Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai của tòa án nhân dân thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.94 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

………../………

…../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÂM HỶ NGỌC

GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH – 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

………../………

…../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


LÂM HỶ NGỌC

GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính
MÃ SỐ: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƢỢNG

TP. HỒ CHÍ MINH – 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các thông tin được trình bày trong luận văn là kết quả
thu được từ quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế của bản thân.

Tác giả luận văn

Lâm Hỷ Ngọc

i


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc tới Ban Giám đốc, Khoa sau Đại học, các thầy, cô giáo
Học viện Hành chính quốc gia đã tận tình, chu đáo giảng dạy và truyền đạt

kiến thức trong thời gian tác giả học tập, nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, xin
gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thị Phượng vì sự tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong Hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ có
những ý kiến nhận xét xác đáng, quý báu giúp tác giả có điều kiện hoàn thiện
tốt hơn những nội dung của luận văn trong tương lai.
Xin cảm ơn Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã cung cấp thông
tin và số liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu của tác giả.
Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn

Lâm Hỷ Ngọc

ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP TỈNH ..................................................................................................... 7
1.1 Khái quát chung về vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai ........... 7
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính ................................................. 7
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai .........11
1.2. Giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh .................................................................................... 15
1.2.1. Về thẩm quyền giải quyết ......................................................................15
1.2.2. Về trình tự, thủ tục giải quyết ...............................................................18
1.3. Những yếu tố tác động tới việc giải quyết vụ án hành chính trong

lĩnh vực đất đai của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ..................................... 23
1.3.1. Yếu tố pháp luật .....................................................................................23
1.3.2. Yếu tố năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức ................27
1.3.3. Yếu tố phong tục tập quán, văn hóa - xã hội ......................................29
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................... 31
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH .......................................................................................................... 33
2.1 Các yếu tố ảnh hƣởng đến giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh
vực đất đai của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ................. 33
2.1.1 Về điều kiện tự nhiên .............................................................................33
2.1.2 Về điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội .................................................33
2.2. Khái quát chung về tình hình khiếu kiện vụ án đất đai tại Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................ 34
2.2.2. Về các vụ khiếu nại đất đai ...................................................................34
iii


2.2.2. Về các vụ khiếu kiện đất đai .................................................................34
2.2.3. Tòa hành chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh .....36
2.3. Thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh..................................... 37
2.3.1. Tình hình giải quyết các vụ án hành chính ........................................37
2.3.2. Tình hình giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai ........41
2.3.3. Những đánh giá chung .........................................................................54
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................... 63
Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIẢI QUYẾT VỤ
ÁN HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................ 64
3.1. Quan điểm để giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai . 64

3.1.1. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất ............64
3.1.2. Bảm đảm tính công khai, dân chủ và minh bạch của cán bộ, công
chức Tòa án ......................................................................................................66
3.2. Giải pháp bảo đảm giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất
đai của Tòa án nhân dân ......................................................................... 67
3.2.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức Tòa án .........................67
3.2.2. Đơn giải hóa thủ tục giải quyết vụ án, coi trọng công tác hòa giải,
đối thoại nhằm khắc phục hạn chế về kinh nghiệm xét xử ........................68
3.2.3. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ............70
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về tố tụng hành chính......................................71
3.2.5. Xây dựng Tòa án chuyên trách xét xử vụ án hành chính ................73
3.2.6. Chú trọng công tác cán bộ trong giải quyết vụ án hành chính ........75
3.2.7. Nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hành chính............................75
3.2.8. Tập trung trao dồi kiến thức về pháp luật đất đai ..............................76
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................... 77
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 82
iv


