Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

SKKN: Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn Giáo dục công dân bậc Trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 39 trang )

Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Tên đề  tài: “Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển 
đảo Việt Nam qua môn Giáo dục công dân bậc Trung học phổ 
thông”.
1.Lí do chọn đề tài.
1.1 Tiền đề lí luận.
Tổ quốc Việt Nam, đất nước bên bờ  sóng, đất nước của tự do và khát 
vọng, hạnh phúc và hòa bình, đất nước của những câu dân ca, những mái đình 
ngàn năm chứng kiến bao thăng trầm lịch sử, kể  từ thời các vua Hùng dựng 
nước, đã tạo nên bao kì tích , dấu ấn về khí phách hào hùng trong công cuộc  
đấu tranh dựng nước và giữ nước, như những bản hùng ca huyền thoại. Tinh 
thần yêu nước, chủ  nghĩa anh hùng dân tộc là tinh hoa, bản sắc văn hóa của 
người Việt Nam, hòa quyện vào hồn thiêng sông núi cho đất nước mãi mãi 
trường tồn.
Giáo   dục   thế   hệ   trẻ   người   Việt   Nam   hôm   nay   biết   hướng   về   cội  
nguồn, nhớ ơn tổ tiên, phát huy lòng tự hào dân tộc là việc làm vô cùng quan  
trọng và cần thiết, là cái gốc vững bền cho sự phát triển hiện tại và tương lai. 
Điều cốt lõi nhất để nhân dân ta chiến thắng kẻ thù xâm lược, chế ngự thiên 
nhiên chính là chủ nghĩa yêu nước, điều đó đã chứng minh qua suốt mấy ngàn 
năm. Trước sức mạnh đó, không kẻ thù nào có thể khuất phục, đe dọa được ý  
chí yêu nước quật cường của nhân dân ta, tất yếu mọi kẻ thù đều bị thất bại,  
buộc phải thừa nhận quyền độc lập tự chủ của đất nước Việt Nam.
Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân 
dân ta, từ buổi nhà nước Âu Lạc đến 1000 năm Bắc thuộc, sang thế kỉ thứ X, 
triều đại nhà Lý tiếp tục cùng nhân dân đánh đuổi giặc Tống. Thế kỉ XIII nhà  
Trần đánh giặc Nguyên Mông. Thế  kỉ  XV vua Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh.  
Thế  kỉ  XVIII, vua Quang Trung đánh đuổi giặc Thanh. Thế  kỉ  XIX, XX dân 
tộc ta kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giải phóng đất nước 
thoát khỏi chế độ thực dân, đế quốc, mở ra một thời kì mới : Độc lập dân tộc 


gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Trang 1/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

Chiến thắng lịch sử  30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất  đất 
nước.
Chính lòng yêu nước­ chủ  nghĩa yêu nước đã trở  thành truyền thống,  
bản sắc văn hóa, được kế  thừa từ  đời này sang đời khác. Chúng ta tự  hào là 
con Lạc cháu Hồng, tự hào là người Việt Nam. Tổ quốc Việt Nam luôn có vị 
trí thiêng liêng trong mỗi trái tim người Việt. Muốn đất nước thịnh vượng, thì 
không thể  thiếu vai trò của giáo dục đào tạo bởi vì “ Hiền tài là nguyên khí 
quốc gia”. Giáo dục đào tạo có nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và 
bồi dưỡng nhân tài, đặc biệt coi trọng tới giáo dục nhân cách, đạo đức cho 
mọi đối tượng học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên. Mục tiêu của giáo dục 
đào tạo là phát triển toàn diện con người. Con người vừa là động lực, vừa là 
mục tiêu của sự phát triển xã hội. Muốn đảm bảo được mục tiêu và phát huy 
động lực thì nhất thiết phải giáo dục, bồi dưỡng tình yêu nước, chủ nghĩa yêu 
nước trở thành ý thức hệ cho mọi công dân Việt Nam. Đất nước ta đang trên  
con đường hội nhập và phát triển, công nghiệp hóa­hiện đại hóa đất nước  
theo định hướng chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu nước mạnh, công bằng, 
dân chủ, văn minh. Do vậy, giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước trong giai  
đoạn hiện nay phải được chú trọng hơn bao giờ hết!
Đất nước Việt Nam rừng vàng biển bạc, giàu truyền thống văn hóa, 
nhân văn, yêu chuộng hòa bình, phải trải qua biết bao đau thương mất mát, sự 
hy sinh xương máu của cha ông và bao thế hệ người Việt Nam yêu nước, đất 
nước  ấy đã trở  thành biểu tượng của khát vọng tự  do, hòa bình. Từ  tổ  quốc 
này đã sinh ra bao anh hùng hào kiệt­ những con người đã trở  thành bất tử.  

Trang 2/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

Giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ trẻ ngày hôm nay nói riêng và cộng đồng  
xã hội nói chung là trách nhiệm cao cả  của Đảng, nhà nước và nhân dân, là 
nhiệm vụ to lớn của các nhà trường. Đó là điều không thể thiếu và không bao 
giờ thiếu cho sự phát triển bền vững của đất nước.
1.2 Tiền đề thực tiễn
Hiện nay, chúng ta đã và đang giáo dục thế hệ trẻ niềm tự hào, tự  tôn  
về truyền thống văn hóa của dân tộc trải qua hơn 4000 năm lịch sử. Mỗi học 
sinh cần thấy rằng, hàng triệu người Việt Nam đã ngã xuống, hy sinh máu  
xương trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Cái giá của tự do và hòa bình  
mà nhân dân ta phải hy sinh không có gì bù đắp nổi. Chính vì vậy, giáo dục 
lòng yêu nước luôn là nhiệm vụ  hàng đầu, bởi vì nếu ai không có lòng yêu  
nước thì cá nhân đó không đem lại bất kì lợi ích gì cho dân tộc. Bản thân tôi 
cho rằng, thời gian gần đây, cách giáo dục của chúng ta đang đặt ra nhiều vấn 
đề cần phải đổi mới, giải quyết được những mâu thuẫn xung đột giữa truyền 
thống và hiện đại, giữa hội nhập, phát triển và giữ  gìn bản sắc dân tộc giữa 
cái cũ và cái mới, riêng và chung…. Thậm chí nền kinh tế thị trường đang tạo 
ra nhiều thách thức, ví dụ: Sự  phân hóa giàu nghèo trong xã hội, đề  cao quá 
mức giá trị đồng tiền, coi thường đạo lí, có lối sống thực dụng, sa đọa, ích kỉ, 
vô cảm. Điều đáng buồn hơn là một bộ  phận không nhỏ  giới trẻ  hiện nay 
đang quên dần quá khứ, phủ  nhận quá khứ, suy thoái tư  tưởng đạo đức, bắt 
nhịp rất nhanh những thói hư tật xấu của “văn minh internet”, của “văn minh 
ngoại lai”. Nhiều học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên không biết gì hoặc biết  
rất ít lịch sử dân tộc...
Nếu những xung đột này không được giải quyết và nếu chúng ta không 
có  cách giáo dục đúng đắn phù hợp thì sẽ ảnh hưởng nghiêm  trọng tới nhân  

