Tải bản đầy đủ (.doc) (193 trang)

Câu-hỏi-Đường-Lối-cách-mạng-của-ĐCS-Việt-Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.38 KB, 193 trang )

Câu hỏi Đường Lối cách mạng của ĐCS Việt Nam
1. Tính tất yếu của việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn
Ái Quốc?
2. Phân biệt sự khác nhau giữa Luận cương chính trị và cương lĩnh tháng
2/1930
3. Hãy làm sáng tỏ việc ra đời và nắm quyền lãnh đạo cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam là tất yếu khách quan?
4. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam?
5. Có ý kiến có rằng: “Cách mạng tháng 8 là nhờ vào sự ăn may?” Điều này
có đúng không? giải thích
6. Lý giải tại sao giai đoạn 39 – 45 lại đặt nhiệm vụ GPDT lên hàng đầu? Nội
dung của sự chuyển hướng này là gì?
7. Sách lược hòa hoãn của Đảng ta trong giai đoạn 1945 – 1946?
8. Sự lãnh đạo của Đảng với Cách mạng 8/1945 và công cuộc xây dựng và
bảo vệ chính quyền giai đoạn 1945 – 1946? Đánh giá sự lãnh đạo của
Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ (1945 –
1946)
9. Cơ sở khoa học, nội dung và ý nghĩa thực tiễn của phương châm “kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính” giai đoạn
1946 – 1954
10. Phân tích và đánh giá cơ sở khoa học và nội dung đường lối cách mạng
Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975?Đánh giá kết quả của việc thực hiện
đường lối ở Miền Bắc và miền Nam giai đoạn 1954 – 1975
11. Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc giai đoạn 1954 – 1965.
12. Phân tích đặc trưng chủ yếu của CNH trước Đổi Mới, từ đó rút ra được ưu
và nhược điểm của mô hình này? Đánh giá hạn chế của CNH thời kỳ
trước ĐM, nguyên nhân của những hạn chế đó là gì?
13. Đánh giá được kết quả của việc thực hiện đường lối CNH, HĐH sau hơn
30 Đổi mới, rút ra ý nghĩa của đường lối?



14. Đánh giá Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực
hiện đường lối CNH,HDH sau hơn 30 năm Đổi Mới
15. Tính tất yếu của Công nghiệp hóa là gì. Quan điểm, nội dung, định hướng
CNH, HDH gắn với phát triển kinh tế tri thức là gì?
16. Định hướng của Đảng về CNH, HDH nông nghiệp nông thôn nước ta hiện
nay
17. Đặc điểm của cơ chế quản lý kinh tế Việt Nam thời kỳ trước Đổi Mới, từ đó
rút ra ưu, nhược điểm của cơ chế này?
18. Quan điểm và nhận thức mới của Đảng về kinh tế thị trường? Phân biệt
kinh tế thị trường TBCN và Kinh tế thị trường XHCN?
19. Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN? Đánh
giá kết quả, hạn chế, và nguyên nhân trong việc xây dựng và hoàn thiện
thể chế KTTT định hướng XHCN?
20. So sánh hai mô hình kinh tế thời kỳ trước Đổi mới và thời kỳ Đổi mới?
21. Vì sao thời kỳ Đổi mới, mô hình Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế tổng
quát? Cơ chế Kinh tế thị trường có tác động thế nào tới sự phát triển của
xã hội?
22. Vì sao Đảng ta chủ trương xây dựng kinh tế thị trường trong thời kỳ quá
độ lên CNXH? Chứng minh kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời
kỳ quá độ lên CNXH.
23. Mục tiêu quan điểm, chủ trương xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ ĐỔi
Mới theo tinh thần nghị quyết XII. Hạn chế và những nguyên nhân hạn chế
trong việc xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ Đổi Mới?
24. Trình bày vị trí, chức năng của đoàn thanh niên cộng sản Việt Nam trong
hệ thống chính trị?
25. Trình bày cơ cấu, vị trí, chức năng của các tổ chức trong hệ thống chính trị
XHCN ở Việt Nam hiện nay. Đánh giá kết quả và hạn chế trong hoạt động
chính trị ở nước ta và nêu một số giải pháp khắc phục, hạn chế
26. Đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa thời kỳ trước Đổi mới?

27. Quan điểm, chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hóa của Đảng thời
kỳ Đổi mới trong Nghị quyết TW9, khóa XI


28. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân của việc xây dựng nền văn hóa
thời kỳ trước Đổi mới và thời kỳ Đổi mới
29. Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hóa
30. Giải thích câu nói “hòa nhập nhưng không hòa tan” là như thế nào?
31. Bản sắc văn hóa dân tộc là gì? Trách nhiệm của chúng ta trong việc bảo
tồn và phát triển bản sắc dân tộc
32. Làm sáng tỏ quan điểm: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”
33. Chủ trương của Đảng về giải quyết vấn đề xã hội thời kỳ trước Đổi mới?
Đánh giá quá trình giải quyết các vấn đề xã hội thời kỳ trước ĐỔi mới và
thời kỳ Đổi Mới?
34. Quan điểm, chủ trương về giải quyết các vấn đề xã hội thời kỳ đổi mới?
Tìm hiểu quá trình Đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội?
35. Phân tích những tác hại của sản phẩm văn hóa phản động, lạc hậu, đồi
trụy đến đời sống xã hội. Từ đó nêu lên trách nhiệm của sinh viên trong
việc phòng chống những tác phẩm của văn hóa không lành mạnh ấy
36. Đường lối đối ngoại của nước ta từ năm 1975 đến năm 1986, đánh giá
kết quả và ý nghĩa trong việc thực hiện chủ trương Đối ngoại với các nước
thời kỳ Đổi Mới? Nêu lên những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
trong chủ trương đối ngoại thời kỳ này?
37. Nêu hoàn cảnh lịch sử, nội dung của đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế
thời kỳ Đổi Mới? Đánh giá việc thực hiện chủ trương đối ngoại với các
nước thời kỳ Đổi mới
38. Vấn đề phòng chống TNXH trong sinh viên hiện nay? Nguyên nhân và giải
pháp khắc phục

39. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc Đổi mới đất nước (1986 đến
nay)
40. Sinh viên với vấn đề hội nhập quốc tế hiện nay?
41. Sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc ĐM đất nước trên lĩnh vực ngoại
giao


