MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt được những thành quả vô
cùng to lớn, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân, về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,
khoa học- kĩ thuật ngày càng phát triển. Riêng trong lĩnh vực kinh tế, nước ta đã đạt được
nhiều thắng lợi to lớn như: nền kinh tế trong nước ngày càng phát triển về chất và lượng,
tham gia các tổ chức quốc tế về kinh tế như WTO, tham gia giao dịch với nhiều quốc gia
trên thế giới, mở rộng giao thương trên quy mô toàn cầu.Từ đó nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế, nâng cao sức mạnh của nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm
gần đây, Nhà nước ta đã đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế với sự thừa nhận đa hình thức sở
hữu, đa hình thức kinh doanh. Với các thuộc tính: tự do, năng động, sáng tạo, nhạy bén của
nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều cơ hội, nhiều nguồn lợi cũng như thách thức cho cá
nhân, tổ chức tham gia kinh doanh, tham gia vào hoạt động của nền kinh tế thị trường đó.
Ngân sách nhà nước là nguồn vật chất quan trọng quyết định mọi hoạt động nhằm quản
lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế nước nhà. Một trong những nguồn thu chính
của ngân sách nhà nước là thuế. Mà trên lĩnh vực kinh tế thì các loại thuế là nguồn đóng góp
vô cùng lớn cho ngân sách nhà nước, các loại thuế này do các cá nhân, tổ chức kinh doanh
đóng góp. Từ những đóng góp thuế trên không chỉ ngân sách nhà nước được tăng cường mà
còn thúc đẩy phát triển kinh tế, đem lại nhiều nguồn lợi cho cả Nhà nước và nhân dân. Một
trong những loại thuế trong lĩnh vực kinh tế có lợi ích cho ngân sách nhà nước, có tính kính
thích mở rộng sản xuất kinh tế. Đó là thuế giá trị gia tăng.
Sau vài năm thực hiện luật thuế giá trị gia tăng đã đi vào cuộc sống, được đa số các
doanh nghiệp thực hiện. Với những ưu điểm của thuế giá trị gia tăng như: kích thích hoạt
động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước, bảo vệ hàng hoá trong nước, thu lợi
cho ngân sách nhà nước, loại bỏ những bất cập sơ hở của Thuế doanh thu, thuế giá trị gia
tăng khi được áp dụng vẫn không làm tăng giá cả hàng hoá đã mang lại nhiều lợi ích rất thiết
thực cho đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm nêu trên, trong quá trình thực hiện
thuế giá trị gia tăng nói chung và chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng nói riêng đã và đang
bộc lộ những khoảng hở lớn mà một số cá nhân, doanh nghiệp lợi dụng nhằm chiếm đoạt
tiền ngân sách nhà nước. Lợi dụng những vấn đề còn chưa được chặt chẽ của luật thuế giá
trị gia tăng, cơ chế hoàn thuế giá trị gia tăng cũng như trong công tác kiểm tra, giám sát của
các cơ quan chức năng, nhiều doanh nghiệp đã khai khống hồ sơ, hóa đơn chứng từ, rút tiền
ngân sách nhà nước hàng tỷ đồng. Như vậy, có thể thấy rằng ngày càng xuất hiện nhiều loại
tội phạm liên quan đến vấn đề hoàn thuế giá trị gia tăng. Nhưng trong luật pháp nước ta vẫn
chưa có một điều luật nào qui định rõ vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia
tăng, từ đó chưa tạo được cơ sơ pháp lý trong việc xử lý loại tội phạm này.
1
Với đặc điểm của một thành phố lớn, thành phố Hồ Chí Minh thu hút một lượng lớn đầu
tư của các cá nhân, doanh nghiệp. Bên cạnh những mặt ưu thế do phát triển kinh tế thì việc
quản lý, kiểm soát hoạt động kinh doanh cũng gặp nhiều vấn đề khó khăn. Tội phạm về
hoàn thuế giá trị gia tăng cũng là một trong những vấn đề phức tạp tại địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh. Từ vấn đề nêu trên có thể thấy rằng, tội phạm về hoàn thuế giá trị gia tăng ngày
càng phát triển, thủ đoạn lừa đảo để rút tiền ngân sách nhà nước ngày càng tinh vi, phức tạp,
khó lường. Pháp luật điều chỉnh lại chưa rõ ràng, đầy đủ, hợp lý và chưa đủ sức răn đe. Loại
tội phạm trong lĩnh vực này lại có hiểu biết rất rõ về qui định của pháp luật, tội phạm lại tính
tổ chức cao, có sự tiếp tay của một số cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước. Vì vậy
công tác phát hiện, đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn đối với loại tội phạm này đang gặp
nhiều khó khăn. Là một thành phố lớn, Thành phố Hồ Chí Minh cũng đang gặp phải những
vấn đề vô cùng nan giải, khó khăn trong công tác đấu tranh với loại tội phạm này.