cách, đạo đức của con người, tác động tiêu cực đến sự  phát triển của xã hội 
thậm chí là sự  tồn vong của đất nước. Nói như  thế  không phải là đổ  gánh  
nặng trách nhiệm quá lớn cho giáo dục nhưng rõ ràng, giáo dục (từ  gia đình, 
nhà trường, xã hội) có trách nhiệm không hề nhỏ.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, không thể  phủ  nhận  
mặt tích cực của nền văn minh tin học, một mặt nó tạo ra bước phát triển đột 
phá trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhưng mặt khác chúng cũng kéo 
theo nhiều hệ lụy như đã nêu trên. Vấn đề  đặt ra là cần phải phát triển toàn 
diện con người, để  họ  trở  thành những công dân có ích. Bởi con người vẫn 
Trang 3/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

chính là loại tài nguyên quý giá nhất. Lúc sinh thời chủ tịch Hồ  Chí Minh đã 
từng nói: “ vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải  
trồng người”. Do đó, chăm lo giáo dục con người là nhiệm vụ  then chốt cho  
sự phát triển tương lai đất nước. Tôi nhận thấy rằng, chúng ta cần nhìn nhận 
và có những cách tiếp cận mới về  vấn đề  giáo dục của nước ta trong bối  
cảnh hiện nay. Một thực tế  là: Giáo dục đào tạo nước ta chưa thực sự  tiến  
kịp với nền giáodục của các nước phát triển. Hơn nữa, chúng ta “dường như” 
đang quá coi trọng giảng dạy các bộ môn khoa học tự nhiên, “ít coi trọng” các 
hoạt động mang tính giáo dục, điều này đang tồn tại ở bậc trung học cơ sở và 
trung học phổ  thông. Chương trình sách  giáo khoa vẫn còn nặng nề, dàn 
trải… cộng với  ảnh hưởng của kinh tế  thị  trường đã và đang tạo ra nhiều  
hậu quả tiêu cực tới văn hóa, đạo đức, nhân cách con người, tác động không 
tốt đến sự phát triển chung của đất nước. Muốn có cách nhìn nhận đúng đắn 
về vị trí, vai trò, trách nhiệm của công dân đối với công cuộc xây dựng, bảo 
vệ  tổ  quốc thì hơn lúc nào hết chúng ta cần đề  cao nhiệm vụ  giáo dục lòng 
yêu nước như là quy luật tất yếu.


Hà Nội ­Trái tim của cả nước
Hình ảnh tổ quốc, biển đảo thân yêu của đất nước Việt Nam tươi đẹp  
luôn được quảng bá trên mọi phương tiện thông tin đại chúng, đối với mỗi 
người Việt Nam, đất nước luôn vẹn tròn, thiêng liêng trong trái tim và tâm 
hồn. Yêu đất nước, là sống, chiến đấu và hi sinh vì đất nước. Mỗi tấc đất,  
Trang 4/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

mỗi hòn đảo, vùng biển trời, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam đều là niềm tự hào 
của bao thế hệ con dân đất Việt hôm nay và mai sau.

Việt Nam –điểm đến của thiên niên kỉ mới

Chiều về trên Mường Thanh­Điện Biên.
Trong bối cảnh khu vực và quốc tế  có nhiều diễn biến phức tạp, đặc 
biệt là tình trạng tranh chấp lãnh thổ trong đó có tranh chấp biển, đảo, không  
phận, hải phận… đang đe dọa trực tiếp tới an ninh, an toàn hàng hải, kinh tế,  
chính trị, xã hội, chủ  quyền, độc lập, hòa bình của nhiều quốc gia trên thế 
giới. Với Việt Nam, một quốc gia có đường bờ  biển dài 3260 km chúng ta 
Trang 5/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

được sở hữu hơn 1 triệu km2 trên biển Đông với 2 quần đảo là Trường Sa và  
Hoàng Sa cùng hơn 3000 hòn đảo lớn, nhỏ, gần, xa bờ. Việt Nam có đầy đủ 
chứng cứ  lịch sử  và pháp lí về  2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như 

vùng lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế  theo công  ước của  
Quốc tế về luật Biển năm 1982( UNCLOS) đã công nhận.
Tuy nhiên, những năm gần đây, nổi bật việc Trung Quốc đã liên tục có 
những hành vi gây hấn, xâm phạm nghiêm trọng chủ  quyền biển đảo Việt 
Nam bằng việc hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh  
tế  nước ta (từ  ngày 2/5/2014 đến ngày 17/5/2014) cũng như  hiện tại Trung  
Quốc vẫn đơn phương cố  ý thay đổi hiện trạng Biển Đông(xây dựng trái 
phép các đảo đá nhân tạo tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam) nhằm độc 
chiếm Biển Đông theo quan điểm phi lí, bằng “đường lưỡi bò” không có giá 
trị  pháp luật của Trung Quốc, đồng nghĩa với việc Trung Quốc cố  ý xâm  
chiếm trái  phép tất cả  các vùng biển, đảo, quần đảo mà nước ta có chủ 
quyền theo công  ước của Liên Hợp Quốc về  luật biển năm 1982 đã thừa 
nhận. Bên cạnh đó, một số  quốc gia khác trong khu vực( gồm  Đài Loan, 
Malaysia, Philippin, Brunây ) cũng đang tranh chấp trên biển Đông, nhất là  
tranh chấp giữa các đảo, bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa của  
Việt Nam. 
Với những diễn biến phức tạp đang đe dọa tới an ninh chủ quyền lãnh 
thổ, biển đảo đất nước, tôi cho rằng việc giáo dục cho các em học sinh kiến  
thức và tình yêu biển đảo Việt Nam là vô cùng quan trọng, cần được phổ 
biến rộng rãi.
Từ  đề  tài: “Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam  
qua môn  Giáo  dục  công  dân (GDCD)   bậc  Trung  học  phổ  thông(  THPT)”, 
người viết thấy cần thiết phải giới thiệu đầy đủ  hơn, toàn diện hơn về lòng 
yêu nước, tình yêu biển đảo Việt Nam với đối tượng học sinh THPT qua môn 
học GDCD để các em thêm yêu mến, tự hào về quê hương, tổ quốc mình. Từ 
đó, các em có được nhận thức đúng đắn về  trách nhiệm công dân trong công  
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ  quốc thân yêu. Đây cũng chính là lý do tôi chọn 
đề tài này như một sáng kiến kinh nghiệm nhỏ trong quá trình giảng dạy của  
mình.