Bài làm
Câu 1: Tính tất yếu của việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn
Ái Quốc?
Ngày 05 -6-1911 là một mốc đặc biệt quan trọng, không chỉ trong cuộc đời
một con người, mà còn đối với lịch sử của cả một dân tộc, đó là sự kiện người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc hướng tới phương Tây,
trước hết là nước Pháp tìm đường cứu nước.
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nền độc lập của dân tộc ta bị xâm
phạm, quyền lợi sống còn của đại bộ phận nhân dân ta bị chà đạp. Chính vì thế
mà hai mâu thuẫn cơ bản nhất: mâu thuẫn giữa một bên là toàn thể dân tộc Việt
Nam với bên kia là thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân lao
động, chủ yếu là nông dân với giai cấp phong kiến địa chủ ngày càng trở nên
gay gắt. Trong bối cảnh đó, nảy sinh một yêu cầu cấp bách: để giải quyết hai
mâu thuẫn trên, cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường nào? Phải chọn
con đường nào để cứu nước, giành lại độc lập tự do đích thực. Yêu cầu khách
quan đòi hỏi phải giải quyết là như vậy, nhưng lịch sử phong trào chống Pháp từ
những năm đầu thế kỷ XX trở về trước chưa có lời giải thỏa đáng. Các phong
trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ khắp nơi: từ phong trào Cần Vương, Văn Thân
đến cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế, từ phong trào Đông Du, Đông
Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến phong trào chống thuế ở Trung Kỳ và rất nhiều
các cuộc đấu tranh quần chúng dấy lên hết đợt này đến đợt khác nhưng tất cả
đều thất bại. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại của các
phong trào đó là do những nhà yêu nước cách mạng - những người đứng đầu

đã không nhận thức được đúng và đầy đủ những yêu cầu cấp bách của lịch sử
nước ta vào đầu thế kỷ XX, không phân tích một cách toàn diện những biến
động của xã hội Việt Nam cũng như thế giới vào thời điểm bản lề của lịch sử:
giai cấp phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến đã hết vai trò và đã quá lỗi thời,
còn giai cấp tư sản với hệ tư tưởng tư sản cũng đang tỏ ra sự yếu ớt, bất lực,
không đủ năng lực để tập hợp toàn thể dân tộc trong cuộc đấu tranh chống ách
áp bức nô dịch của chủ nghĩa thực dân, không biết gắn phong trào yêu nước


của dân tộc mình với cuộc đấu tranh của các dân tộc khác có cùng chung cảnh
ngộ bị áp bức, bóc lột và nô dịch.
Vượt qua những hạn chế trên của các bậc tiền bối, với tấm lòng yêu nước,
thương dân sâu sắc và sự trăn trở về vận mệnh dân tộc, Nguyễn Tất Thành đã
sớm nhận thấy con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng
được dân tộc. Bởi vậy, mặc dù rất kính mến, trân trọng thế hệ cha anh, nhưng
Nguyễn Tất Thành đã không thể đi theo con đường của họ. Người muốn đi tìm
một con đường cứu nước mới. Đó chính là bước ngoặt, một sự lựa chọn lịch sử
có ý nghĩa rất quan trọng, mở đầu cho quá trình tìm đường cứu nước của
Nguyễn Tất Thành.
Người không đi Trung Quốc, đi Nhật, mà ý tưởng của Người là hướng về
Tây Âu, trước hết là nước Pháp. Theo Nguyễn Tất Thành: muốn tìm được con
đường cứu nước thì trước hết phải hiểu thật đúng, thật đầy đủ về những kẻ
đang cướp nước mình. Muốn đánh đổ được chủ nghĩa thực dân để giải phóng
cho đồng bào thì trước hết phải hiểu cho được cái gốc rễ, cái bản chất của chủ
nghĩa thực dân. Sự khác biệt của Nguyễn Tất Thành so với tất cả những người
Việt Nam đi sang nước Pháp lúc bấy giờ chính là ở chỗ đó. Từ chỗ xác định rõ
động cơ, mục đích, hướng đi như vậy, Nguyễn Tất Thành đã chọn một cách đi
riêng cho mình. Trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc (1911
– 1920), có ba bước ngoặt quan trọng nhất. Một là, Người đã nhận ra hạn chế
trong đường lối cứu nước của những thế hệ trước. Các phong trào theo khuynh

hướng phong kiến mặc dù diễn ra sôi nổi song giai cấp phong kiến và hệ tư
tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải
quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam. Còn các phong trào yêu nước
và các tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản đều thất bại do hạn chế
về giai cấp, đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập trung
được rộng rãi lực lượng của dân tộc (nhất là hai lực lượng xã hội cơ bản: công
nhân và nông dân). Hai là, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần những hạn chế của
những cuộc cách mạng tư sản không tới nơi, không triệt để. Người đánh giá cao
tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng
tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp (1789)... nhưng


cũng nhận thức do những mặt tiêu cực của các cuộc cách mạng tư sản: một mặt
tạo nêu cao sự tự do, bình đẳng nhưng lại ra sức bóc lột, áp bức nhân dân các
nước thuộc địa. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư
sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói
chung hay nhân dân Việt Nam nói riêng. Ba là, Nguyễn Ái Quốc đã dứt khoát lựa
chọn con đường giải phóng nước là con đường cách mạng vô sản. Qua phân
tích, Người nhận thấy “Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mệnh Nga là đã thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do, bình đẳng thật”. Vào tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin
đăng trên báo Nhân đạo. Người tìm thấy trong Luận cương của Lenin lời giải
đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam; về vấn đề thuộc địa trong
mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới... Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp
(tháng 12 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế
Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu
bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người – từ người yêu
nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con