DANH SÁCH CÁC BẢNG SỬ DỤNG
Bảng 1: Kết quả thụ lý và giải quyết sơ thẩm các vụ án hành chính
từ năm 2015 đến năm 2019..................................................................................38
Bảng 2: Kết quả thụ lý và giải quyết phúc thẩm các vụ án hành chính
từ năm 2015 đến năm 2019..................................................................................40
Bảng 3: Kết quả thụ lý và giải quyết sơ thẩm các vụ án hành chính
trong lĩnh vực đất đai từ năm 2015 đến năm 2019..............................................41
Bảng 4: Kết quả thụ lý và giải quyết phúc thẩm thẩm các vụ án hành
chính trong lĩnh vực đất đai từ năm 2015 đến năm 2019..................................47


v


DANH SÁCH CÁC SƠ ĐỒ SỬ DỤNG
Sơ đồ 1: Tỷ lệ giải quyết các vụ án Hành chính theo trình tự sơ thẩm của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015-2019....................................38
Sơ đồ 2: Tỷ lệ giải quyết các vụ án hành chính theo trình tự phúc thẩm của
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015-2019....................................40
Sơ đồ 3: Tỷ lệ giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai tại
Thành phố Hồ Chí Minh theo trình tự sơ thẩm từ 2015-2019.............................42
Sơ đồ 4: Tỷ lệ giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai tại
Thành phố Hồ Chí Minh theo trình tự phúc thẩm từ 2015-2019. ....................48

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Khi nước ta chuyển mình sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thì thị trường ngày càng sôi động trên tất cả các lĩnh vực, ngành
nghề trong cả nước. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các
phương diện của đời sống xã hội cũng như quá trình quản lý và sử dụng đất
đai cũng sẽ không thể tránh khỏi việc phát sinh mâu thuẫn, bất đồng giữa cá
nhân, tổ chức với tư cách là những người quản lý, sử dụng đất đai với cơ quan
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai, đó chính là tranh chấp hành
chính trong lĩnh vực đất đai. Nhà nước ta đã thiết lập con đường giải quyết
hành chính, theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện khiếu nại đến các cơ
quan quản lý nhà nước về đất đai sẽ được giải quyết theo thủ tục hành chính
theo quy định của pháp luật đất đai.
Sau khi Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1995 và Pháp lệnh thủ tục

giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 ra đời, việc giải quyết các vụ án
hành chính về đất đai còn được Toà án nhân dân thực hiện theo thủ tục tố
tụng hành chính. Tuy nhiên, sau khi Luật đất đai năm 2003 và được sửa đổi,
ban hành mới là Luật đất đai năm 2013 thì tình hình tranh chấp hành chính
trong lĩnh vực đất đai có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng, tính
chất phức tạp và gây phản ứng bức xúc của người dân, việc giải quyết vụ án
hành chính trong lĩnh vực đất đai bộc lộ nhiều bất cập.
Vậy, thực trạng giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
hiện nay như thế nào? Đâu là nguyên nhân và giải pháp khắc phục tình trạng
trên? Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Giải quyết vụ án
hành chính đối với các tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu trong chương trình cao học Luật Hiến
pháp và Luật Hành chính của mình.
1


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu và các bài viết liên quan đến
đề tài này dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên
cứu khác nhau, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khoa học như:
Trước hết là bài viết: “Bàn về khái niệm tranh chấp đất đai trong Luật
Đất đai năm 2003” của tác giả Lưu Quốc Thái đăng trên chí Khoa học pháp lý
số 2(33)/2006. Tác giả đã đưa ra khái niệm tranh chấp đất đai trong mối quan
hệ không thể tách rời với tất cả các quy định có liên quan, chứ không phải cô
lập nó hoặc đặt nó lên trên tất cả các quy định khác nhằm dẫn đến những suy
diễn không phù hợp. Có nghĩa là, không thể “trộn lẫn” tranh chấp đất đai với
những tranh chấp dân sự thuần túy có liên quan đến đất đai [21].
Một công trình nghiên cứu khoa học khác đề cập đến thực tế giải quyết
vụ án hành chính như: Luận văn “Giải quyết tranh chấp đất đai bằng con
đường Toà án ở Việt Nam” của tác giả Trần Văn Hà năm 2007. Tác giả đã