Trang 6/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

2. Mục đích, yêu cầu của đề tài.
2.1 Mục đích của đề tài.
+Giới thiệu hình ảnh biển đảo và giáo dục tình yêu biển đảo đất nước  
cho học sinh qua môn học, bồi dưỡng phát triển lòng yêu nước, chủ nghĩa yêu 
nước cũng như  xác định trách nhiệm của công dân đối với sự  nghiệp xây  
dựng và và bảo vệ tổ quốc.
+Giúp các thầy, cô giáo bộ môn có các biện pháp phù hợp khi triển khai  
hoạt động giáo dục lồng ghép nội dung biển đảo vào từng bài học cụ thể.
+ Có ý nghĩa giáo dục cộng đồng xã hội chia sẽ trách nhiệm, ủng hộ và 
thực hiện nhiều hoạt động thiết thực hướng về biển đảo thân yêu.
2.2  Yêu cầu của đề tài 
+ Giáo viên cần thu thập, cập nhật thông tin cần thiết, có tính chính 
xác, thời sự và đầy đủ giá trị pháp lí về biển đảo của tổ quốc.
+Học sinh tìm đọc và sưu tầm tài liệu liên quan tới biển đảo sao cho 
phong phú, sinh động.
+Giáo viên lựa chọn bài dạy để lồng ghép nội dung phù hợp, đảm bảo  
tính khoa học, tính thực tiễn và tính giáo dục.
+ Chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ quá trình học tập.
+ Phối kết hợp với các cá nhân, tập thể, đoàn thể, tổ  chức hoạt động  
giáo dục để có hiệu quả cao nhất.
3. Đối tượng và thời gian nghiên cứu đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu đề tài.
+ Bằng nhiều hình thức, phương pháp làm nổi bật hình ảnh đất nước, 
biển đảo của tổ  quốc để  hình thành, bồi dưỡng và phát triển tình yêu quê 
hương, đất nước cho học sinh.

3.2 Đối tượng khảo sát.
+ Giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân (10 đồng chí) trong 4 
trường THPT.
+ Học sinh 3 khối 10, 11, 12 nơi người viết đề tài công tác. Tổng số là 
1875 em.
Trang 7/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

( vì nguyên tắc bảo mật thông tin sáng kiến, người viết đề  tài không 
nêu cụ thể tên đơn vị).
3.3 Thời gian nghiên cứu đề tài: năm học 2014­2015.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
+ Thu thập và xử lý thông tin từ giáo viên, học sinh.
+ Dùng hệ thống câu hỏi đóng, mở để thu thập số liệu cần thiết.
+ Tham khảo các nguồn tài liệu.
+ Xử lý số liệu theo tỉ lệ phần trăm.

PHẦN II. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI.
1. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài
Đối với học sinh  ở  mọi bậc học, cấp học, hay với bất cứ người Việt  
Nam nào chắc chắn đều đã biết hoặc muốn tìm hiểu về đất nước, biển đảo, 
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước mình. Ở đây, chỉ nói riêng với các 
em học sinh THPT, các em biết về  dân tộc mình qua nhiều bộ  môn như  lịch 
sử,    địa  lí,  văn  học  và  nhiều kênh  thông tin  khác. Riêng   đối  với  bộ   môn 
GDCD, bộ môn đặc thù, tổng hợp các kiến thức về triết học, đạo đức, pháp 
luật… Trong 3 khối lớp 10, 11, 12, việc giáo dục tình yêu quê hương đất  
nước hoàn toàn là phương diện giáo dục đạo đức, tác động trực tiếp đến suy 
nghĩ và hành động của học sinh, bồi dưỡng và phát triển tình cảm nhân văn, 

trách nhiệm của công dân đối với đât nước. Không giống như bộ môn lịch sử 
trình bày một cách logic, hệ thống về các diễn biến sự kiện lịch sử. Môn địa 
lí giới thiệu về đặc điểm, vị  trí địa lí, khí hậu, tiềm năng kinh tế  xã hội của  
từng vùng miền. Bộ  môn GDCD giáo dục về  lòng yêu nước bằng tình cảm  
sâu sắc qua nhiều nội dung, câu chuyện, hình  ảnh thực tiễn sinh động. Tuy  
nhiên,theo tôi quan sát, cách giảng dạy môn học này hiện nay  ở  một số  giáo 
viên vẫn còn mang nặng lí thuyết, ít có sự sáng tạo, chủ yếu dựa vào thông tin 
hiện có trong sách giáo khoa. Vẫn biết rằng cần phải đảm bảo nội dung cơ 
bản trong sách giáo khoa, song, để bài giảng có tính sinh động và thuyết phục,  
các thầy cô giáo cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy trong từng bài  
học. Khi giảng dạy một số bài có liên quan đến nội dung lòng yêu nước, cụ 
thể là:
Trang 8/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

+ GDCD lớp 10 Bài 10: Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ 
quốc.
+ GDCD lớp 11 Bài 14: Chính sách quốc phòng an ninh
        Bài 15: Chính sách đối ngoại
+ GDCD lớp 12 Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật
      Bài 9: pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước.
Khi dạy những bài này, giáo viên vẫn chưa liên hệ hay lồng ghép những 
kiến thức phong phú hơn về  hình  ảnh tổ  quốc, biển đảo quê hương để  các  
em hiểu thêm và bồi dưỡng tinh thần yêu đất nước. Đa số thầy cô dạy “chay”  
tức là bằng phương pháp truyền thống, thuyết trình là cơ bản, ít sử  dụng các 
đoạn phim tư  liệu( bằng máy chiếu). Vì thế  nội dung nhiều khi đơn giản. 
Bên cạnh đó, lựa chọn kiến thức lồng ghép về  tình yêu đất nước biển đảo  
Việt Nam cho phù hợp với kiến thức của từng bài trong mỗi khối  ở  một số 

thầy cô là chưa phù hợp, làm cho bài giảng khô cứng. Giáo viên cũng chưa  
biết sử  dụng những giờ  ngoại khóa để  truyền đạt nội dung này. Trong phân 
phối chương trình, giờ  ngoại khóa theo chủ  đề, nội dung đã học được sắp 
xếp để  củng cố  lại các kiến thức. Nếu giáo viên không biết lồng ghép giáo  
dục nội dung tình yêu biển đảo quê hương tổ  quốc vào giờ  ngoại khóa sẽ 
dẫn tới giờ học chưa hiệu quả, lãng phí thời gian.
Đối với học sinh, đa phần các em có kiến thức về  lãnh thổ, địa lí trên  
đất liền nhưng những kiến thức về biển đảo nước ta lại rất hạn chế, chưa có 
sự  hiểu biết đầy đủ, toàn diện về  những vùng lãnh thổ  của đất nước trên 
biển, trong đó đặc biệt là các đảo và quần đảo.
2. Số liệu khảo sát ban đầu
Tôi tiến hành khảo sát lấy ý kiến của 10 giáo viên giảng dạy môn 
GDCD tại các trường THPT trên khu vực và 1875 em học sinh nơi tôi công  
tác.
Kết quả thu được như sau:
+ Biểu đồ  1: Khảo sát ý kiến của giáo viên về  hoạt động lồng ghép 
nội dung kiến thức biển đảo Việt Nam vào trong bộ môn GDCD.

Trang 9/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

+ có 3/10giáo viên( 30%)  không lồngghép nội dung này.
+ 5/10 giáo viên(50%) có lồng ghép nhưng nội dung chưa phong  
phú sinh động.                    
  +   2/10   giáo   viên(20%)   lồng   ghép   sinh   động,   đầy   đủ   thường  
xuyên.
          
+ Biểu đồ 2: Khảo sát ý kiến của giáo viên về các phương pháp khi 

giảng dạy nội dung bài học( có lồng ghép nội dung biển đảo Việt Nam).