đường cách mạng vô sản”. Sự lựa chọn đó cũng là bước quan trọng, khẳng định
HCM đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho ND ta. Đó là con đường
giải phóng dân tộc theo CN M-Lenin, kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp công nhân, ND lao động và giải phóng toàn XH .Cốt lõi của con đường
cứu nước của HCM là độc lập, tự do gắn liền vớiCNXH -Đó là con đường cứu
nước đúng đắn nhất vì nó đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự
nghiệp giải phóng dân tộc VN và phù hợp với xu thế PT của lịch sử .
Từ đây, lịch sử cách mạng Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ đạo cách
mạng vô sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
thực dân, đế quốc, và đi tới thắng lợi cuối cùng là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. Trong thắng lợi chung đó, lịch sử dân tộc ta mãi mãi
ghi nhận công lao và vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự lựa chọn


con đường cứu nước đúng đắn - sự lựa chọn lịch sử, đáp ứng những yêu cầu,
đòi hỏi đặt ra của cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX./.
Câu 2: Phân biệt sự khác nhau giữa Luận cương chính trị và cương lĩnh tháng
2/1930
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta được thông tại Hội nghị thành lập
Đảng (từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930) ở Hương Cảng là chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo. Đến Tháng
10/1930 BCH TW lâm thời ĐCS Việt Nam họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương
Cảng quyết định đổi tên ĐCS Việt Nam thành ĐCS Đông Dương cử Trần Phú
làm Tổng bí thư và thông qua Luận cương chính trị của Đảng
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) và luận cương chính trị
(10/1930) có những điểm giống nhau và khác nhau là:
Giống nhau

Cương lĩnh chính trị

Luận cương chính trị
+ Nêu rõ CM Việt Nam trải qua hai giai đoạn: trước hết làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mang bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội
(cộng sản).
+ Đều xác định mục tiêu của CM Việt Nam (ĐD) là độc lập
dân tộc và ruộng đất dân cày.
+ Khẳng định lực lượng lãnh đạo CMVN là Đảng cộng sản mà
đội quân tiên phong là giai cấp vô sản.
+ Xác định vai trò và sức mạnh của giai cấp công nhân
+ Đều lấy chủ nghĩa Mac-Lênin làm nền tảng.
+ Khẳng định CMVN là một bộ phận của CM thế giới, phải
đứng về phía mặt trận đấu tranh của các nước thuộc địa cũng

Khác Mâu

như phong trào vô sản ở các nước đế quốc.
Toàn thể nhân dân Việt Nam
Thợ thuyền, dân cày,phần tử

nhau thuẫn

>< Thực dân Pháp

lao khổ >< Phong kiến tay sai,
tư bản Đế quốc


Nhiệm


Đặt nhiệm vụ dân tộc lên

Thực hiện nhiệm vụ giai cấp

vụ

hàng đầu sau đó làm nhiệm

sau đó làm nhiệm vụ dân tộc.

vụ giai cấp
Việt Nam hoàn toàn độc lập,

Đông Dương hoàn toàn độc

Mục

nhân dân tự do, bình đẳng,

lập đưa lại ruộng đất cho dân

tiêu

tịch thu ruộng đất của bọn đế

cày.

Lực

quốc chia cho dân cày.

Xác định lực lượng cách

Xác định động lực của cách

lượng

mạng là giai cấp công nhân

mạng là công nhân và nông

cách

và nông dân nhưng bên cạnh

dân và các phần tử lao khổ,

mạng

đó cũng phải liên minh đoàn

bỏ qua các giai cấp tư

kết với tiểu tư sản, lợi dụng

sản,tiểu tư sản và trung tiểu

hoặc trung lập Phú nông trung địa chủ…
tiểu địa chủ, tư sản dân tộc
chưa ra mặt phản cách mạng.
Phương Đấu tranh vũ trang, đấu tranh


CHủ yếu là chuẩn bị cho quần

pháp

chính trị, bạo lực quần chúng

chúng về “vũ trang bạo động

theo 3 giai đoạn:

rút còn 2 giai đoạn:

cách
mạng
Chiến
lược

-

cách
mạng

Cách mạng tư sản dân

-

Cách mạng tư sản dân

quyền


quyền (thổ địa cách

-

Thổ địa cách mạng

mạng + phản đế)

-

Tiến tới xã hội cộng
sản

-

Tiến tới cách mạng
XHCN

Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ
yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được
nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng Đông Dương, tiếp tục hướng cách mạng Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản. Tuy nhiên, Luận cương cũng có những
mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một cách dập khuôn máy móc chủ nghĩa Mác-


Lênin vào cách mạng Việt Nam, chưa xác định rõ mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
thuộc địa nên còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, không chỉ ra được vai trò
của tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, trí thức, trung nông, bộ phận địa chủ vừa và
nhỏ. Ngoài ra còn sai lầm khi thủ tiêu chính cương vắn tắt. Nguyên nhân của

những hạn chế này là do ảnh hưởng tư tưởng của phái ”tả” trong quốc tế cộng
sản. Còn Cương lĩnh chính trị tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra
phương hương cơ bản của cách mạng nước ta, phát triển từ cách mạng giải
phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận
dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế
vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam,
nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan
của lịch sử .
Câu 3: Hãy làm sáng tỏ việc ra đời và nắm quyền lãnh đạo cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam là tất yếu khách quan?
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử hào hung
nhất, oanh liệt nhất và vẻ vang nhất. Kể từ khi có Đảng, nhân dân ta đã thoát
khỏi ách nô lệ đứng lên làm chủ đất nước từ thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; tiếp đó là thành công
của công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã và
đang khẳng định được uy tín ngày càng vững chắc trên trường quốc tế.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh
tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính bước chuyển này đã làm cho
mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt. Cùng với mâu thuẫn
nội tại trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất hiện mâu
thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị
trường và khu vực ảnh hưởng. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đại
chiến thế giới lần thứ nhất (1914- 1918). Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của
cách mạng vô sản, phạm trù cách mạng thế giới chuyển sang phạm trù cách
mạng vô sản, cách mạng XHCN. Lúc này, phong trào đấu tranh của công nhân
phát triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết là phải có hệ thống lý luận khoa học với


tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân đấu tranh chống CNTB (sau