Với tính chất nóng bỏng, thời sự của vấn đề tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia
tăng ở nước ta nói chung, ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, tác giả mạnh dạn nghiên cứu
đề tài: “Giải pháp phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia
tăng tại thành phố Hồ Chí Minh”.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu công tác phòng ngừa, đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực hoàn thuế giá trị gia tăng.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thuế giá trị gia tăng và hoàn thuế giá trị gia tăng.
- trên cơ sở vấn đề lý luận, làm rõ thực trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoàn thuế
giá trị gia tăng tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả trong công tác phòng ngừa, đấu
tranh chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng tại thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: đề tài chỉ nghiên cứu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị
gia tăng.
- Về không gian: trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và một số phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích-tổng hợp.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn.
- Phương pháp thống kê-so sánh.
6. Bố cục đề tài:
2
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài chia làm hai chương:
Chương 1: Thực trạng công tác phòng ngừa, đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Chương 2: Dự báo và một số giải pháp phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
hoàn thuế giá trị gia tăng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
3
Chương 1
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH CHỐNG VI PHẠM
PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1 Nhận thức chung về thuế giá trị gia tăng và hoàn thuế giá trị gia tăng
1.1.1 Lịch sử hình thành và một số đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
1.1.1.1 Lịch sử hình thành của thuế giá trị gia tăng
Có thể thấy rằng mọi hoạt động của Bộ máy Nhà nước đều dựa trên nguồn kinh phí
chính đó là Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước đảm bảo cung cấp cho các hoạt động
nhằm đảm bảo các hoạt động từ việc duy trì hoạt động của các cơ quan, cá nhân trong Bộ
máy Nhà nước như: trả lương, chi phí đi lại, hoạt động…cho đến sử dụng vào việc đầu tư,
kích thích những ngành nghề, địa điểm, khu vực nhằm phát triển kinh tế - xã hội.
Và thuế chính là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Có thể nói rằng Ngân sách
Nhà nước tồn tại là quyết định ở việc thu thế. Thu thuế là việc làm nhằm đảm bảo cho việc
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Vấn đề thuế và thu thuế ở nước ta luôn được
Nhà nước quan tâm trong mọi thời kì. Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề đưa ra các loại thuế
sao cho phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển đất
nước.
Trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã qui định: “ Các cơ sở sản xuất kinh doanh, thuộc mọi thành phần kinh tế phải
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài
sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên
doanh, liên kết với các cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo qui định của pháp
luật”. Từ đó có thể thấy, đóng thuế là nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia hoạt
động kinh tế. Khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình thì các tổ chức, cá nhân được Nhà
nước bảo hộ, và các tổ chức, cá nhân đó có quyền bình đẳng.
Mỗi loại thuế ra đời đều dựa trên yêu cầu khách quan của thực tế, đều mang lại lợi ích
cho Nhà nước và nhân dân. Thuế giá trị gia tăng ra đời đã có hiệu quả góp phần thúc đẩy sản
xuất, mở rộng lưu thông buôn bán hàng hóa và các ngành dịch vụ, đóng góp một phần không
nhỏ vào Ngân sách Nhà nước.
Luật thuế giá trị gia tăng được Quốc Hội khóa IX thông qua tại khóa họp thứ XI, Chủ
tịch nước công bố theo lệnh số 57/LCTN ngày 22/05/1997 và có hiệu lực thi hành ngày
01/01/1999. Ngày 14/11/1998, Bộ Chính Trị (khóa VIII) đã có Chỉ thị số 44/CT-TW về việc
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện Luật thuế mới.
Luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta ra đời là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu,
xem xét của Nhà nước cũng như là kết quả của quá trình kế thừa luật thuế của các nước tiên
4
tiến trên thế giới. Thuế giá trị gia tăng trên thế giới có quá trình lịch sử hình thành và phát
triển khá lâu dài.
Thuế giá trị gia tăng được hình thành vào khoảng giữa những thập niên 40-50 của thế kỷ
XIX ở các nước Châu Âu. Qua quá trình phát triển thuế giá trị gia tăng đã được nhiều quốc
gia trên thế giới áp dụng bởi sự khoa học và những kết quả đạt được rất cao từ việc làm này.