+ 4/10 giáo viên(40%) sử dụng phương pháp thuyết trình đàm thoại.

Trang 10/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

+ 4/10 giáo viên(40%) vừa thuyết trình vừa sử  dụng công nghệ  thông 
tin.
+ 2/10 giáo viên(20%) sử dụng phương tiện băng hình máy chiếu.
+ Biểu đồ  3: Khảo sát học sinh về  mức độ  nhận biết kiến thức biển 
đảo Việt  Nam.

+ 1087 em (58%) rất hạn chế về kiến thức biển đảo.
+ 521 em (28%)nhận thức chưa đầy đủ.
+ 267 em(14%) nhận thức tương đối đầy đủ.
Đặc biệt khi đặt câu hỏi về  tầm quan trọng của giáo dục tình yêu đất 
nước biển đảo Việt Nam, thì tôi đã rất xúc động khi nhận được câu trả  lời  
của 100% học sinh được khảo sát cho rằng rất quan trọng và cần thiết khi  
giảng dạy phổ biến nội dung này.
+ Biểu đồ  4:  Khảo sát học sinh về  tầm quan trọng( cần thiết) phải  
giáo dục tình yêu biển đảo tổ quốc.

Trang 11/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT


Có 1621 học sinh = 86% cho rằng rất quan trọng
Có 147 học sinh = 8% cho rằng quan trọng
Có 107 học sinh = 6% cho là bình thường
=>nhận xét: 
+ Về  phía giáo viên: rõ ràng chưa có nhận thức đầy đủ  về  tầm quan  
trọng của việc giáo dục tình yêu biển đảo ở một số  giáo viên. Cụ  thể, trong 
10 giáo viên mà tôi tiến hành khảo sát, có 3 đồng chí chưa đưa nội dung này 
vào trong quá trình giảng dạy, có 5 đồng chí đã tiến hành giảng dạy nhưng  
còn chưa phong phú về nội dung và hình thức, chỉ có 2 đồng chí lồng ghép nội 
dung một cách đầy đủ  và toàn diện nhất. Giáo viên vẫn sử  dụng các biện 
pháp thuyết trình là chủ  yếu ít sử  dụng các hình  ảnh trực quan( tranh  ảnh,  
video, clip, phim tài liệu liên quan tới biển đảo) vì thế  hiệu quả  thu được 
không cao. Chính từ  một phần lý do trên, cùng với sự  thiếu quan tâm, ít đọc 
tài liệu về biển đảo mà đa số học sinh có rất ít kiến thức về lĩnh vực này. Có  
tới 1608 em nhận thức rất hạn chế hoặc không đầy đủ  về  chủ  quyền biển  
đảo thiêng liêng của tổ  quốc, trong khi thực sự các em đã có một số  chuyển  
biến tích cực về nhu cầu tìm hiểu kiến thức về biển đảo Việt Nam khi  94%  
học sinh cho rằng rất quan trọng và quan trọng khi lồng ghép nội dung này 
trong môn học, chỉ còn 6% học sinh cho là bình thường
3. Nội dung cơ bản của đề tài
Trong khuôn khổ đề tài này, người viết mong rằng các em học sinh có 
thêm nhiều kiến thức về biển đảo Việt Nam. Các thầy cô giáo có những cách 
Trang 12/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

tiếp cận mới, phương pháp mới khi giảng dạy môn học, bài học có nội dung 
liên quan khi lồng ghép giới thiệu về biển đảo Việt Nam cho phù hợp. Để đạt 
hiệu quả tích cực, giáo viên cần xác định những mục tiêu và yêu cầu sau:

3.1.  Mục tiêu:
 Xác định được bài dạy để lồng ghép . Như phần trên đã trình bày, giáo  
viên cần lựa chọn các bài sau:
Lớp 10: Bài 14 Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Lớp 11: Bài 14 Chính sách quốc phòng an ninh.
Bài 15: Chính sách đối ngoại.
Lớp 12: Bài 3 Công dân bình đẳng trước pháp luật
Bài 9 Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước.
Việc xác định đúng bài dạy để lồng ghép kiến thức về chủ quyền biển  
đảo là rất quan trọng, bởi nếu không sẽ   ảnh hưởng tới thời gian, nội dung 
giờ học, tiết học, vừa không đảm bảo tính khoa học. vừa không đảm bảo nội 
dung cần đạt.
3.2.Yêu cầu: 
Khi đưa nội dung kiến thức về biển đảo cần đảm bảo tính chính xác, 
thực tiễn, thời sự  và giáo dục. Giáo viên tìm hiểu nội dung này bằng nhiều 
nguồn thông tin, thu thập tranh  ảnh, tài liệu liên quan để bài giảng được hấp 
dẫn hơn. Cần chú ý đến thời gian, nội dung lồng ghép để  không ảnh hưởng  
tới kiến thức của sách giáo khoa, tránh dàn trải không đúng nội dung vấn đề. 
Nêu cao tinh thần tự  giác tích cực của học sinh, đặt những câu hỏi, dẫn dắt  
học sinh đến vấn đề cần đạt, khuyến khích tính sáng tạo của người học.

4. Biện pháp thực hiện.
4.1. Lồng ghép nội dung từng bài học cụ thể
+ Chương trình GDCD lớp 10, bài 14 “Công dân với sự  nghiệp xây 
dựng và bảo vệ tổ quốc”. Ở bài học này, yêu cầu học sinh hiểu được thế nào  
là lòng yêu nước, truyền thống yêu nước của dân tộc ta, biểu hiện cụ thể của  
lòng yêu nước là gì? Học sinh cần hiểu được trách nhiệm của mỗi công dân  
đối với quê hương đất nước từ  đó các em thêm tự  hào, yêu mến, có ý thức 
Trang 13/36



Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

học tập, rèn luyện, lao động, sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ và cuộc đời cho tổ 
quốc. Bài này có thể phân phối thành 2 tiết. Trong đó
Tiết 1: + phần 1: Lòng yêu nước.
a. Lòng yêu nước là gì?
b. Truyền thống yêu nước của dân tộc ta.
Giáo viên có thể  thuyết trình, nêu các ví dụ  cụ  thể, những câu chuyện  
lịch sử, kể tên các nhân vật anh hùng, những chiến thắng vẻ vang của cha ông  
ta, nhân dân ta từ xưa đến nay( chỉ kể và nêu các ví dụ tiêu biểu). Chiếu một  
đoạn phim tài liệu ngắn khoảng từ  5 đến 7 phút về  chiến thắng 30/4/1975  
hoặc tư liệu về Trường Sa, Hoàng Sa của đất nước ta.
Tiết 2: phần 2 Trách nhiệm xây dựng tổ quốc.
Phần 3 Trách nhiệm bảo vệ tổ quốc. 
Ở phần này giáo viên có thể đưa hình ảnh tư liệu về một số vùng miền 
của Việt Nam, hình ảnh một số đảo và quần đảo của Việt Nam làm nổi bật 
lên vẻ đẹp tự nhiên, chủ quyền thiêng liêng của đất nước, bao gồm cả phần 
đất liền, vùng trời và vùng biển. Thông qua đó, các em học sinh sẽ thấy được  
giá trị của độc lập tự do, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ mà biết bao thế hệ 
cha ông đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ cho hôm nay, để từ đó các em thêm 
yêu, tự hào và gắn bó với quê hương tổ quốc mình.
Nội dung bài này rất phù hợp khi giảng dạy tình yêu quê hương đất 
nước trong đó lồng ghép kiến thức về biển đảo. Giáo viên vừa sử dụng kiến 
thức về lịch sử, địa lí, văn học, vừa đề cao tính giáo dục và đảm bảo nội dung  
đặc thù môn học là nhận thức và trách nhiệm của công dân. 
+ Ở chương trình lớp 11 bài 14: “Chính sách quốc phòng an ninh”. 
Yêu cầu: Nêu được vai trò to lớn của quốc phòng và an ninh đối với 
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Từ 
đó hình thành ý thức trách nhiệm của công dân trong việc  ủng hộ chấp hành 