nghiên cứu những vấn đề chung về tranh chấp đất đai và giải quyết vụ án hành
chính trong lĩnh vực đất đai bằng con đường Toà án ở Việt Nam [2].
Nhằm khái quát thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai
năm 2003, tác giả Trần Văn Hà đã bảo vệ thành công Luận văn của mình năm
2009 về “Giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật đất đai năm 2003”. Tác giả
đã nghiên cứu các quy định của pháp luật đất đai năm 2003 và có so sánh với
pháp luật của các thời kỳ trước về giải quyết các vụ án trong lĩnh vực đất đai
từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện
hành trong giải quyết các vụ án trong lĩnh vực đất đai cũng như đề ra một số
các biện pháp để việc thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai đạt
hiệu quả trong thực tế [3].
Tranh chấp đất đai và giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất
đai được nghiên cứu rất nhiều ở các bài báo, tạp chí và các công trình nghiên
2


cứu khoa học liên quan khác. Trong đó có bài viết về “Giải quyết tranh chấp
đất đai bằng Tòa án qua thực tiễn tại một địa phương” của tác giả Mai Thị Tú
Oanh tại Tạp chí Nhà nước và pháp luật - Số 8/2009, Trang 51- 54 [4]; “Vướng
mắc về pháp luật liên quan đến giải pháp tranh chấp, khiếu nại về đất đai” của
tác giả Nguyễn Xuân Trọng, Trần Hoài Nam tại Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
- Số 16/2010, Trang 47 – 51 [23].
Đặc biệt trong đó phải kể đến Luận án “Tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đai bằng Tòa án ở nước ta” của tác giả Mai Thị Tú Oanh năm
2013. Tác giả nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh chấp đất
đai ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích về tranh chấp đất đai tác giả đã đưa ra
các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất
đai bằng Tòa án [13].
Nhìn chung, các công trình này chủ yếu nghiên cứu các quy định của
pháp luật có liên quan khác về giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải

quyết bằng con đường Tòa án nói riêng, từ đó có những đề xuất để hoàn thiện
những quy định của pháp luật về giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực
đất đai. Đồng thời, cũng đánh giá chất lượng và hiệu quả giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực đất đai bằng Tòa án để từ đó đề ra các biện pháp, cơ chế
bảo đảm cho việc thực thi các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực đất đai. Những công trình nghiên cứu
đã làm giàu thêm kiến thức lý luận và thực tiễn về vấn đề tranh chấp trong
lĩnh vực đất đai và giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai. Các
công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên được tiếp cận, nghiên cứu, nhận định
và đánh giá dưới nhiều khía cạnh và ở những mức độ khác nhau về những nội
dung có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến pháp luật về tranh chấp và giải
quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết vụ
án hành chính trong lĩnh vực đất đai bằng Tòa án chưa được nghiên cứu một
3


cách tổng thể dưới góc độ nhìn từ thực tiễn qua công tác giải quyết vụ án
hành chính trong lĩnh vực đất đai của ngành Tòa án nhân dân của một địa
phương cụ thể.
Luận văn với đề tài “Giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh” trên cơ sở kế thừa và phát huy
những thành công của các công trình nghiên cứu trước đó để nghiên cứu một
cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn các quy định của pháp luật giải quyết
vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai nhằm đưa ra những giải pháp hiệu quả
về của công tác giải quyết vụ án hành chính bằng Tòa án nói chung và Toà án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đồng thời, luận văn sẽ tiếp tục
nghiên cứu sâu rộng hơn những vấn đề mà các công trình nghiên cứu đã nêu
theo hướng nhằm hoàn thiện hơn các quy định trong giải quyết tranh chấp đất
đai ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1 Mục đích nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu nhằm đạt được mục đích cơ bản sau đây: Làm
sáng tỏ cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và thực tiễn của pháp luật trong giải quyết
vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai, qua đánh giá thực trạng giải quyết vụ
án hành chính của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thông qua việc
nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng
các quy định pháp luật tranh chấp đất đai hiện nay. Qua đó, phát hiện những
thiếu sót, bất cập của quy định pháp luật để từ đó đưa ra phương hướng, kiến
nghị, đề xuất cụ thể góp phần làm cho các quy định trong giải quyết vụ án
hành chính trong lĩnh vực đất đai thực sự phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Luận văn có nhiệm vụ luận giải những vấn đề lý luận chung và pháp lý
về giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai của Tòa án nhân dân
4