Hiện nay trên thế giới có trên 100 quốc gia áp dụng thuế giá trị gia tăng.
Quá trình hình thành thuế giá trị gia tăng diễn ra ở các nước Châu Âu mà cụ thể là các
nước như Anh, Pháp, Đức ở những thập niên 40-50 của thế kỷ XIX, tuy các nước này đã có
hệ thống pháp luật về thuế khá đầy đủ nhưng vẫn chưa hoàn thiện. Những loại thuế mà họ
đưa ra trong thời gian này vẫn còn những khuyết điểm, thiếu sót, bất cập. Bất cập trong việc
thu thuế của họ thể hiện ở chỗ pháp luật về thuế của các quốc gia đã không thể theo kịp sự
phát triển của kinh tế - xã hội. Các quốc gia ở Châu Âu như Anh, Pháp, Đức trong thời kỳ
đó đã có sự phát triển cao về kinh tế, nhiều hoạt động thương mại, tổ chức, phương pháp
hoạt động sản xuất, kinh doanh ra đời đã làm cho hệ thống pháp luật về thuế của các nước
này không thể đáp ứng các yêu cầu như trước. Yêu cầu tất yếu ở đây là phải có một loại thuế
mới ra đời để khắc phục các hạn chế này. Thuế giá trị gia tăng ra đời đã giải quyết được
những yêu cầu khách quan ấy. Một trong những hạn chế rất lớn của hệ thống các thuế trước
là có một số tổ chức kinh doanh bị đánh thuế trùng lặp dẫn tới sự bất bình đẳng giữa các đối
tượng chịu thuế. Thuế giá trị gia tăng ra đời đã loại bỏ được vấn đề này, đồng thời tạo hành
lang pháp lý cho các đối tượng chịu thuế có thể hoạt động một cách thoải mái trong sự quản
lý của các cơ quan chức năng.
Ở nước ta, luật thuế giá trị gia tăng được ban hành năm 1997 là một loại thuế mới, đáp
ứng các yêu cầu đó là góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hóa và dịch vụ,
khuyến khích phát triển nền kinh tế quốc dân, động viên một phần thu nhập của người tiêu
dùng vào ngân sách Nhà nước.
Có thể thấy rằng thuế giá trị gia tăng là loại thuế được hình thành có tính tất yếu do sự
thiếu sót, bất cập của các loại thuế trước đó. Thuế giá trị gia tăng được hình thành vào
khoảng thập niên 40-50 thế kỷ XIX ở một số nước ở Châu Âu và được phát triển rộng rãi
trên các nước trên thế giới nhờ tính khoa học và loại bỏ được các hạn chế của các loại thuế
trước đó. Và cũng chính vì lí do đó mà nước ta đã ban hành luật thuế giá trị gia tăng năm
1997 để thúc đẩy phát triển kinh tế, lưu thông hàng hóa.
1.1.1.2 Một số đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng được áp dụng đã mang lại nhiều lợi ích cho cả Nhà nước cũng như
các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động kinh tế. Qua quá trình áp dụng thuế giá trị gia
tăng vào trong đời sống có thể rút ra một số đặc điểm của loại thuế này như sau:
5
Một là, thuế giá trị gia tăng khắc phục được các hạn chế của một số loại thuế khác như
thuế doanh thu, việc đánh thuế trùng lặp không còn diễn ra. Chính vì vậy việc sản xuất hàng
hóa, kinh doanh, dịch vụ được phát triển.
Trước khi có thuế giá trị gia tăng ra đời thì việc áp dụng thuế doanh thu đối với các tổ
chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh tế có tình trạng là thu thuế trùng lặp, từ đó làm cho
việc hoạt động kinh doanh của các chủ thể đó gặp khó khăn và tạo sự không đồng tình từ
phía các chủ thể đó. Các chủ thể kinh doanh bị đánh thuế trùng lặp bị thiệt hại về vật chất do
phải chịu thuế nhiều lần và từ đó cũng cho thấy sự không chặt chẽ trong công việc thu thuế
của cơ quan có chức năng. Để khắc phục tình trạng đó thì thuế giá trị gia tăng ra đời. Và
chính việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đã làm cho các doanh nghiệp trong các thành phần
kinh tế hoạt động theo qui định của hệ thống kế toán, tài chính Nhà nước, thực hiện tốt việc
ghi hóa đơn mua bán hàng hóa, lập sổ sách đầy đủ giúp cho việc quản lý của Nhà nước được
tốt hơn, bên cạnh đó cũng thúc đẩy lưu thông hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Hai là, thuế giá trị gia tăng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước với
những ưu đãi về thuế, từ đó thúc đẩy việc đầu tư của các doanh nghiệp trong nước tăng. Các
doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện
đại. Đối với việc mua sắm các tài sản cố định nhằm vào việc sản xuất hàng hóa thì các
doanh nghiệp được cho khấu trừ hoặc hoàn lại thuế giá trị gia tăng đã đóng khi mua hàng
hóa đó. Đây là một điều kiện quan trọng nhằm thúc đẩy, khuyến khích các doanh nghiệp
mạnh dạn mở rộng sản xuất kinh doanh, đem lại lợi ích cho doanh nghiệp cũng như cho nền
kinh tế.