chính sách an ninh quốc phòng của nhà nước, sẵn sàng tham gia công tác giữ 
gìn trật tự an ninh xã hội và bảo vệ tổ quốc.
Ở phần này giáo viên cần nhấn mạnh: Quốc phòng có vai trò và nhiệm 
vụ  cực kì quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ  độc lập dân tộc và chủ 
quyền toàn vẹn lãnh thổ. An ninh góp phần trực tiếp vào việc ổn định trật tự 
Trang 14/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

an toàn xã hội, có quan hệ mật thiết chặt chẽ với quốc phòng, cùng với quốc  
phòng  giữ vững chủ quyền lãnh thổ an ninh quốc gia.
Chủ  quyền toàn vẹn lãnh thổ  của Việt Nam luôn được các lực lượng 
quốc phòng và an ninh bảo vệ, đó là sự  nghiệp tất yếu của toàn Đảng, toàn 
quân và toàn dân ta. Biển đảo Việt Nam là phần lãnh thổ  không thể tách rời  
đất nước Việt Nam. Không một thế lực phi nghĩa nào có thể cưỡng đoạt, xâm 
lược hay có bất kỳ hình thức nào hòng thay đổi hiện trạng nhằm chiếm đóng 
trái với luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền thiêng liêng của đất nước ta.

Cảnh sát biển Việt Nam tuần tra bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Bài 15: “Chính sách đối ngoại” 
Mục tiêu của bài học là giúp học sinh hiểu được yêu cầu và nhiệm vụ, 
nguyên tắc và phương hướng cơ bản của chính sách đối ngoại, biết vận dụng  
chính sách đối ngoại trong hoạt động của mình, xác định được trách nhiệm 
công dân đối với chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước.
Như  các phần trước đã trình bày, thế  giới đang trong xu thế  toàn cầu 
hóa, bên cạnh mặt tích cực là cùng hợp tác, cùng phát triển và đồng thời cũng 
luôn xảy ra những mâu thuẫn về lợi ích, ảnh hưởng giữa các quốc gia, nhóm 
quốc gia. Trong đó, tranh chấp lãnh thổ  chủ  quyền đang trở  thành vấn đề 
nóng  ở nhiều khu vực và trên thế giới. Nổi bật là những diễn biến phức tạp  

trên biển Đông. Chính sách đối ngoại của nước ta là kiên quyết giữ vững độc  
lập tự chủ, kiên trì giải quyết mâu thuẫn bất đồng trên cơ sở hòa bình và tôn 
trọng luật pháp quốc tế. Mặt khác, chúng ta mạnh mẽ  đấu tranh chống mọi 
hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, đập tan âm mưu phá hoại của các 
Trang 15/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

thế  lực thù địch, duy trì môi trường hòa bình, hợp tác, cùng phát triển. Quần 
đảo Hoàng Sa, Trường Sa là chủ  quyền của nước ta, là máu thịt của Việt  
Nam. Nhân dân ta luôn giữ vững quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo. Đó là 
điều chính nghĩa phù hợp với luật pháp quốc tế, được nhân dân yêu chuộng 
hòa bình trên thế giới đồng lòng ủng hộ.
Mỗi học sinh, mỗi công dân hãy thể hiện lòng yêu nước, yêu biển đảo 
bằng cách tích cực học tập, lao động, xây dựng tổ  quốc giàu mạnh, quan hệ 
hữu nghị  với bạn bè quốc tế, luôn luôn thể  hiện mình là công dân của đất 
nước yêu hòa bình và thân thiện, giới thiệu cho bạn bè thế  giới biết về   đất 
nước, con người Việt Nam bằng những câu chuyện, hình ảnh tươi đẹp đầy 
nhân văn.
+ Ở chương trình lớp 12: 
Có thể  lồng ghép vào Bài 3: “Công dân bình đẳng trước pháp luật”  
.Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “mọi công 
dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Bình đẳng trước pháp luật có nghĩa là 
mọi công dân, nam, nữ, thuộc các dân tộc, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội 
khác nhau đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, thực hiện  
nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lí theo qui định của pháp luật. Như vậy, khi học  
xong bài này, học sinh cần hiểu thế  nào là công dân bình đẳng trước pháp  
luật, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lí, có ý thức tôn trọng  
quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật…

Liên hệ thực tiễn: mọi nam thanh niên từ 18 tuổi trở lên đều phải tham  
gia nghĩa vụ  quân sự. Với tư  cách là một công dân thì ai cũng có quyền và  
trách nhiệm xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN, sẵn sàng lên đường 
nhập ngũ khi đủ tuổi và khi tổ quốc cần. Bảo vệ tổ quốc là niềm tự hào và ý  
chí kiên cường của người lính cụ Hồ và của mỗi người dân Việt Nam.
 (  Giáo viên chiếu một đoạn video clip về  những hình  ảnh cuộc đấu  
tranh của nhân dân ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ). 
Ở Bài 9: “Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước”.
Giáo viên giúp học sinh hiểu được vai trò của pháp luật đối với sự phát 
triển bền vững  ở nhiều lĩnh vực như  phát triển kinh tế xã hội, văn hóa, bảo  
vệ môi trường và đảm bảo an ninh quốc phòng…       
Ở bài này, giáo viên có thể liên hệ với thực tiễn.
Trang 16/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

Công dân cần phải thực hiện nghiêm túc luật nghĩa vụ quân sự, bảo vệ 
độc lập chủ  quyền và toàn vẹn lãnh thổ  của tổ  quốc góp phần giữ  gìn hòa  
bình,  ổn định và phát triển. Trong bối cảnh Trung Quốc và một số  quốc gia  
đang tranh chấp trên biển Đông, xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam thì 
trách nhiệm tham gia nghĩa vụ quân sự cần thực hiện nghiêm túc hơn bao giờ 
hết! Nhân dân ta luôn muốn hòa bình và giải quyết các bất đồng bằng con  
đường hòa bình nhưng khi tổ quốc lâm nguy thì lòng yêu nước lại mãnh liệt  
từ trái tim của mỗi con người.
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi tổ quốc! nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…
                                                                       Chế Lan Viên


Hải quân Việt Nam sẵn sàng bảo vệ biển đảo tổ quốc.