này là CNDQ). Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lê-nin
phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác Lenin. Chủ nghĩa Mác Lenin muốn giành
được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giai
cấp công nhân phải thành lập ra Đảng cộng sản. Sự ra đời của Đảng cộng sản
là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống bị
áp bức, bóc lột. Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang phát
triển mạnh mẽ, đặc biệt là khi được trang bị bởi một học thuyết cách mạng và
khoa học, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm
1917. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng mười đã cổ vũ phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc biệt là nhân dân
các nước thuộc địa. Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới,
dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đó đòi hỏi phải có
một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong trào ở tất
cả các quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã không còn vai trò tiên phong kể từ sau khi
Ăngghen qua đời năm 1895). Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập,
với khẩu hiệu "Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã đánh
dấu một giai đoạn mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. "Lần đầu
tiên trong lịch sử, quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến
đấu giữa giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống
trị thực dân".
Ở trong nước, vào năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta.
Triều đình nhà Nguyễn đã bạc nhược từng bước dâng nước ta cho thực dân
Pháp và chúng từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở nước ta. Chính sách thống
trị của chúng đã tác động đến xã hội Việt Nam trên cách lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: Giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản Việt Nam. Các giai cấp , tầng lớp trong xã hội Việt
Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở mức độ khác nhau
đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách áp bức, bóc lột ấy đã tạo ra
hai mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân



Pháp và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (nông dân) với giai cấp địa chủ.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập và tự do cho dân tộc; hai là, xóa bỏ
chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất.
Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Chính những mâu thuẩn nảy sinh trong xã hội đã thổi bùng lên xu thế giải
phóng dân tộc, chống lại sự áp bức của thực dân Pháp. Phải kể tới chính là là
phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản. Tiêu biểu như
phong trào Cần Vương (1885-1896), cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang
1884)... Nhưng kết cục chung của các phong trào, khởi nghĩa này đều là thất bại,
chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để
lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt
Nam. Song song còn có phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ
phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản. Về phương pháp có
sự phân hóa thành hai xu hướng: biện pháp bạo động (đại diện là Phan Bội
Châu) và biện pháp cải cách (nổi bật là Phan Châu Trinh). Cũng trong thời gian
này, các tổ chức đảng phái ra đời như: Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam
quốc dân Đảng... Phong trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi nhưng do hạn
chế về giai cấp, đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập
trung được rộng rãi lực lượng của dân tộc (nhất là hai lực lượng xã hội cơ bản:
công nhân và nông dân) nên cuối cùng đã không thành công. Mặc dù vậy, chính
những thất bại này đã thức tỉnh lòng yêu nước của cả dân tộc đồng thời để lại
những bài học kinh nghiệm quý giá.
Để tìm ra con đường đi mới cho cách mạng Việt Nam. Ngày 5-6-1911,
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Đặc biệt tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái
Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn dề dân tộc và vấn
đề thuộc địa cả Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Đến tháng 12 – 1920, Nguyễn Ái
Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập

Đảng Cộng sản Pháp. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đây, Người
trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng.


Người ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam thong qua những bài
đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân cùng một số
tác phẩm (tiêu biểu: Bản án chế độ thực dân Pháp – 1925). Tháng 6 – 1925,
thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. 1927, xuất bản tác phẩm Đường
cách mệnh, chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng
giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Các tổ chức cộng sản
lần lượt ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn. Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc,
phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản nhưng cả ba tổ chức này đều hoạt
động phân tán, chia rẽ, ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam
lúc này. Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc chủ trì
Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quyết và thống nhất: hợp nhất
ba tổ chức thành một đảng duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc khủng
hoảng lãnh đạo được chấm dứt, Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận
của cách mạng thế giới và đồng thời đây cũng là cơ sở cho những sự nhảy vọt
của Cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường
phát triển của dân tộc ta. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân
dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp
đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế,
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại

trong lịch sử công nhân và của cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô sản
nước ta trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng
hoảng về vai trò lãnh đạo và đường lối trong phong trào cách mạng Việt Nam.
Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp
công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản. Sự kiện thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác


định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng
cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã
nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được
tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng
diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho
đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực
lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và
hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau
này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi
của cách mạng Việt Nam trong suốt 89 năm qua
Với chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách
mạng thế giới, ĐCSVN đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế
giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng
lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự
nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và
tiến bộ xã hội.
Câu 4: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam?
Cách đây vừa tròn 90 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là sự kiện
lịch sử có ý nghĩa trọng đại, mở ra bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam,
đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và

rèn luyện. Sự ra đời của Đảng là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng,
chính trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Nhân dân
Việt Nam.
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra Cương lĩnh, đường
lối đúng đắn, xác định: Cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là


con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Trải qua 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với đường lối đúng đắn,
dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử loài người, Đảng đã tổ chức và lãnh
đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, làm nên những thành
tựu vĩ đại:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam) đã xóa bỏ chế độ thực dân, nửa phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa Xuân năm 1975,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc
tế.
Ba là, thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được trong 89 năm qua, nước ta từ một xứ
thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành

người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan
hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế
giới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong 89 năm qua đã chứng minh rằng, sự
lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng nước ta. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta không ngừng được tôi luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên
những truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng. Đó là: Bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng; Tinh thần độc lập tự


chủ và sáng tạo; Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Trung thành với lợi ích giai
cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân; Kiên định nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng; giữ gìn đoàn kết nội bộ,
đoàn kết quốc tế … Những truyền thống quý báu của Đảng là sự kế thừa và phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai
cấp công nhân quốc tế, là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là
kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh, phấn đấu không
mệt mỏi của các thế hệ đảng viên của Đảng. Những truyền thống đó có ý nghĩa
dân tộc và quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ
ngày càng được nâng cao của Đảng ta.
Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ,
đảng viên, viên chức và sinh viên Trường Đại học Nha Trang luôn tin tưởng
vững chắc vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, không ngừng thi đua học tập,
lao động sáng tạo, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây
dựng Nhà trường trở thành một cơ sở giáo dục đại học phát triển, góp phần tích
cực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục têu

dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh./.
Câu 5: Có ý kiến có rằng: “Cách mạng tháng 8 là nhờ vào sự ăn may?” Điều này
có đúng không? Giải thích
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt lớn
của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Ngày 02-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
”Tuyên ngôn Độc lập”, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của
một nhà nước mới: - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Thời gian đã lùi xa nhưng tầm vóc ý nghĩa
thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá


trị và ngày càng tỏa sáng. Đó là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử
của dân tộc ta, một dấu mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài
mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đánh giá ý nghĩa
lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao
động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân
tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch
sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi
đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc"
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn có một số người cố tình xuyên tạc, bóp méo
sự thật lịch sử nhằm phủ nhận thành quả ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng
Tám và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng: “Cách mạng
Tháng Tám là một sự ăn may”. Đây là một quan điểm sai lầm, thiển cận mà
chúng ta cần phải làm sáng tỏ bằng chính thực tiễn lịch sử sinh động của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945. Theo một số chính trị gia và học giả tư sản, từ sau
cuộc đảo chính của Nhật (ngày 09-3-1945), Việt Nam là thuộc địa của Nhật, mà
phát xít Nhật đã bị quân Đồng minh đánh bại và phải tuyên bố đầu hàng. Như

vậy, ở Việt Nam đã xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, tận dụng cơ hội này
những người Cộng sản Việt Nam đã huy động quần chúng nhân dân nổi dậy
giành chính quyền. Vậy nên, Cách mạng Tháng Tám đã nổ ra và giành thắng lợi
một cách nhanh chóng. Chính vì cách nhìn nhận thiển cận như vậy mà cho đến
nay người ta vẫn cho rằng: Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám đó là một sự ăn may. Nhưng thực ra Cách mạng Tháng Tám năm
1945 ở Việt Nam không hoàn toàn giống như những gì họ đã suy nghĩ và nhìn
nhận.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, phát xít Nhật đã bị quân Đồng minh và Liên Xô
đánh bại trong chiến tranh thế giới thứ hai. Việc phát xít Nhật đầu hàng đã tạo ra
thời cơ và điều kiện khách quan thuận lợi cho cách mạng của nhiều nước ở khu
vực châu Á trong đó có Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thắng lợi,
ngoài yếu tố khách quan thuận lợi thì cần phải nhận thức một cách đầy đủ
những điều kiện chủ quan đã đóng vai trò quyết định. Đó là, sự chuẩn bị trực
tiếp, lâu dài, chu đáo về lực lượng cách mạng để nắm lấy khi thời cơ đến và


nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền dưới sự lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã xây dựng và ngày càng
hoàn thiện về đường lối cách mạng đúng đắn, từng bước vận động, giáo dục và
tổ chức tập hợp quần chúng, qua ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 19361939, 1939-1945) như là những cuộc tổng diễn tập, chuẩn bị lực lượng. Bước
chuẩn bị đầy đủ tiếp theo và có ý nghĩa quyết định nhất là cao trào cứu nước
1939-1945. Theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng ta đã quyết định
thành lập Việt Nam độc lập đồng minh vào tháng 5-1941 (sau này là Mặt trận
Việt Minh). Việc ra đời của Mặt trận Việt Minh đã đáp ứng được nguyện vọng và
lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, vì lợi ích chung tối cao là độc lập
dân tộc, đáp ứng yêu cầu của thực tế. Như vậy, Đảng đã thực sự trở thành trung
tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên tinh thần yêu nước của các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội, bồi dưỡng và phát huy cao độ chủ nghĩa yêu

nước sức mạnh tinh thần to lớn của lực lượng chính trị trong việc chuẩn bị và
thực hiện Tổng khởi nghĩa. Cùng với lực lượng chính trị, Đảng ta đã xây dựng
được một đội quân vũ trang, là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh giành chính
quyền về tay nhân dân. Bên cạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng
chính trị, Đảng ta đã tiến hành việc chuẩn bị căn cứ cách mạng làm chỗ dựa cho
vũ trang khởi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và trực tiếp là lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc, Đảng đã chọn các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn… để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Nhờ đó, đến tháng 6-1945
trước thềm Cách mạng Tháng Tám, khu giải phóng Việt Bắc đã được thành lập
làm căn cứ địa quan trọng của cuộc Tổng khởi nghĩa, nơi đặt cơ quan chỉ huy
đầu não của lực lượng cách mạng, nơi cung cấp sức người, sức của cho cuộc
khởi nghĩa.
Để kịp đáp ứng với tình hình đang diễn ra hết sức khẩn trương, từ tháng
02-1943, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương đã quyết định thi hành một loạt
biện pháp nhằm tiếp tục mở rộng phong trào cứu quốc, phát triển lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang của quần chúng, tiến hành các cuộc khởi nghĩa
từng phần, củng cố các căn cứ địa tiến lên thành lập các chiến khu, chuẩn bị cho


một cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc để giành chính quyền... Giữa lúc phong trào
đang phát triển mạnh mẽ, nạn đói xảy ra nghiêm trọng ở các tỉnh phía Bắc làm
hơn hai triệu người chết đói, Đảng ta đã kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc
giải quyết nạn đói” đáp ứng nguyện vọng khẩn thiết, cấp bách trước sự sống còn
của nhân dân. Đây là một chủ trương đúng đắn để phát động phong trào quần
chúng của Đảng, đưa hàng triệu quần chúng từ đấu tranh cho quyền lợi kinh tế
hằng ngày đến giác ngộ về chính trị.
Ngày 09-3-1945, ngay khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung
ương Ðảng ta đã họp và ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta", trong đó nhận định: Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện
khởi nghĩa mau chín muồi. Ngay sau khi nhận được tin Nhật Bản đầu hàng, đêm