Ba là, thuế giá trị gia tăng ra đời nhưng không làm tăng giá cả hàng hóa, đó là một trong
những ưu điểm mà các thuế khác không làm được. Thuế giá trị gia tăng ra đời thay thế thuế
doanh thu đã được kết cấu trong giá thành sản phẩm. Do đó thuế giá trị gia tăng không làm
mất ổn định giá cả thị trường mà nó có tác dụng làm bình ổn giá cả thị trường.
Bốn là, tại Điều 8 khoản 1 Luật thuế giá trị gia tăng qui định mức thuế xuất đối với hàng
hóa xuất khẩu là 0% và đối với hàng hóa xuất khẩu được hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Chính từ qui định nay đã khuyến khích được các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu, tìm
kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu cũng như tăng cường việc sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
Việc thúc đẩy xuất khẩu giúp cho hàng hóa trong nước được tiêu thụ và có thể cạnh tranh
với các hàng hóa của các quốc gia khác. Khi có thuận lợi trong việc xuất khẩu thì các doanh
nghiệp sẽ thu được các nguồn lợi lớn và cũng đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng hàng hóa
của mình, từ đó công nghệ sản xuất sẽ được coi trọng, phát triển. Do vậy chất lượng hàng
hóa ngày càng được nâng cao, sức cạnh tranh ngày càng cao. Và như thế đã tăng cường sự
phát triển của nền kinh tế. Đồng thời thuế giá trị gia tăng cũng bảo hộ cho hàng hóa trong
nước do việc thu thuế đối với các hàng hóa nhập khẩu. Đây là một việc làm tốt để thúc đẩy
sản xuất hàng hóa trong nước, bảo hộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động.
6
Năm là, thuế giá trị gia tăng là một loại thuế do vậy nó đóng góp vào trong Ngân sách
Nhà nước, hay nói một cách khác là thuế giá trị gia tăng đóng vào Ngân sách Nhà nước hằng
năm. Thuế là nguồn đóng góp chính vào ngân sách nhà nước, do vậy thực hiện thu thuế giá
trị gia tăng thì tổng ngân sách nhà nước hàng năm sẽ được tăng. Và cũng chính từ việc thu
ngân sách nhà nước như vậy sẽ giúp cho việc tổ chức phối hợp thực hiện giữa cơ quan thuế
và cơ quan nhà nước khác như: Công an nhân dân, Hải quan, Quản lý thị trường được tăng
cường từ đó phát hiện, đấu tranh với buôn lậu, gian lận thương mại.
Tóm lại, thuế giá trị gia tăng với những đặc điểm của mình đã thực hiện được những yêu
cầu mà Nhà nước ta đã đề ra là: thúc đẩy đầu tư từ phía các doanh nghiệp trong nước, tăng
cường sản xuất hàng hóa xuất khẩu, bảo hộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước và
hàng hóa trong nước, khắc phục các hạn chế tồn tại của các thuế trước như thuế doanh thu…
Chính vì vậy đã phát triển được nền kinh tế trong nước đồng thời mở rộng giao lưu mua bán
hàng hóa với các thị trường trên thế giới, tạo điều kiện cho hàng hóa nước ta có vị trí và sức
cạnh tranh trên thế giới.
Nhưng thuế giá trị gia tăng ra đời không chỉ có các ưu điểm mà nó cũng mang một số
hạn chế, bất cập. Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển kinh tế thì việc thu thuế và hoàn thuế giá
trị gia tăng đang có nhiều bất cập, xuất hiện nhiều vi phạm pháp luật trong việc thực hiện
thuế giá trị gia tăng và hoàn thuế giá trị gia tăng. Trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng thì
đã và đang có nhiều vi phạm pháp luật làm thiệt hại hàng tỷ đồng ngân sách nhà nước do
chính sách kiểm tra, giám sát và thực hiện việc hoàn thuế giá trị gia tăng còn chưa chặt chẽ,
còn nhiều kẽ hở để một số kẻ lợi dụng rút tiền từ ngân sách nhà nước.