Trang 17/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

4.2  Giáo viên sử dụng giờ ngoại khóa để giảng dạy kiến thức về biển 
đảo Việt Nam.
Tùy theo phân phối chương trình  ở  mỗi trường mà có sự  phân chia 
thành các đơn vị, thời lượng tiết học khác nhau nhưng tổng số  tiết của môn 
học GDCD không thay đổi là 35 tiết/lớp/năm học. Có thể  sắp xếp các nội 
dung giảm tải, đọc thêm trong chương trình thành các giờ học ngoại khóa. Ví 
dụ:   ở     đơn   vị   trường   học   của   tôi   công   tác:   khối   10   có   4   tiết   ngoại 
khóa/lớp/năm học
Khối 11 có 4 tiết ngoại khóa/lớp/năm học
Khối 12 có 3 tiết ngoại khóa/lớp/năm học. 
Chủ  đề  ngoại khóa: Các vấn đề  đã học hoặc liên hệ  thực tiễn bài 
học với địa phương.
Tôi đã sử dụng giờ học ngoại khóa để lồng ghép nội dung giáo dục tình 
yêu đất nước­biển đảo rất có hiệu quả .Thậm chí khi được xem những hình 
ảnh, phim tư liệu về sự hy sinh của nhân dân ta trong chiến tranh giải phóng  
dân tộc, nhiều em đã khóc bằng cảm xúc chân thành nhất, tỏ lòng kính trọng, 
biết ơn cha ông đã ngã xuống để bảo vệ mảnh đất này.
Giờ  ngoại khóa được tiến hành dưới 3 hình thức: trên lớp,  ở  phòng  
chức năng, thăm quan thực tế.
+ Thực hiện  ở trên lớp: Giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi (phụ 
lục kèm theo phần sau) liên quan đến các kiến thức về  địa danh, đất nước, 
biển đảo và những anh hùng lịch sử  dân tộc… bằng hình thức hái hoa dân 

chủ, mỗi em đều có thể  trả  lời những câu hỏi liên quan mà mình biết được. 
Cách thứ hai là tổ chức thành một trò chơi, chia lớp thành các đội khác nhau (4 
đội), đội nào trả  lời được nhiều câu hỏi nhất sẽ  được cộng điểm thi đua,  
được thưởng pháo tay hoặc bài hát theo yêu cầu… Nhờ  vậy, không khí giờ 
học sẽ  trở  nên hấp dẫn và sinh động lôi cuốn nhiều học sinh tham gia, rèn 
luyện được kỹ năng sống cho học sinh (kỹ năng thể hiện trước đám đông, kỹ 
năng sáng tạo, kỹ năng biểu diễn…)
Để  thực hiện tốt giờ  học ngoại khóa, yêu cầu học sinh và giáo viên 
chuẩn bị tốt khâu trang trí lớp học, thể hiện sự trang trọng nghiêm túc. Ngoài 
ra, hệ thống các câu hỏi, tranh ảnh cần xác thực, phong phú, giúp học sinh dễ 
Trang 18/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

hiểu, dễ tìm và trả  lời. Giáo viên yêu cầu học sinh về  nhà chuẩn bị  sưu tầm 
các hình ảnh tư liệu về đất nước, biển đảo cho kiến thức đầy đủ, phong phú  
hơn.
+ Ở phòng chức năng: 
Tôi đã sưu tầm được những hình ảnh, những đoạn video, clip về cảnh 
đẹp đất nước, biển đảo, về  những cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân ta  
như  Điện Biên Phủ  trên không 12 ngày đêm, chiến tranh giải phóng miền 
nam. Phim tài liệu “Thép trong ngục lửa” nói về sự hy sinh của những người 
chiến sỹ cộng sản bị chính quyền Mỹ Ngụy bắt giam, tra tấn tại nhà lao Phú 
Quốc. Các em học sinh theo dõi đoạn phim đó đã có nhiều xúc động.
Yêu cầu:   Giáo viên chuẩn bị  tốt cơ  sở  vật chất như  máy chiếu, ánh 
sáng, bàn ghế… có giáo án điện tử sinh động, hình ảnh trình chiếu rõ nét, lời  
giới thiệu và trình bày của giáo viên súc tích, trân trọng, cảm động.
+Tham quan thực tế:  Rất may mắn  ở  địa phương tôi có “Bảo tàng 
chiến sỹ cách mạng bị địch bắt và tù đày” do các bác cựu chiến binh, cựu tù  

Phú Quốc xây dựng và sưu tầm hàng nghìn hiện vật. Đây là những tư  liệu 
sống (cả con người và hiện vật) có tính lịch sử chân thực, mang ý nghĩa giáo  
dục to lớn. Mỗi đầu năm học tôi đều lập kế  hoạch và lựa chọn thời gian  
thích hợp (dịp kỉ  niệm 30.4) đề  nghị  nhà trường tạo mọi điều kiện về  thời 
gian, kết hợp với đoàn thanh niên tổ chức cho học sinh đến tham quan thực tế 
tại bảo tàng. 
 “Bảo tàng chiến sỹ  cách mạng bị  địch bắt và tù đày” là “ Phú Quốc” 
thu nhỏ, lưu giữ  nhân chứng và chứng tích chiến tranh, giúp các em có nhận  
thức đúng đắn về trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ 
quốc hôm nay ngày càng giàu đẹp, vững mạnh.
4.3 Kết hợp giáo dục truyền thống yêu nước qua các hoạt động giáo dục 
ngoài giờ lên lớp và phong trào kỉ niệm các ngày lễ lớn  của đất 
nước do nhà trường tổ chức.
Ví dụ  cụ  thể: Hoạt động ngoài giờ  lên lớp được đơn vị  tôi thực hiện 
đầy đủ  theo đúng phân phối chương trình 1 tiết/lớp/tháng. Các hoạt động 
ngoài giờ lên lớp thực hiện theo chủ đề hàng tháng trong đó có những chủ đề 
liên quan tới vai trò và trách nhiệm của công dân bảo vệ  tổ  quốc.  Ở  những  
chủ đề này tôi đã đưa nội dung giới thiệu biển đảo Việt Nam vào lồng ghép. 
Trang 19/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