Thành phố Hồ Chí Minh như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, thẩm quyền trình tự,
thủ tục, cũng như các yếu tố tác động tới việc giải quyết các vụ án hành chính.
- Đánh giá thực trạng giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất
đai, pháp luật đất đai thông qua việc tìm hiểu, phân tích thực trạng giải quyết
các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai của Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đưa ra phương hướng và đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai ở
nước ta nói chung và của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là hoạt động giải quyết vụ án
hành chính trong lĩnh vực đất đai của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh tập trung vào thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải quyết để nhận diện
những mâu thuẫn, bất cập, hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân của những

hạn chế này để từ đó tìm giải pháp để khắc phục.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Trình tự thủ tục và thẩm quyền giải quyết các vụ án
hành chính trong lĩnh vực đất đai của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi giải quyết các
vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Đây là những phương pháp luận khoa học được sử dụng xuyên suốt trong
5


toàn bộ luận văn để đánh giá khách quan hệ thống pháp luật và thực tiễn trong
giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vự đất đai bằng Tòa án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản mà luận văn đặt ra, Luận
văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử.
- Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp
thống kê, phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp quy nạp, phương pháp khái quát, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn củng cố, bổ sung thêm vào hệ thống các công trình nghiên cứu
về vấn đề giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai tại Tòa án.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu nhằm góp phần cung cấp
những tư liệu về lý thuyết và thực tiễn trong việc nghiên cứu và áp dụng pháp

luật để giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai tại Tòa án cho các
nhà chuyên môn tại Tòa án cũng như các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về Luật
học, hành chính học, cho sinh viên, học viên tại các cơ sở đào tạo trong việc
nghiên cứu giải quyết vụ án hành chính liên quan tới đất đai.
7. Kết cấu của luận văn
Bao gồm phần mở đầu, nội dung luận văn, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo. Luận văn có bố cục gồm 03 chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và pháp lý về giải quyết vụ án hành chính
trong lĩnh vực đất đai của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Chƣơng 2. Thực tiễn giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Chƣơng 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hành chính
trong lĩnh vực đất đai của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1 Khái quát chung về vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính
Thực tế cho thấy, các cơ quan hành chính nhà nước thường ban hành các
quyết định hành chính, hành vi hành chính để tác động đến các cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong xã hội không phải lúc nào các cá nhân, cơ quan, tổ chức
này cũng đồng ý với các quyết định hành chính và hành vi hành chính trên vì
không phải lúc nào các quyết định hành chính và hành vi hành chính này cũng
được ban hành hợp pháp, hợp lý hoặc tuy hợp pháp, hợp lý nhưng họ cảm
thấy quyết định hành chính, hành vi hành chính gây thiệt hại đến quyền, lợi
ích của mình vì thế tranh chấp, khiếu kiện hành chính phát sinh.
Để giải quyết tranh chấp hành chính này, Nhà nước đã ban hành Luật Tố

tụng hành chính nhằm bảo đảm cho công dân, tổ chức tiếp tục thực hiện
quyền cơ bản khi các quyết định hành chính, hành vi hành chính tác động tới
quyền và lợi ích hợp pháp của họ thông qua cơ chế xét xử của Tòa án hành
chính. Theo đó, Điều 103 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 quy định như
sau: “1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi
việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu
nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết thời hạn giải
quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại mà khiếu nại không
được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý với việc giải
quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó. Cá nhân, tổ chức có quyền khởi
kiện vụ án hành chính đối với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử
lý vụ việc cạnh tranh trong trường hợp không đồng ý với quyết định đó. Cá
7


nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính về danh sách cử tri bầu cử đại biểu
Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong trường
hợp đã khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết
thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải
quyết, nhưng không đồng ý với cách giải quyết khiếu nại.” [8].
Như vậy, để một vụ án hành chính được hiểu là vụ án phát sinh
trong thực tiễn khi có các điều kiện cần và đủ sau:
- Có quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ cho rằng
quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật;
- Có hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với quyết định
hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật đó.
- Việc khởi kiện được Tòa án nhân dân thụ lý giải quyết.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa vụ án hành
chính dưới góc độ pháp lý như sau: Vụ án hành chính là vụ án phát sinh khi

và chỉ khi có tranh chấp hành chính giữa người khởi kiện và người bị khởi
kiện đối với đối tượng khởi kiện được Luật Tố tụng hành chính điều chỉnh,
được người khởi kiện khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết,
và được Tòa án thụ lý theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật đã quy định.
Tuy nhiên, để một tranh chấp hành chính trở thành vụ án hành chính, cần
phải thỏa hai điều kiện đó là: đối tượng tranh chấp và tranh chấp đó khi khởi
kiện phải được Tòa án có thẩm quyền thụ lý.
Thứ nhất, có quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ
cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật.
Thứ hai, có hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Hiện nay, về “quyền khởi kiện vụ án hành chính” đã pháp luật quy định
là người khởi kiện có thể khởi kiện thẳng ra Tòa án mà không bắt buộc phải
thông qua thủ tục giải quyết khiếu nại đối với hầu hết tất các vụ việc, trừ một
8


số ít trường hợp cụ thể. Việc quy định như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân trong việc thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính, tránh
những thủ tục rườm rà dẫn đến việc người dân có thể mất quyền khởi kiện để
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đây được xem là
bước đổi mới căn bản về điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở
nước ta, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Mở rộng thẩm
quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính” [1].
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có quyền
kiến nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự cư trú cử người giám hộ đứng ra khởi kiện
vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người đó. Quy định
như trên là hợp lý vì nếu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hành chính thì khi tiến
hành kiểm sát xét xử án hành chính, Viện kiểm sát vừa là bên bảo vệ quyền,

lợi ích của người khởi kiện, vừa là cơ quan tham gia giải quyết vụ án hành
chính. Đồng thời, Viện kiểm sát khởi kiện cũng được hiểu là một cơ quan nhà
nước kiện một cơ quan nhà nước và như vậy là không hợp lý. Thực tế, trong
gần 15 năm thực hiện Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Viện
kiểm sát chưa khởi tố một vụ án hành chính nào. Như vậy, việc khởi tố vụ án
hành chính của Viện kiểm sát nhân dân không còn là một trong những điều
kiện để phát sinh vụ án hành chính nữa.
Thứ ba, đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý giải quyết.
Khi có đơn khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức, Tòa án sẽ xem xét
các điều kiện để quyết định có thụ lý hay không thụ lý đơn khởi kiện. Cụ thể,
Tòa án sẽ xem xét về điều kiện khởi kiện vụ án, về việc nộp tiền tạm ứng án
phí, điều kiện về thẩm quyền giải quyết của tòa án. Nếu thỏa mãn đầy đủ các
điều kiện trên thì Tòa án sẽ thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật.
9