1.1.2 Quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng
Theo qui định của Điều 1 Luật thuế giá trị gia tăng thì: “ Thuế giá trị gia tăng là thuế tính
trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu
thông đến tiêu dùng”. Đây là một loại thuế được tính trên khoảng giá trị tăng thêm của hàng
hóa, dịch vụ phát sinh từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng nên doanh nghiệp đóng thuế giá
trị gia tăng chỉ phải đóng thuế một lần, tránh tình trạng hàng hóa bị thu thuế nhiều lần từ đó
doanh nghiệp đóng thuế nhiều lần và giá cả của hàng hóa tăng do lí do đó.
Và theo luật thuế giá trị gia tăng thì đối tượng chịu thuế là: Hàng hóa, dịch vụ dùng cho
sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ các
đối tượng quy định tại Điều 4 của Luật thuế giá trị gia tăng.
Qui định tại Điều 4 của Luật thuế giá trị gia tăng đó là đối tượng không thuộc diện chịu
thuế giá trị gia tăng. Luật thuế giá trị gia tăng ban hành năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung
năm 2003 quy định tại Điều 4 các đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng. Vậy
các đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng thì đó là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng ở Việt Nam trừ các đối tượng không thuộc diện chịu thuế qui định tại
điều 4 Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 sửa đổi, bổ sung năm 2003.
7
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở
kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hóa chịu thuế (gọi chung là người
nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng.
Những qui định của pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng được qui định trong luật thuế
giá trị gia tăng năm1997, sửa đổi, bổ sung năm 2003 đó là:
Có thể hiểu rằng hoàn thuế giá trị gia tăng là việc nhà nước hoàn trả lại tiền thuế giá trị
gia tăng cho các doanh nghiệp theo qui định của pháp luật. Đây là khái niệm được rút ra từ
các qui định của pháp luật Việt Nam về thuế giá trị gia tăng.
Chỉ có các trường hợp nêu trong điều 16 Luật thuế giá trị gia tăng thì doanh nghiệp mới
được hoàn thuế giá trị gia tăng. Để có thể tìm hiểu về hoàn thuế giá trị gia tăng thì cần làm
rõ các vấn đề thu thuế giá trị gia tăng.
Căn cứ và phương pháp tính thuế giá trị gia tăng:
- Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế và thuế suất. Đối với giá tính thuế giá
trị gia tăng được qui định trong điều 7 Luật thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi năm 2003:
“ Giá tính thuế giá trị gia tăng được quy định như sau:
1. Đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng;
2. Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu, cộng với thuế nhập khẩu;
3. Đối sinh các hoạt động này;
4. Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền thuê thu từng kỳ;
5. Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp là giá bán của hàng hóa, tính theo giá
bán trả một lần, không tính theo số tiền trả từng kỳ;
6. Đối với gia công hàng hóa là giá gia công;
7. Đối với hàng hóa, dịch vụ khác là giá do Chính phủ quy định;
8. Giá tính thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở
khâu sản xuất, kinh doanh trong nước là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có
thuế giá trị gia tăng; ở khâu nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng thuế nhập khẩu
(nếu có) cộng thuế tiêu thụ đặc biệt.
Giá tính thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ quy định tại Điều này bao gồm cả
khoản phụ thu và phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng.
Trường hợp đối tượng nộp thuế có doanh số mua, bán bằng ngoại tệ thì phải quy đổi
ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố
tại thời điểm phát sinh doanh số để xác định giá tính thuế”.
Và thuế suất được quy định rõ trong Điều 8 Luật thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi
năm 2003 như sau : “Mức thuế suất thuế giá trị gia tăng được quy định như sau:
1. Mức thuế suất 0% đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, kể cả hàng hóa, dịch vụ không
thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng xuất khẩu, trừ các trường hợp sau: vận tải quốc tế; hàng
hóa, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài; dịch
8
vụ tín dụng, đầu tư tài chính, đầu tư chứng khoán ra nước ngoài và sản phẩm xuất khẩu là tài
nguyên khoáng sản khai thác chưa qua chế biến do Chính phủ quy định.