Năm học 2014­2015 kết hợp với đoàn thanh niên phát động tổ chức cuộc thi “  
Học sinh thủ đô với biển đảo tổ  quốc” đã thu hút đông đảo các em học sinh 
tham gia đạt kết quả tốt.
Nhân   dịp   kỉ   niệm   84   năm   thành   lập   Đoàn   TNCS   Hồ   Chí   Minh 
26/3/2015, Đoàn thanh niên của trường đã tổ  chức cuộc thi “ Khám phá kiến 
thức” trong đó chủ  đề  “biển đảo Việt Nam” được tôi và nhóm GDCD soạn 
thảo nhiều câu hỏi, tạo được sự  lôi cuốn với đông đảo học sinh. Tôi nghĩ  

rằng: “ chủ  đề  biển đảo luôn là vấn đề  nổi bật không chỉ  các em học sinh 
quan tâm mà còn là sự quan tâm của toàn thể nhân dân ta. Hướng về biển đảo 
tổ  quốc đã và đang là khẩu hiệu, là hành động để  dân tộc ta giữ  vững chủ 
quyền lãnh thổ. Biển đảo tổ  quốc đang trở  nên thiêng liêng và vô cùng quý 
giá, từ  các em nhỏ  đến tầng lớp thanh niên, người già và mọi công dân yêu 
nước Việt Nam đều dành cho biển đảo quê hương những tình cảm sâu sắc 
nhất, cao quý nhất.
Ngoài ra, các hoạt động chào mừng ngày cách mạng tháng 8, 22/12,  
30/4, 7/5 đều là những ngày lễ  lớn có ý nghĩa lịch sử  quan trọng về  những  
bước ngoặt trọng đại của đất nước. Do vậy, giáo viên bộ môn GDCD  có thể 
khắc sâu, giáo dục học sinh về  giá trị  đạo đức của ngày kỉ  niệm như  thêm  
một lần giúp các em biết nhớ   ơn, tri ân đến những thế  hệ  đi trước, giữ  gìn  
đạo hiếu uống nước nhớ  nguồn của dân tộc ta. Bên cạnh đó cần tham mưu 
với Ban giám hiệu, phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể, cá nhân, tập thể 
nhà trường tổ chức hoạt động văn nghệ  hát về  tổ  quốc, hát về  biển đảo .Có  
thành lập ban tổ  chức, ban giám khảo trong các hội thi, kết thúc mỗi phong 
trào cần rút kinh nghiệm để lần tổ chức sau được tốt hơn. Cần có những hình 
thức động viên, khen thưởng kịp thời những cá nhân, tập thể  xuất sắc trong  
hội thi, phong trào đó. Đây là một mô hình hay, cần thiết được nhân rộng  ở 
nhiều trường học, cấp học.
4.4  Phát động phong trào đối với giáo viên học sinh, ủng hộ quyên góp vì 
nghĩa tình biển đảo.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, mọi công dân 
Việt Nam yêu nước đã có nhiều hành động thiết thực để ủng hộ ngư dân trêm 
biển đảo,  ủng hộ  các chiến sĩ cảnh sát biển Việt Nam… Đây là việc làm  
thường xuyên thể  hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng giúp đỡ  ngư  dân và 
chiến sĩ cảnh sát biển yên tâm sản xuất, công tác, giữ  vững chủ  quyền biển  
Trang 20/36



Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

đảo. Tôi cho rằng phát động chương trình ủng hộ “Nghĩa tình biển đảo” luôn 
mang ý nghĩa thiết thực nhất. thực tế  đã cho thấy toàn dân tộc ta luôn dành  
tình cảm cho những người đang ngày đêm bảo vệ  biển trời. Phong trào  ủng 
hộ  vì biển đảo thân yêu đã có sức lan tỏa rộng lớn, đó chính là niềm động  
viên mạnh mẽ  để  mỗi người dân Việt Nam hoàn thành tốt nhiệm vụ, trách 
nhiệm của họ. Tinh thần đoàn kết mãi mãi trở thành sức mạnh to lớn để  đất 
nước vượt qua khó khăn thử thách cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, thời điểm 
nào. Tôi cho rằng mỗi thầy cô giáo, mỗi cha mẹ  học sinh, mỗi công dân yêu 
nước luôn sẵn sàng đóng góp công sức, vật chất vì lợi ích của tổ  quốc. Tinh 
thần đó đã trở  thành truyền thống nhân văn của người Việt Nam chúng ta. 
Chính vì những việc làm thiết thực này đã thấy học sinh thấy được trách 
nhiệm của mình để kế thừa, phát huy chủ nghĩa yêu nước, tiếp bước cha ông  
viết tiếp những trang sử vẻ vang, nâng tầm vị thế của dân tộc ta trên trường 
quốc tế.

Thanh niên Việt Nam luôn hướng về biển đảo Tổ quốc.
4.5 .Giáo viên thu thập thông tin cập nhật, thời sự, chính xác về chủ 
quyền biển đảo ở đất nước ta.
Điều này rất cần thiết. Mục tiêu chính của đề  tài là giáo dục tình yêu 
đất nước­ biển đảo cho học sinh. Vì thế, những thông tin về biển đảo sẽ  là 
nguồn tư  liệu quý giá để  các em hiểu và nắm vững kiến thức về  nội dung  
này. Đương nhiên chỉ cần đảm bảo lượng thông tin cơ bản, chọn lọc nhất vì 
Trang 21/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

các em có thể  tìm hiểu qua sách báo, tranh  ảnh, phim, và mạng internet cùng  

với nhiều kênh thông tin khác.
Đối với giáo viên cần phân tích chọn lọc các nguồn thông tin sao cho có 
tính chính xác vì trên thực tế  nhiều tài liệu cũng chưa hẳn đã thống nhất về 
nội dung. Giáo viên cũng cần hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu một số  tư 
liệu, sách báo, tranh  ảnh (có phụ  lục kèm theo) để  học sinh tìm đọc và nắm  
vững kiến thức tốt hơn. Nguồn tài liệu này các em có thể  tìm đọc trên thư 
viện nhà trường, các hiệu sách báo và đặc biệt là trên mạng internet. Giáo 
viên có thể phát động phong trào sưu tầm ảnh và thông tin về biển đảo Việt  
Nam, tập hợp lại thành một tập san tranh  ảnh, báo ảnh, báo viết của lớp. Đó 
cũng chính là tư  liệu quý để  các em thường xuyên đọc, xem hàng ngày giúp 
việc nhớ kiến thức dễ dàng, sâu sắc hơn.
Một số thông tin cơ bản về biển đảo nước ta.
Biển Đông là biển nửa kín với diện tích gần 3,5 triệu km2, trải rộng từ 
3 độ vĩ bắc đến 26 độ vĩ bắc, 100 độ kinh đông đến 121 độ kinh đông, là một 
trong những biển lớn nhất trên thế giới với 90% chu vi được bao bọc bởi đất  
liền.   Có   9   quốc   gia   tiếp   giáp   với   biển   Đông   là   Việt   Nam,   TrungQuốc,  
Philipin, Thái Lan, Campuchia,Inđônêxia, Brunây, Malayxia, Singapo và một 
vùng lãnh thổ Đài Loan.
Biển  Đông nằm  trên tuyến giao thông huyết mạch nối liền  Ấn  Độ 
Dương và Thái Bình Dương, châu Á và châu Âu, Trung Đông và châu Á là 
tuyến vận tải  ở biển nhộn nhịp thứ hai trên thế  giới. Có 45% lượng vận tải  
thương   mại   của   thế   giới   phải   đi   qua   biển   Đông.   Trữ   lượng   dầu   khí   có 
khoảng trên 7 tỉ  thùng dầu thậm chí theo  ước đoán của một số  nước biển  
Đông có thể có trên 200 tỉ thùng dầu.
Việt Nam tiếp giáp biển Đông  ở  ba phía biển Đông, Nam, Tây Nam. 
Vùng biển và thềm lục địa là một phần biển Đông trải dọc theo bờ biển dài  
3260km từ  Quảng Ninh đến Kiên Giang. Cứ  100km2 đất liền có 1 km bờ 
biển, gấp 6 lần tỉ lệ trung bình của thế giới. Phần biển của Việt Nam  ở biển  
Đông có diện tích 1 triệu km2 . Việt Nam có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng 
tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng lớn theo công  