Từ khái niệm về vụ án hành chính có thể thấy vụ án hành chính gồm
những đặc điểm sau:
Một là, đối tượng trực tiếp trong vụ án hành chính là được quy định
trong quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đây là đặc điểm quan trọng
để phân biệt vụ án hành chính với các vụ án dân sự, kinh tế, lao động. Pháp
Luật tố tụng hành chính hiện nay quy định tính hợp pháp của quyết định hành
chính, hành vi hành chính là đối tượng trực tiếp trong quá trình giải quyết vụ
án hành chính. Trong đó, cơ quan nhà nước hay người có thẩm quyền trong
cơ quan nhà nước là chủ thể quản lý hành chính ban hành ra các quyết định
hành chính, hành vi hành chính trong quá trình quản lý của mình cho rằng các
quyết định và hành vi là đúng pháp luật; ngược lại các cá nhân, cơ quan, tổ
chức là đối tượng bị áp dụng các quyết định hành chính, hành vi hành chính
lại cho rằng các quyết định hay hành vi hành chính của cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước là trái pháp luật, xâm hại đến

quyền và lợi ích hợp pháp của họ và họ muốn chủ thể quản lý hành chính phải
sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, chấm dứt quyết định hành chính, hành vi hành
chính đã ban hành trước đó.
Hai là, người bị kiện trong vụ án hành chính luôn là cơ quan nhà nước
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước còn người khởi kiện là cá
nhân, tổ chức bị tác động bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Trong vụ án hành chính, người bị kiện luôn là cơ quan nhà nước hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước - chủ thể mang tính quyền lực
nhà nước, điều này xuất phát từ lý do đối tượng tranh chấp trong vụ án hành
chính như đã phân tích ở trên luôn là tính hợp hợp pháp của quyết định hành
chính, hành vi hành chính mà các quyết định, hành vi này được ban hành hoặc
được thực hiện bởi những chủ thể có thẩm quyền là cơ quan nhà nước và người
có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước (có thể là người đứng đầu cơ quan, có
10


thể là công chức hoặc người được nhà nước trao quyền) để thực hiện nhiệm vụ,
công vụ được giao để ra các quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Người khởi kiện có thể là cơ quan, có thể là tổ chức hoặc là cá nhân. Dù
là cá nhân, cơ quan hay tổ chức thì các chủ thể này có điểm chung là đều bị
tác động bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính và phải đáp ứng được
các điều kiện khởi kiện vụ án hành chính.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
1.1.2.1. Khái niệm vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
Trên thực tế chưa có khái niệm mang tính pháp lý nào về khiếu kiện vụ
án hành chính trong lĩnh vực đất đai, tuy nhiên trên cơ sở các quy định trên,
có thể hiểu rằng: Vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai là vụ án khi Tòa án
nhân dân có thẩm quyền thụ lý vụ án liên quan tới các quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai khi có căn cứ
cho rằng các quyết định hành chính, hành vi hành chính đó trái pháp luật gây

hậu quả không tốt đối với quyền và loựi ích của nhà quản lý và người sử dụng
đất khi họ khiếu kiện các quyết định, hành vi đó ra Tòa hành chính.
Như vậy, khái niệm về quyết định hành chính, hành vi hành chính trong
lĩnh vực đất đai có thể được lý giải như sau:
- Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai là quyết định bằng
văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai.
Ví dụ: quyết định giao đất, cho thuế đất, quyết định thu hồi đất hoặc quyết định
xử lý vi phạm hành chính về đất đai mà có khiếu nại hoặc bị khởi kiện ra tòa.
- Hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai là hành vi của cơ quan
hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của Luật Đất đai.
11


Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất
đai bao gồm nhiều loại khác nhau được các cơ quan hành chính nhà nước
hoặc người có thẩm quyền ban hành, thực hiện theo quy định của Luật Đất
đai. Đối với các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính có các nội
dung liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai sau đây, nếu việc khiếu kiện được
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đều thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng hành chính bao gồm:
- Quyết định hành chính về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng
dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
- Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư.
- Cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất.
Khi khiếu kiện hành chính liên quan đến các quyết định hành chính,
hành vi hành chính về quản lý nhà nước về đất đai, Tòa án sẽ căn cứ trên cơ

sở pháp luật đất đai và pháp luật có liên quan đề xem xét tính hợp pháp của
quyết định hành chính, hành vi hành chính đó.
1.1.2.2. Đặc điểm giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Tranh chấp đất đai, khiếu kiện quyết định hành chính của cơ quan nhà
nước trong lĩnh vực đất đai là hiện tượng xã hội có thể xảy ra ở mọi lúc, mọi
nơi ở những vùng miền khác nhau, khiếu kiện vụ án hành chính trong lĩnh
vực đất đai là một mảng trong khiếu kiện vụ án hành chính, nó mang đầy đủ
các đặc điểm của khiếu kiện vụ án hành chính nói chung, nhưng các đặc điểm
chỉ xoay quanh đến khiếu kiện trong vấn đề đất đai.
Vì thế giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
12