2. Mức thuế suất 5% đối với hàng hoá, dịch vụ:
a) Nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt, trừ trường hợp quy định tại khoản 18 Điều
4 của Luật này;
b) Phân bón, quặng để sản xuất phân bón; thuốc trừ sâu bệnh và chất kích thích tăng
trưởng vật nuôi, cây trồng;
c) Thiết bị và dụng cụ y tế; bông và băng vệ sinh y tế; thuốc chữa bệnh, thuốc phòng
bệnh; sản phẩm hóa dược, dược liệu là nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, thuốc phòng
bệnh;
d) Giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập;
đ) In các loại sản phẩm quy định tại khoản 13 Điều 4 của Luật này, trừ in tiền;
e) Đồ chơi cho trẻ em; sách các loại, trừ sách quy định tại khoản 13 Điều 4 của Luật này;
băng từ, đĩa đã ghi hoặc chưa ghi chương trình;
g) Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, hải sản chưa qua chế biến, trừ đối tượng quy
định tại khoản 1 Điều 4 của Luật này;
h) Thực phẩm tươi sống; lâm sản chưa qua chế biến, trừ gỗ, măng và đối tượng quy định
tại khoản 1 Điều 4 của Luật này;
i) Đường; phụ phẩm trong sản xuất đường gồm gỉ đường, bã mía, bã bùn;
k) Sản phẩm bằng đay, cói, tre, nứa, lá;
l) Bông sơ chế từ bông trồng ở trong nước;
m) Thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác;
n) Dịch vụ khoa học - kỹ thuật;
o) Dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp;
p) Than đá, đất, đá, cát, sỏi;
q) Hóa chất cơ bản; sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất; khuôn đúc các loại; vật liệu nổ;
đá mài; giấy in báo; bình bơm thuốc trừ sâu; mủ cao su sơ chế; nhựa thông sơ chế; ván ép
nhân tạo; sản phẩm bê tông công nghiệp gồm dầm cầu bê tông, dầm và khung nhà bê tông,
cọc bê tông, cột điện bê tông, ống cống tròn bê tông, hộp bê tông các loại, pa-nen và các loại
cấu kiện bê tông cốt thép đúc sẵn phi tiêu chuẩn, bê tông thương phẩm; lốp và bộ săm lốp cỡ
từ 900-20 trở lên; ống thuỷ tinh trung tính; lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá;
r) Sản phẩm luyện, cán, kéo kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý, trừ vàng nhập
khẩu quy định tại khoản 25 Điều 4 của Luật này;
s) Máy xử lý dữ liệu tự động và các bộ phận, phụ tùng của máy;
t) Duy tu, sửa chữa, phục chế di tích lịch sử - văn hóa, bảo tàng, trừ trường hợp quy định
tại khoản 15 Điều 4 của Luật này;
9
u) Vận tải, bốc xếp; nạo vét luồng, lạch, cảng sông, cảng biển; hoạt động trục vớt, cứu
hộ;
v) Phát hành và chiếu phim vi-đi-ô, trừ phát hành và chiếu phim vi-đi-ô tài liệu quy định
tại khoản 10 Điều 4 của Luật này.
3. Mức thuế suất 10% đối với hàng hoá, dịch vụ:
a) Dầu mỏ, khí đốt, quặng và sản phẩm khai khoáng khác;
b) Điện thương phẩm;
c) Sản phẩm điện tử, sản phẩm cơ khí tiêu dùng, đồ điện;
d) Hóa chất, mỹ phẩm;
đ) Sợi, vải, sản phẩm may mặc, thêu ren;
e) Giấy và sản phẩm bằng giấy, trừ giấy in báo quy định tại điểm q khoản 2 Điều này;
g) Sữa, bánh, kẹo, nước giải khát và các loại thực phẩm chế biến khác;
h) Sản phẩm gốm, sứ, thủy tinh, cao su, nhựa; gỗ và sản phẩm bằng gỗ; xi măng, gạch,
ngói và vật liệu xây dựng khác;
i) Dịch vụ bưu chính, viễn thông và Internet, trừ dịch vụ bưu chính, viễn thông và
Internet phổ cập theo chương trình của Chính phủ quy định tại khoản 24 Điều 4 của Luật
này;
k) Cho thuê nhà, kho, bến bãi, nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải;
l) Dịch vụ tư vấn pháp luật;
m) Chụp ảnh, in ảnh, phóng ảnh; in băng, sang băng, cho thuê băng; quay vi-đi-ô; sao
chụp;
n) Khách sạn, du lịch, ăn uống;
o) Hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt;
p) Xây dựng, lắp đặt;
q) Vàng, bạc, đá quý, trừ vàng nhập khẩu quy định tại khoản 25 Điều 4 của Luật này;
r) Đại lý tàu biển;
s) Dịch vụ môi giới;
t) Hàng hóa, dịch vụ khác không quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.”