ước quốc tế của Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982. Việt Nam có 2 quần 
đảo là Hoàng Sa, Trường Sa nằm giữa biển Đông và khoảng 3000 hòn đảo 
lớn nhỏ, gần và xa bờ.
Trang 22/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

Biển Đông có vị trí và vai trò đặc biệt đối với an ninh, quốc phòng, kinh  
tế, giao lưu phát triển văn hóa của nước ta trong lịch sử, hiện tại và tương lai.  
Biển, hải đảo của nước ta nằm trong biển Đông bao gồm nhiều khu vực khác  
nhau nhưng nổi bật và có những đặc điểm cần chú ý hơn là phần biển thuộc  
chủ  quyền Việt Nam nằm trong   vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan, 2 quần đảo 
Hoàng Sa, Trường Sa và một số đảo, quần đảo khác.
+ Vịnh Bắc Bộ: nằm về phía Tây Bắc biển Đông có diện tích khoảng  
126.250 km2. Phần vịnh của nước ta có hàng ngàn đảo lớn nhỏ  trong đó có  
đảo Bạch Long Vĩ với diện tích 2.5 km2, cách đất liền 110 km. Vịnh Bắc Bộ 
có trữ lượng cá lên tới 44 vạn tấn và giàu tài nguyên giàu khí.
Đảo
Cát Bà
Hải

Phòng
nằm
trong
vịnh
Vịnh 
Bắc Bộ

           


 Thái Lan:  nằm  ở phía Tây Nam của biển Đông có diện tích 293.000 
km2, chu vi khoảng 2300 km. Đảo Phú Quốc là đảo lớn nhất của Việt Nam  
có diện tích 567km2. Trữ  lượng cá  ở  vịnh Thái Lan khoảng 51 vạn tấn và 
giàu tài nguyên giàu khí.
+ Các đảo và quần đảo
Vùng biển ven bờ Việt Nam có khoảng 2773 hòn đảo lớn nhỏ, chủ yếu 
nằm  ở  vịnh Bắc Bộ, số  còn lại phân bố   ở  khu vực Bắc Trung Bộ, Trung  
Trung Bộ, Nam Trung Bộ  và Tây Nam. Ngoài ra có 2 quần đảo Hoàng Sa, 
Trường Sa nằm giữa biển Đông.
Có thể kể tên một số  đảo và quần đảo có vị  trí, vai trò quan trọng đối 
với an ninh, quốc phòng, kinh tế xã hội của nước ta là: Cát Bà, Bạch Long Vĩ, 
đảo Phú Quý (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa­Vũng Tàu), Lý Sơn( Quảng 
Ngãi), Phú Quốc( Kiên Giang): đảo Chàng Tây, đảo Thổ Chu, Côn Đảo, Cồn  
Cỏ, quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa…

Trang 23/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

* Vài nét về  quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của nước ta: Quần  
đảo Hoàng Sa (bãi cát vàng) trực thuộc huyện đảo Hoàng Sa thành phố  Đà 
Nẵng là quần đảo san hô nằm giữa biển Đông có vĩ độ  15độ  45 phút đến 17  
độ 15 phút Bắc ngang với vĩ độ Huế và Đà Nẵng, ở kinh độ  111 độ  đến 113 
độ Đông. Từ thế kỉ XVII, XVIII các chính quyền nước ta đã tổ chức khai thác  
quần đảo. Đến đầu thế kỉ XIX nhà nước Việt Nam đã chính thức xác lập chủ 
quyền trên quần đảo. Quần đảo Hoàng Sa gồm 30 đảo: bãi San Hô, mỏm đá 
ngầm … có diện tích khoảng 30.000km2, có 4 điểm cực Bắc, Nam, Tây, 
Đông tại Đá Bắc, Bãi Ốc tai voi, đảo Tri Tôn và Bãi Gò Nổi.

Khoảng cách từ  đảo Tri Tôn(   15độ  47 phút Bắc đến 111 độ  12 phút  
Đông) tới đảo Lý Sơn của nước ta( 15 độ  22 phút Bắc đến 109độ  07 phút 
Đông) là 123 hải lí.
Khoảng cách từ  đảo Tri Tôn đến mũi Ba làng An( 15 độ  14 phút bắc  
đến 108độ 56 phút Đông) thuộc đất liền Việt Nam chỉ là 135 hải lí. Trong khi 
quần đảo Hoàng Sa cách đảo Hải Nam Trung Quốc là 230 hải lí.
Quần đảo Hoàng Sa chia thành 2 nhóm: 
+ Nhóm An Vĩnh gồm: đảo Bắc, đảo Cây, đảo Trung, đảo Đá, đảo 
Linh Côn, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đá Bông Bay cồn cát Bắc, cồn cát 
Nam, cồn cát Tây, cồn cát Trung, hòn tháp, đã Trung Nghĩa, bãi Bình 
Sơn, hò Hổi, Thủy tề , Quảng Nghĩa….
+ Nhóm Lưỡi Liềm gồm: đảo Ba Ba, Bạch Quy, Duy Mộng, Hoàng 
Sa, Hữu Nhật, Lưỡi liềm,  Ốc Hoa, Quang  Ảnh, Quang Hòa, Tri Tôn, Đá 
bắc, Đá Hải Sâm, Đá Lồi…
Các đảo chính lớn: Đảo Đá, Đảo Cây, Đảo Phú Lâm..

Trang 24/36


Tích hợp giáo dục tình yêu đất nước, biển đảo Việt Nam qua môn GDCD bậc THPT

Quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
+ Quần đảo Trường Sa
Quần đảo Trường Sa gồm 100 đảo nhỏ,bãi ngầm, bãi san hô cách  
quần đảo Hoàng Sa 200 hải lí về phía Nam với diện tích 180.000 km2 nằm ở 
vĩ độ  6 độ  12 phút Bắc đến 12 độ  Bắc, 111độ  30 phút Đông đến 117 độ  20 
phút Đông, cách vịnh Cam Ranh( Khánh Hòa) 248 hải lí, cách đảo Hải Nam  
Trung Quốc 595 hải lí. Việt Nam chia làm 8 cụm: Song Tử, Thị  Tứ, Loại 
Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Biển , Bình Nguyên. Đảo Ba 
Bình là đảo có diện tích rộng nhất( 0,6 km2). Đảo Song Tử Tây có vị  trí cao 

nhất là 4m so với mặt nước biển. Các đảo chính của quần đảo Trường Sa  
gồm: Ba Bình, Thị tứ, Bến Lạc, Trường Sa, Song Tử Đông, Song Tử Tây. 
Diện tích đất nổi xấp xỉ  bằng 5 km2. Hiện nay, Việt Nam đang có mặt và  
bảo vệ 21 đảo và bãi đã ngầm trên quần đảo Trường Sa.

Trang 25/36


×