13-8, từ Tân Trào Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã phát ra Quân lệnh số 1, trong
đó nêu rõ: Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một không hai cho quân dân
Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!… Chúng ta phải hành
động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!.. Rạng
sáng 14-8-1945, Tổng bộ Việt Minh ra hiệu triệu: Trước cơ hội có một không hai
ấy, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh
đạo quân Giải phóng Việt Nam, đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do, hạnh phúc
cho nhân dân! Ngày 16-8-1945, cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân đã họp,
nhất trí cao với chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt
minh; quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam tức Chính phủ
lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau Đại hội, ngày 18-81945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa trong đó nêu rõ:
“Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng
dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến
lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên
Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, cả dân tộc ta đã nhất tề vùng dậy giành chính quyền. Ngày 17-8-1945, Xứ
ủy Bắc kỳ cùng với Thành ủy thành phố Hà Nội quyết định tổng khởi nghĩa và
giành thắng lợi vào ngày 19-8. Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội đã
cổ vũ, thúc đẩy mạnh mẽ các địa phương trong cả nước nổi dậy giành chính


quyền. Ngày 23-8, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung kỳ và tỉnh ủy Thừa Thiên
Huế, nhân dân đã nổi dậy chiếm các công sở và triều đình Huế, buộc vua Bảo
Đại phải đầu hàng, thoái vị. Ngày 25-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam
bộ, hàng triệu người của thành phố Sài Gòn xuống đường tỏa ra chiếm các vị trí
quan trọng, thành lập chính quyền cách mạng. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi ở Sài
Gòn tạo khí thế cho các tỉnh Nam bộ vùng lên giành chính quyền. Như vậy, chỉ
trong một thời gian ngắn, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân cả nước đã
nhất tề đứng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” với sức mạnh phi thường
của cả dân tộc, chúng ta đã giành chính quyền trong cả nước. Từ thực tiễn đó

cho thấy: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của nhiều
nhân tố, trong đó nhân tố bên trong là quyết định. Đó là, nhờ có sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nghệ thuật chỉ đạo và lãnh
đạo cách mạng với đường lối hết sức đúng đắn. Đó còn là sự chuẩn bị chu đáo
về xây dựng lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc
cùng với việc dự đoán chính xác về thời cơ và nắm lấy thời cơ để phát động
nhân dân đứng lên giành chính quyền… Tất cả những luận chứng khoa học trên
đây cùng với thực tiễn sinh động đã diễn ra của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 cho thấy, thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám
không phải là một sự ăn may như một số chính trị gia và học giả tư sản đã nói.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, lịch sử đã sang một trang mới,
bắt đầu của kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Toàn thế
giới đã chứng kiến sự ra đời của một nhà nước mới: Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Nhân dân Việt Nam đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ
vận mệnh của mình để xây dựng cuộc sống mới.
Câu 6: Lý giải tại sao giai đoạn 39 – 45 lại đặt nhiệm vụ GPDT lên hàng đầu? Nội
dung của sự chuyển hướng này là gì?
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời ngày 2 tháng 9 năm 1945 mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử
dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu tầm nhận thức của Đảng ta đã


vượt qua các hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập
trường phong kiến và tư sản. Nó là kết quả thực tiễn của một đường lối đúng
đắn của Đảng từ năm 1930 đã nêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Tại Hội nghị Trung ương sáu, tháng 11/1939, đánh dấu sự trưởng thành của
Đảng về tư duy chính trị và sự chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong công cuộc lãnh
đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trước sự phát triển gay gắt của những mâu
thuẫn giữa đế quốc Pháp và các dân tộc Đông Dương sau chiến tranh thế giới

thứ hai bùng nổ, Hội nghị kịp thời đưa ra những quyết định chiến lược rất quan
trọng về con đường cách mạng của các dân tộc ở Đông Dương: “Bước đường
sinh tồn của dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con
đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay
da vàng để giải phóng dân tộc”. Hội nghị đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên vị
trí hàng đầu, cách mạng ruộng đất và mọi vấn đề khác cũng phải phục vụ cho
mục tiêu cao nhất đó. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng
sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc Đông Dương trong Mặt trận thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương và Mặt trận phản đế của từng quốc gia dân tộc Việt,
Miên, Lào. Mặt trận đó là sự liên hiệp các dân tộc, các giai cấp và tầng lớp xã
hội, các đảng phái chính trị chống đế quốc Pháp và bọn tay sai của chúng, thực
hiện nền độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
Như vậy, Hội nghị đã cụ thể hóa một bước đường lối cứu nước trên tinh thần
của Cương lĩnh đầu tiên hoạch định từ khi thành lập Đảng. Đây là sự chuyển
hướng từ đấu tranh chính trị, hòa bình đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu
tranh vũ trang-bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và khởi
nghĩa vũ trang để giành chính quyền; từ hoạt động công khai hợp pháp, nửa hợp
pháp là chủ yếu chuyển sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp là chủ yếu.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu, đã đánh dấu bước chuyển quan trọng
trong chỉ đạo chiến lược của Đảng, mở đầu tiến trình trực tiếp chuẩn bị lực
lượng cho cuộc đấu tranh giành chính quyền. Những chủ trương của hội nghị
Trung ương sáu được tiếp tục bổ sung ở Hội nghị Trung ương bảy, hoàn chỉnh ở
Hội nghị Trung ương tám.


Tại Hội nghị Trung ương bảy, tháng 11/1940, sau khi phân tích tình hình thế
giới và ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới thứ Hai tới Đông Dương, Hội nghị dự
đoán: “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải chuẩn bị để
gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông
Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”. Kẻ thù chính của nhân

dân Đông Dương lúc này là phát xít Pháp-Nhật. Vì vậy, Mặt trận dân tộc thống
nhất phản đế lúc này là Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp-Nhật ở
Đông Dương. Hội nghị chủ trương, đi đôi với việc mở rộng Mặt trận phản đế,
phải lựa chọn những người hăng hái nhất trong các đoàn thể của mặt trận, tổ
chức các đội tự vệ, “trực tiếp võ trang cho dân chúng”, “tổ chức nhân dân cách
mạng quân”, tiến lên võ trang bạo động. Ngoài ra Hội nghị có những quyết định
quan trọng về khởi nghĩa Bắc Sơn, và xem xét hoản khởi nghĩa Nam Kỳ. Những
quyết định của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đánh dấu sự bổ sung chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược mà Hội nghị Trung ương sáu vạch ra, chuẩn bị điều
kiện cho khởi nghĩa võ trang giành chính quyền.
Tiếp theo xu hướng đó, Hội nghị Trung ương tám, tháng 5/1941 đã bổ sung,
kế thừa và hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Hội
nghị Trung ương sáu. Hội nghị Trung ương tám đã nhấn mạnh tầm quan trọng
của vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc. Sau khi quân Nhật vào
chiếm đóng Đông Dương. Thực dân Pháp và Phát xít Nhật cấu kết nhau áp bức,
bóc lột nhân dân làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ở Đông Dương và đế
quốc Pháp – Nhật ngày càng gay gắt. Trước tình hình đó, Hội nghị quyết định:
“Khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân
tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp- Nhật” . Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng
là phải tập hợp tối đa các giai cấp, đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước,
các tôn giáo, các dân tộc chống đế quốc Pháp-Nhật. Tất cả quyền lợi của giai
cấp đều phải được đặt dưới quyền lợi dân tộc. Trên cơ sở đó, Hội nghị nhất trí
với chủ trương của Hội nghị Trung ương sáu là tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất và chỉ mới thực hiện giảm tô, chia ruộng đất công cho nông dân.
Xuất phát từ chủ trương khơi dậy tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh vì
độc lập, tự do của từng dân tộc Việt, Miên, Lào, Hội nghị quyết định thành lập


Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất
phản đế Đông Dương và giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào thành lập Mặt trận Cao

Miên độc lập đồng minh và Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh; các hội quần
chúng đều lấy tên hội cứu quốc để thu hút rộng rãi các lực lượng yêu nước tham
gia; khi giành độc lập, sẽ xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới và thành lập
chính quyền cách mạng của chung toàn thể dân tộc không phải thuộc quyền
riêng của một giai cấp nào.
Những quyết định của Hội nghị Trung ương Đảng tại Hội nghị sáu, bảy, tám
thể hiện rõ sự chuyển hướng rất quan trọng trong việc xác định chiến lược cách
mạng, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương tám đã viết: “Cần phải thay đổi chiến
lược (Thế giới nhấn mạnh). Sự thay đổi về kinh tế, chính trị Đông Dương, sự
thay đổi thái độ, lực lượng các giai cấp Đông Dương buộc Đảng ta phải thay đổi
chính sách cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nguyện vọng chung của toàn
thể nhân dân Đông Dương, cho hợp với tình hình thay đổi, Đảng ta phải có một
chính sách cách mạng thích hợp với tình trạng ấy, mới chỉ dẫn cuộc cách mạng
đến thắng lợi chắc chắn được.” . Đó chính là từ chỗ đánh Pháp ở Hội nghị
Trung ương sáu đến Hội nghị Trung ương tám “đánh Pháp đuổi Nhật, giành
quyền độc lập cho xứ Đông Dương”
Các luận cứ trên, có thể nhận biết chủ trương từ Hội nghị Trung ương sáu
đến Hội nghị Trung ương tám là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách
mạng. Chiến lược cách mạng ngày càng được hoàn thiện với những sách lược
cách mạng mềm dẻo, thêm bạn bớt thù (như thu hút cả cai ký, đốc công, phú
nông, địa chủ chống Pháp - Nhật vào Mặt trận cứu quốc). Từ chỗ xác định kẻ thù
là chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai ở Hội nghị Trung ương sáu đến Hội nghị
Trung ương bảy, tám kẻ thù của nhân dân Đông Dương là Pháp-Nhật; Thay
khẩu hiệu "Phản đế" (của Hội nghị Trung ương sáu) hay "Phản đế cứu quốc"
(của Hội nghị Trung ương bảy) bằng khẩu hiệu "Cứu quốc". Đồng thời, Mặt trận
Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương chuyển thành ba mặt trận "cứu quốc"
của ba dân tộc Việt, Miên, Lào. Chiến lược, sách lược đó phù hợp với yêu cầu
cách mạng và nguyện vọng của quần chúng nhân dân, được cụ thể hoá trong
Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Qua nhiều con đường bí mật và



bán công khai, Chương trình thâm nhập vào đại chúng, tạo nên Cao trào tiền
khởi nghĩa rộng lớn, dẫn đến Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công.
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng như đã trình bày
phản ánh sự lĩnh hội và phát triển những luận điểm và chiến lược, sách lược
cách mạng giải phóng dân tộc và đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Từ đó có thể thấy rõ những giá trị to
lớn và quý báu của tư tưởng Người càng thêm ngời sáng qua sự kiểm nghiệm
của thực tiễn cách mạng.
Tóm lại, Hội nghị Trung ương tám, tháng 5/1941 đã phát triển, hoàn chỉnh
những chủ trương được đề ra ở Hội nghị trung ương sáu (11/1939) và bảy
(11/1940). Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 5/1941 đã phát triển sáng tạo
lý luận về cách mạng vô sản trong điều kiện công cuộc giải phóng dân tộc như
nước ta. Hội nghị Trung ương tám chủ trương đặt nhiệm vụ đấu tranh giành độc
lập lên hàng đầu, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, Đảng đã bắt mạch đúng
nguyện vọng thiêng liêng, cấp bách nhất của toàn dân tộc. Nhờ vậy, lời kêu gọi
cứu nước và những chính sách của Đảng tập hợp, đoàn kết và tổ chức quần
chúng đấu tranh nhanh chóng được nhân dân hưởng ứng và thực hiện. Mặt trận
Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc và lực lượng vũ trang kết tụ, phát huy được
sức mạnh to lớn và toàn diện của nhân dân cả nước hướng vào thực hiện mục
tiêu giành độc lập dân tộc. Cho dù trong tiến trình Cách mạng Tháng tám, kể từ
tháng 11/1939 đến Tổng khởi nghĩa, hàng ngàn, hàng vạn cán bộ, đảng viên và
quần chúng cách mạng bị địch bắt, sát hại, nhân dân ta vẫn gửi trọn niềm tin ở
sự lãnh đạo của Đảng, ra sức chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền.
Khi thời cơ Tổng khởi nghĩa xuất hiện, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, toàn dân đứng dậy khởi nghĩa theo tinh thần mang sức ta mà
tự giải phóng cho ta, đưa Cách mạng tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Câu 7: Sách lược hòa hoãn của Đảng ta trong giai đoạn 1945 – 1946?
Ngày 2/9/1945 nước VNDCCH được khai sinh, đó là một sự kiện trọng đại
có tính chất mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc. Nhưng trong bối cảnh lịch sử