Từ quy định trên cho thấy đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau thì có mức thuế
suất khác nhau, phù hợp với đặc điểm của loại hàng hóa. Việc quy định như vậy cho thấy sự
khuyến khích, cũng như tạo điều kiện cho phát triển các hàng hóa thiết yếu cho việc tiêu
dùng bằng việc quy định mức thuế suất thấp đối với các mặt hàng này. Còn đối với các hàng
hóa có giá trị cao và hàng hóa, dịch vụ giải trí, trang sức…thì có mức thuế suất cao hơn.
Việc hoàn thuế giá trị gia tăng phải dựa trên các qui định về thu thuế giá trị gia tăng, khi
thu thuế giá trị gia tăng một số trường hợp nhà nước hoàn thuế để thúc đẩy, hỗ trợ doanh
nghiệp trong việc có thêm vốn để mở rộng sản xuất. Để xác định việc doanh nghiệp có được
hoàn thuế hay không phải xem xét vấn đề doanh nghiệp đó nộp thuế theo phương pháp khấu
10
trừ thuế hay phương pháp tính trực tiếp trên giá trị và đạt một số tiêu chuẩn do luật định hay
không.
Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng: gồm phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp
tính trực tiếp trên giá trị.
- Phương pháp khấu trừ thuế:
Số thuế phải nộp = thuế giá trị gia tăng đầu ra – thuế giá trị gia tăng đầu vào
Trong đó, thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ bán ra
nhân với thuế suất. Thuế giá trị gia tăng đầu vào bằng tổng số thuế giá trị gia tăng đã thanh
toán được ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế
giá trị gia tăng.
- Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng:
Số thuế phải nộp =( giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ) X (thuế suất giá trị gia tăng)
Giá trị gia tăng bằng giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra trừ giá thanh toán của
hàng hóa, dịch vụ tương ứng. Và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng chỉ áp dụng
trong một số trường hợp: Một là, cá nhân sản xuất kinh doanh và tổ chức, cá nhân nước
ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam chưa thực
hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn, chứng từ để là căn cứ tính thuế theo phương
pháp khấu trừ. Hai là, cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý.
Theo điều 16 Luật thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi năm 2003 thì: “ Việc hoàn thuế
giá trị gia tăng chỉ thực hiện trong các trường hợp sau:
1. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét
hoàn thuế hàng quý nếu số thuế đầu vào được khấu trừ của các tháng trong quý lớn hơn số
thuế đầu ra hoặc được hoàn thuế đầu vào của tài sản cố định theo điểm c khoản 1 Điều 10
của Luật này;
2. Quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản có số thuế nộp thừa;
3. Quyết định xử lý hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và
các trường hợp hoàn thuế theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập.”
Từ qui định tại điều 16 và một số văn bản hướng dẫn khác có thể rút ra các đối tượng và
trường hợp được hoàn thuế giá trị gia tăng theo qui định của pháp luật nước ta như sau:
Một là, đối với các cơ sơ kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu
trừ thuế. Nếu cơ sở kinh doanh trong ba tháng liên tục trở lên (không phân biệt niên độ kế
toán) có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết thì số thuế được được hoàn là số thuế đầu
vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế. Áp dụng cho cả cơ sở kinh doanh có
đầu tư mới và đầu tư chiều sâu. Nếu cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hóa, dịch vụ xuất
khẩu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa
được khấu trừ từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng. Trường hợp
11
trong tháng thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết bao gồm cả thuế đầu vào
của hàng hóa, dịch vụ bán trong nước thì cũng được tính vào thuế được hoàn trong tháng.
Đối với trường hợp ủy thác xuất khẩu, gia công chuyển tiếp xuất khẩu, đối tượng hoàn
thuế là cơ sở có hàng hóa ủy thác xuất khẩu, gia công chuyển tiếp xuất khẩu. Còn đối với
trường hợp gia công ủy thác thì đối tượng hoàn thuế là cơ sở trực tiếp gia công hàng hóa
xuất khẩu.
Hai là, đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mới đã đăng kí kinh doanh, đăng kí nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ thuế đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt động, chưa
phát sinh thuế đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên được xét hoàn thuế giá trị gia
tăng đầu vào theo từng năm. Số thuế giá trị gia tăng đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có
giá trị lớn hơn 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế từng quý. Trong trường hợp
thuế đầu vào doanh nghiệp tổng hợp từng quý lớn hơn 200 triệu đồng thì doanh nghiệp có
thể đề nghị hoàn thuế từng tháng.
Ba là, đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
thuế có dự án đầu tư của cơ sở sản xuất đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt động,
chưa đăng kí kinh doanh, đăng kí nộp thuế có số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ
sử dụng cho dự án đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên được xét hoàn theo quý. Cơ sở kinh
doanh phải kê khai, lập hồ sơ hoàn thuế riêng cho dự án đầu tư.