Giải quyết vụ án hành chính của Tòa án nhân dân là trình tự cách thức
thực hiện những hoạt động cụ thể của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng mà cụ thể ở đây Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án
hành chính. Thủ tục giải quyết vụ án hành chính sẽ phát sinh khi có đơn khởi
kiện từ người khởi kiện, được thụ lý bằng hành vi ghi vào sổ thụ lý vụ án của
Tòa án có thẩm quyền, Chánh án Tòa án nhân dân có thẩm quyền phân công
Thẩm phán tiếp nhận và giải quyết vụ án hành chính theo quy định của Luật
Tố tụng hành chính. Vậy, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hành
chính cũng chính là chủ thể chính thực hiện việc giải quyết vụ án hành chính.
Thứ hai, về đối tượng vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Do điểm đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở nước ta
nên đối tượng của tranh chấp đất đai chỉ giới hạn trong phạm vi tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ trong quản lý, sử dụng đất đai. Điều này có nghĩa là pháp
luật chỉ thừa nhận và giải quyết các tranh chấp về quản lý đất đai hoặc tranh

chấp về sử dụng đất đai. Các tranh chấp về quyền sở hữu đất đai như tranh
chấp đòi lại đất trước đây đã hiến, tặng cho nhà nước, tranh chấp về đòi lại
đất mà Nhà nước đã chia, cấp cho người dân trong cải cách ruộng đất, tranh
chấp đòi lại đất trước đây đã góp vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất để làm ăn
tập thể nay hợp tác xã, tập đoàn kinh tế giải thể sẽ không được thừa nhận và
không xem xét giải quyết. Như vậy, đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền
quản lý, quyền sử dụng và một số lợi ích vật chất khác phát sinh từ quyền
quản lý, sử dụng một loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các
bên tranh chấp mà thuộc sở hữu toàn dân và nhà nước là đại diện chủ sở hữu.
Thứ ba, nội dung giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai được
giải quyết thông qua nhiều đạo luật.
Do quan hệ đất đai có liên quan đến những quan hệ xã hội khác thuộc
phạm vi điều chỉnh của nhiều đạo luật như: Luật Đất đai năm 2013 [11], Bộ
13


luật Dân sự năm 2005 [16], Bộ luật Dân sự năm 2015 [17], Luật Xây dựng
năm 2014 [15], Luật Nhà ở năm 2014 [13], Luật Bảo vệ môi trường 2014
[17]… Tuy nhiên, trên thực tế, vụ án hành chính xảy ra liên quan đến nhà ở,
công trình xây dựng, cây cối và vật kiến trúc khác, nên khi giải quyết vụ án,
tòa hành chính không chỉ áp dụng Luật đất đai mà còn áp dụng các đạo luật
khác có liên quan để xem xét, giải quyết theo quy định về quản lý hoặc về
quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân hoặc hộ gia đình.
Thứ tư, giải quyết vụ án hành chính là giai đoạn rất quan trọng, quyết
định được kết quả cuối cùng của vụ án hành chính.
Có thể thấy rất rõ rằng, giai đoạn giải quyết vụ án hành chính chỉ được
bắt đầu khi và chỉ khi có vụ án hành chính phát sinh và đã được Tòa án nhân
dân có thẩm quyền thụ lý theo đúng trình tự và thủ tục. Nghĩa là, Tòa án nhân
dân có thẩm quyền phải tiến hành kiểm tra các yêu cầu, điều kiện và chỉ thụ
lý vụ án hành chính khi có đầy đủ các điều kiện, như: việc khởi kiện đáp ứng

