: nên
nhìn “đơn giản” hơn về câu chuyện du học sinh Việt Nam ra đi và không quay về Tổ
quốc?
Câu 4: Ý kiến của anh (chị) về quan điểm của tác giả nêu lên trong đoạn trích?
Phần II:Làm văn
Từ tư tưởng của Ngô Thì Nhậm trong Chiếu cầu hiền và của Thân Nhân Trung trong
Hiền tài là nguyên khí quốc gia, anh (chị) suy nghĩ gì về vai trò và trách nhiệm của hiền
tài đối với đất nước?


Đáp án và thang điểm
Đọc
hiểu


Câu
Nội dung cần đạt
1
Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: Nghị luận kết
hợp với thuyết minh
2

Xác định thao tác lập luận: bình luận, phân tích, bác bỏ

3

Hệ thống luận điểm, lí lẽ tác giả dùng để chứng minh cho lí
tưởng : nên nhìn “đơn giản” hơn về câu chuyện du học sinh
Việt Nam ra đi và không quay về Tổ quốc
+ Du học: đi đến một chân trời mới nơi có nhiều cơ hội cho việc
phát triển sự nghiệp, để cuộc sống ý nghĩa hơn

1,0

+ Du học sinh không trở về nhưng vẫn cống hiến cho nhân loại

0,5

Ý kiến về quan điểm của tác giả nêu lên trong đoạn trích

1,0

+ Thí sinh có thể bày quan điểm đồng ý hoặc không đồng ý

0,25


+ Đưa là các lí lẽ, luận cứ để bảo vệ quan điểm của mình

0,75

Từ tư tưởng của vua Quang Trung trong Chiếu cầu hiền và
của Thân Nhân Trung trong Hiền tài là nguyên khí quốc gia,
anh (chị) suy nghĩ gì về vai trò và trách nhiệm của hiền tài
đối với đất nước?
- Giới thiệu vài nét về tác giả Ngô Thì Nhậm và Thân Nhân
Trung
- Giới thiệu vài nét về bài viết Chiếu cầu hiền và Hiền tài là
nguyên khí quốc gia
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: vai trò và trách nhiệm của
hiền tài đối với đất nước
Quan niệm về người hiền tài trong Chiếu cầu hiền
- Người hiền là người có tài có đức để giúp dân giúp đời.
Theo quan niệm xưa, vua là người được sự uỷ thác của trời
(thiên mệnh) để cai quản thiên hạ. Thiên tử muốn cai trị
được thiên hạ phải có sự trợ giúp của người hiền.
- Người hiền rất quan trọng với dân với nước. Và lẽ đương
nhiên, người hiền sinh ra là để cho thiên tử sử dụng.
Quan niệm về người hiền tài trong Hiền tài là nguyên khí
quốc gia
- Hiền tài là những người tài cao, học rộng lại đức độ, đó là những
người vừa có trí tuệ lại vừa có nhân cách đáng trọng.
- Hiền tài có vai trò quyết định" đến sự thịnh - suy của đất
nước, hiền tài chính là khí chất làm nên sự sống còn sự phát
triển của xã hội, của quốc gia; một nước muốn mạnh thì điều


7,0

4

Làm
văn

Điểm
0,5 điểm

Ý

1

2

3

0,5 điểm

0,5

1,0

1,0

1,0


4


trước tiên cần quan tâm chú trọng là bổi dượng, chăm chú,
đãi ngộ hiền tài
Vai trò và trách nhiệm người hiền tài trong xã hội xưa và
nay
- Hiền tài là người có định hướng chính trị: vạch ra đường
lối phát triển đất nước
- Hiền tài là tinh hoa văn hóa xã hội: xây dựng nên một xã
hội văn hóa văn minh
- Hiền tài là nền tảng tiến bộ xã hội: phát minh khoa học,
thúc đẩy phát triển kinh tế
- Hiền tài là động lực tăng trưởng kinh tế: là tạo ra của cải
vật chất, công ăn việc làm, ổn định và phát triển kinh tế
 dù ở thời đại vào hiền tại cũng quyết định đến sự thịnh suy

3,0

của đất nước và nhân loại.
- Hiền tài chỉ thực sự có ý nghĩa khi ra sức giúp xây dựng và
phát triển cũng như sự tiến bộ của xã hội.
5
Đánh giá
1,0
- Cả Thân Nhân Trung và Ngô Thì Nhậm đều có tư tưởng
tiến bộ về quan niệm người hiền tài
- Cả hai văn bản bổ trợ cho nhau về khẳng định vai trò cũng
như trách nhiệm của người hiền tài
Đề 2: (Bài viết số 6)
Phần I: Đọc hiểu
Đọc đoạn trích và trả lời các câu hỏi:

Trịnh Công Sơn không chỉ thấy cái “vô cùng” mà còn thấy cả cái “giới hạn” của biển.
Trong ca khúc “Lặng lẽ nơi này”, một ca khúc mà tiết tấu thể hiện nhịp vỗ dập dồn, đưa
đẩy của biển, sau khi hát về “Tình yêu như biển, biển rộng hai vai”, Trịnh Công Sơn đã
hạ một câu nghe sửng sốt, bàng hoàng: “Tình yêu như biển, biển hẹp tay người, biển hẹp
tay người lạc lối”. Ít ai viết “biển hẹp”. Vì âu lo biển hẹp nên nhạc Trịnh có nhiều ca
khúc nhắn nhủ biển như “Biển nghìn thu ở lại”: “Biển đánh bờ, xôn xao bờ đánh biển.
Đừng đánh nhau…Ơi biển sẽ tàn phai. Đừng gạch tên vì yêu đừng xé nát. Biển là em
ngọt đắng trùng khơi”, đặc biệt là ca khúc “Sóng về đâu”: “Biển sóng biển sóng đừng xô
tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người. Biển sóng biển sóng đừng xô nhau. Ta xô biển lại
sóng về đâu”, “Biển sóng biển sóng đừng xô nhau. Ta xô biển lại sóng nằm đau. Biển
sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã giữa tim người”, “Biển sóng biển sóng đừng
xô tôi, đừng cho tôi thấy hết tim người”, “Biển sóng biển sóng đừng âm u, đừng nuôi
trong ấy trái tim thù”. Cả giai điệu và ca từ ca khúc “Sóng về đâu” đều nhấn mạnh nhiều
lần và đẩy lên cao trào lời nhắn nhủ: “Đừng xô nhau”. Cấp độ của lời nhắn mỗi lúc một


gia tăng, riết róng và giá trị cảnh báo, lay động, thức tỉnh nhân tâm của lời nhắn sau vì
thế càng cao hơn, mạnh hơn lời nhắn trước. Từ câu đầu: “Đừng xô tôi ngã dưới chân
người” chuyển sang câu sau đã là: “Đừng xô tôi ngã giữa tim người”, ngã dưới chân
người chắc chắn là không đau đớn, xót xa, tê tái bằng ngã giữa tim người. Từ câu đầu lời
nhắn còn e ấp, tế nhị: “Đừng cho tôi thấy hết tim người” đến câu sau đã là lời cảnh tỉnh
thẳng thắn và mạnh mẽ: “Đừng nuôi trong ấy trái tim thù”. Từ câu đầu chỉ mới là câu
hỏi: “Ta xô biển lại sóng về đâu” đến câu sau đã là câu trả lời khẳng định: “Ta xô biển lại
sóng nằm đau”. Ca khúc “Sóng về đâu” mang đậm tính minh triết, đó là minh triết của
trái tim, của trí tuệ cảm xúc (EQ). Trí tuệ cảm xúc thể hiện ở năng lực làm chủ cảm xúc
và năng lực thông cảm với người khác. Năng lực làm chủ cảm xúc (phân tích cảm xúc,
kìm chế những dục vọng xung động…) thể hiện tập trung qua hàng loạt từ “đừng” trong
các ca khúc “Biển nghìn thu ở lại”, “Sóng về đâu”…Biển đừng đánh bờ, sóng “đừng xô
tôi”, sóng đừng xô nhau, đó là lời kêu gọi đánh thức năng lực thông cảm, thấu cảm với
người khác, để cho biển và bờ giao cảm, để cho lớp lớp sóng biển giao hoà, để cho giữa

người với người không còn hơn, thua, được, mất, nói theo ngôn ngữ hiện đại là để cho
các bên cùng được, cùng thắng - thắng.
(Dẫn theo Nguyễn Hoàn, Con người minh triết trong nhạc Trịnh Công Sơn,
)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt và các thao tác lập luận chính của đoạn trích?
Câu 2: Nêu chủ đề chính của đoạn trích?
Câu 3: Em có nhận xét gì về sự xuất hiện hàng loạt các từ ngữ, câu văn để trong dấu “”.
Tác dụng của các từ ngữ đó?
Câu 4: Anh (chị) có suy nghĩ về quan niệm của tác giả: nghệ thuật có khả năng “đánh
thức năng lực thông cảm, thấu cảm với người khác, để cho biển và bờ giao cảm, để cho
lớp lớp sóng biển giao hoà, để cho giữa người với người không còn hơn, thua, được,
mất”
Phần II:Làm văn
Qua bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca em hiểu gì thêm về tâm hồn các nhà thơ lãng
mạn và thế hệ thanh niên đương thời? Cách thể hiện lòng yêu nước của họ như thế nào?
Đáp án và thang điểm
Đọc
hiểu

Câu
Nội dung cần đạt
1
Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: Nghị luận, thuyết minh

Điểm
0,5 điểm

Các thao tác lập luận: bình luận, phân tích
2


Chủ đề chính của đoạn trích: Nhạc Trịnh Công Sơn và nỗi 0,5 điểm
khao khát sự đồng cảm giữa con người với con người


×