lúc bấy giờ vấn đề bảo vệ và củng cố chính quyền non trẻ là hết sức gay go,
phức tạp và nan giải. Bởi vì chính Lênin - lãnh tụ thiên tài của CMTG đã từng
dạy rằng :"Giành chính quyền đã khó, giữ được chính quyền ấy còn là một việc
khó khăn gấp bội". Do đó, đối với chúng ta việc bảo vệ và củng cố chính quyền
non trẻ là cả một đường lối chiến lược quan trọng, là vấn đề trung tâm sau khi
CMT8 thành công. Nhưng bảo vệ bằng cách nào? từng khó khăn trong từng
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đó chính là vấn đề sách lược.
Với chúng ta, CMT8 thành công, ta đã giành được chính quyền. Như thế
không có nghĩa là chúng ta đã thành công trọn vẹn, bởi vì ngay từ đầu tháng
9/1945 chúng ta đã đứng trước những thử thách hiểm nghèo, ngàn cân treo sợi
tóc: thù trong giặc ngoài, tất cả cùng một lúc ồ ạt tiến công từ nhiều phía nhằm
bóp chết chính quyền non trẻ và tiêu diệt nước VNDCCH vừa mới ra đời. Giặc
đói, giặc dốt và sự khánh kiệt về ngân khố quốc gia trong khi chúng ta rất cần
tiền bạc để chi tiêu trong công cuộc đối ngoại. Những kẻ thù của CM là bọn Việt
quốc, Việt cách không chấp nhận chúng ta. Chúng nổi lên ở khắp nơi, nhất là ở
miền ngược, nhưng bao trùm và nổi bật là ở hai đầu Bắc - Nam là hai kẻ thù cực
kỳ nguy hiểm: hơn 20 vạn quân Tưởng ngông nghênh và láo xược kéo vào miền
Bắc. Chúng hạch sách đủ điều về kinh tế, chính trị, làm rối loạn thị trường, xã
hội, an ninh. Đằng sau chúng là quân Mỹ đang có mặt ở Trung Hoa; còn trong
Nam núp sau quân Anh là bọn thực dân Pháp. Tướng Lơcléc đã chỉ huy quân
Pháp tràn vào Sài Gòn và đang thương lượng với Anh để thế chân Anh. Hàng
ngàn quân Nhật còn nấn ná lại làm tay sai cho Pháp. Vì thế ngỳ 23/9/1945 quân
Pháp đã nổ súng muốn phá vòng vây Sài Gòn chiếm các vùng lân cận. Như vậy,
đất nước ta ở đâu cũng có bóng giặc, ở đâu cũng có kẻ thù, nhưng mỗi kẻ thù
có những mức độ nguy hiểm khác nhau. Chúng có thể khác nhau về màu da,
ngôn ngữ, khác nhau về phương pháp, thế trận, khác về cách tổ chức, thực
hiện... Thế nhưng có chung một điểm đó là muốn bóp chết Nhà nước Việt Nam
non trẻ ngay trong trứng nước. Giặc đói, giặc dốt và nghèo chúng ta có thể khắc

phục cả trước mắt lẫn lâu dài, và đó là công việc nội bộ vì chúng ta có nó, có biết
chữ và có một ngân khố nhất định thì mới có sức mạnh để đánh kẻ thù. Nhưng


cùng một lúc chúng ta không thể đánh cả hai: Tưởng và Pháp. Vấn đề là phải
lựa chọn và có sách lược nhân nhượng từng kẻ thù. Với ta quân Tưởng vào
miền Bắc là hợp pháp, cho nên bắt buộc chúng ta phải thoả mãn những yêu
sách của chúng về kinh tế, cung cấp lương thực thực phẩm nuôi đủ hơn 20 vạn
quân Tưởng trong khi dân ta đang chết đói đầy đường. Tệ hại hơn, chúng giúp
đỡ bọn Việt cách làm náo loạn chính trường. Tưởng đòi ta phải nhường cho bọn
tay chân 70 ghế trong Quốc hội và 4 ghế trong Chính phủ. Trong tình thế ấy,
Pháp đã chính thức đưa thêm quân vào Nam Bộ và đang mở rộng đánh chiếm
lên Nam Trung Bộ. Trước sau Pháp sẽ tiến quân ra Bắc. Tình thế đặt chúng ta
trước một sự lựa chọn hoặc cùng một lúc đánh cả Tưởng lẫn Pháp, quét chúng
ra khỏi đất nước, hoặc đánh từng kẻ thù một. Phân tích tình thế, chính phủ ta
lựa chọn giải pháp hoà Tưởng ở miền Bắc đánh Pháp ở trong Nam nhưng muốn
hoà được Tưởng thì phải nhân nhượng, phải chấp nhận những yêu sách láo
xược của chúng nhất là về chính trị. Chúng ta đã chấp nhận và khôn khéo tránh
tất cả những vụ xung đột để Tưởng không thể gây chiến tranh ở miền Bắc, vì
sức ta còn non yếu, đang tập trung lực lượng để kìm chân Pháp ở trong Nam,
trừ một điều không thể đáp ứng được đó là giải tán Chính phủ, giải tán Đảng
cộng sản, ta đã khôn ngoan đón Hà ứng Khiêm với tư cách chủ nhà có chủ
quyền với các khẩu hiệu: Việt - Hoa hữu hảo, Chính phủ HCM của người Việt
Nam, đồng thời bọn Việt cách, Việt quốc được tham gia Quốc hội, miễn là ta bảo
đảm được nguyên tắc: Đảng cộng sản lãnh đạo. Do vậy, chúng không thể phá
hoại chính phủ, cho nên chúng ta đã tập trung mọi lực lượng đánh Pháp và giam
chân chúng ở Nam Bộ, hơn nữa ta có điều kiện yên bình tương đối để khắc
phục nạn đói, nạn dốt và nghèo khổ (từng bước). Hai việc này tiến hành song
song, tranh thủ và gấp rút. Chúng ta đã phát động tiết kiệm "lá lành đùm lá rách"
để cứu vớt đồng bào bị đói. Ngay HCT cũng làm gương: 10 ngày nhịn một bữa

lấy gạo ủng hộ đồng bào nghèo, đồng thời khắc phục nhanh chóng việc sản
xuất, chống hạn hán, lũ lụt nên nạn đói dần dần bị đẩy lùi.
Phong trào "Bình dân học vụ" phát triển khắp miền Bắc: hơn 80 vạn người
đến các lớp học ban đêm, cho nên trong suốt những tháng đầu 1946 dân ta nô


×