đầy đủ các điều kiện khởi kiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính
2015 [20] (điều kiện khởi kiện cũng là điều kiện thụ lý), ngoài ra còn phải đủ
điều kiện về thủ tục khởi kiện và điều kiện về nộp tiền tạm ứng án phí. Sau
khi được thụ lý, Thẩm phán được phân công tiến hành chuẩn bị xét xử, xem
xét nội dung vụ án và đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn được quy định. Như
vậy, giai đoạn giải quyết vụ án sẽ do Tòa án nhân dân có thẩm quyền có trách
nhiệm và nghĩa vụ đảm bảo thực hiện một cách công bằng, phân xử công
minh để bảo vệ quyền lợi của các đương sự.
Thứ năm, thủ tục giải quyết vụ án hành chính được pháp luật Tố tụng
hành chính quy định.
Ngay từ Chương 1 phần Những quy định chung của Luật Tố tụng hành
chính 2015, ở đoạn 1 Điều 1 về Phạm vi điều chỉnh của Luật Tố tụng Hành
chính có quy định “Luật tố tụng hành chính quy định những nguyên tắc cơ
14


bản trong tố tụng hành chính; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người
tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; trình tự, thủ tục khởi
kiện, giải quyết vụ án hành chính, thi hành án hành chính và giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong tố tụng hành chính.” [20].
Như vậy, giải quyết vụ án hành chính là chế định thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật Tố tụng hành chính Việt Nam. Xuất phát từ bản chất và tầm
quan trọng của giải quyết vụ án hành chính trong việc xem xét, phân định tính
đúng sai của vụ án hành chính, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên đương sự, nên việc giải quyết vụ án hành chính phải được các quy
phạm pháp luật về tố tụng hành chính quy định chặt chẽ, thống nhất để đảm
bảo các trình tự ấy hoạt động hiệu quả.
1.2. Giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh

1.2.1. Về thẩm quyền giải quyết
1.2.1.1 Thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
Theo Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh
có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án hành chính trong lĩnh
vực đất đai sau đây [20]:
Một là, các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai, vụ án hành chính
liên quan đến đất đai có yếu tố nước ngoài.
Hai là, các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên
để giải quyết.
Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ khiếu kiện về đất
đai sau:

15


- Các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn
phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có
thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc
hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp
người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ
Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm
quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại khoản 1 Điều này và
quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ
quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng
phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có

nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền
giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành
chính, có hành vi hành chính.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà
nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người
có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân
dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Tòa án.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại
diện của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc của
người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên
cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện
16


không có nơi cư trú tại Việt Nam thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Căn cứ theo quy định tại Điều 203 Luật Tố tụng hành chính 2015, thì
xét xử phúc thẩm là “việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị” [20]. Như vậy, trong trường hợp đương sự hoặc người đại
diện hợp pháp của đương sự không đồng ý với kết quả của bản án sơ thẩm do
Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử, thì trong thời hạn kháng cáo, đương sự
hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng cáo bản án, quyết
định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Cần lưu ý
rằng đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự phải là người có
năng lực pháp luật tố tụng hành chính và năng lực hành vi tố tụng hành chính
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, thời hạn kháng cáo của một vụ án hành

chính cũng được quy định rõ tại Điều 206 và Điều 208 của Luật này. Tòa án
nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính khi các vụ
án hành chính đó bị kháng cáo bởi đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của
đương sự, kháng nghị bởi Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực
tiếp trong trường hợp không đồng ý với kết quả xét xử sơ thẩm của Tòa án
nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân cấp tỉnh khi thụ lý một bản
án bị kháng cáo, kháng nghị chỉ xem xét lại phần bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến nội dung
kháng cáo, kháng nghị, chứ không xét xử lại từ đầu bản án, quyết định đó.
Ngoài đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền
kháng cáo, thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có
quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải
17


×