Bốn là, cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sát nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá
sản, chuyển đổi sở hữu; giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước có thuế giá trị gia
tăng nộp thừa, số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa khấu trừ hết.
Năm là, cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của của cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.
Sáu là, việc hoàn thuế giá trị gia tăng đã trả đối với các dự án sử dụng vốn ODA như
sau:
+ Chủ dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại, dự án sử dụng vốn ODA vay hoặc vốn
ODA hỗn hợp thuộc đối tượng được ngân sách nhà nước đầu tư không hoàn trả toàn bộ hoặc
một phần được hoàn thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho dự án.
Số thuế giá trị gia tăng được hoàn là số thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng
của hàng hóa, dịch vụ mua vào.
+ Trường hợp chủ dự án nêu trên không được Ngân sách nhà nước bố trí vốn đối ứng để
thanh toán tiền thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho dự án; chủ
dự án giao thầu cho các nhà thầu chính thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo
phương pháp khấu trừ thuế cung cấp các hàng hóa, dịch vụ theo giá không có thuế giá trị gia
tăng, thì nhà thầu được tính khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa dịch vụ
cung cấp cho dự án.
12
Bảy là, tổ chức Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của tổ
chức, cá nhân nước ngoài để mua hàng hóa tại Việt Nam để viện trợ thì được hoàn lại tiền
thuế giá trị gia tăng đã ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng khi mua hàng.
Điều kiện để các cơ sở kinh doanh, tổ chức thuộc đối tượng được hoàn thuế nêu trên
phải là đối tượng đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (giấy phép đầu tư) có
con dấu, lưu trữ sổ sách, chứng từ kế toán theo chế độ quy định và có tài khoản tiền gửi tại
ngân hàng.
Các trường hợp cơ sở kinh doanh đã lập hồ sơ đề nghị hoàn thuế, thì không được kết
chuyển số thuế đầu vào đã đề nghị hoàn thuế vào số thuế được khấu trừ của tháng tiếp sau
thời gian đã lập hồ sơ hoàn thuế. Trong trường hợp tháng trước thời gian xin hoàn thuế cơ sơ
có số thuế giá trị gia tăng nộp thừa thì cơ sở được tính cộng thuế giá trị gia tăng nộp thừa
vào số thuế giá trị gia tăng đề nghị hoàn trong kỳ, trường hợp cơ sở có số thuế nộp thiếu thì
phải nộp đủ số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước trước khi được hoàn thuế.
Tám là, đối tượng được hưởng ưu đãi miễn trừ ngoại giao theo Pháp lệnh ưu đãi miễn
trừ ngoại giao mua hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam được hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đã
ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng. Cơ sở kinh doanh tại Việt Nam bán hàng hóa, dịch vụ cho
các đối tượng này khi lập hóa đơn giá trị gia tăng vẫn phải tính thuế giá trị gia tăng. Đối
tượng, hàng hóa, dịch vụ, thủ tục, hồ sơ hoàn thuế cho đối tượng này theo hướng dẫn tại
Thông tư số 08/2003/TT- BTC ngày 15/1/2003.
1.2 Tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh
1.2.1 Một số dạng vi phạm trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng ban hành năm 1997 và đã được sửa đổi bổ sung năm 2003, với
những ưu điểm của mình thuế giá trị gia tăng đã đi vào đời sống, tạo nhiều lợi ích cho cá
nhân, tổ chức tham gia kinh doanh cũng như mang lại lợi ích cho Nhà nước ta. Những ưu
điểm đó thể hiện rõ trong việc tăng nguồn thu ngân sách nhà nước; thúc đẩy, khuyến khích
xuất khẩu trong nước, bảo hộ hàng trong nước, thay thế thuế doanh thu…Từ đó mang lại lợi
ích thiết thực cho doanh nghiệp. Sau 11 năm thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng, bên cạnh
những ưu điểm mà nó mang lại thì khuyết điểm, hậu quả nghiêm trọng cho kinh tế xã hội do
việc vi phạm trong việc thực hiện thuế giá trị gia tăng cũng phát sinh và ngày càng tăng. Khi
thực hiện các qui định của thuế giá trị gia tăng thì có một số doanh nghiệp thực hiện một
cách nghiêm túc, đóng thuế và thực hiện các nghĩa vụ, quyền đúng theo qui định nhưng cũng
có một số doanh nghiệp đã lợi dụng một số sơ hở trong qui định của luật từ đó thực hiện các
hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng. Trong đó việc lợi dụng những qui định
thông thoáng của Luật doanh nghiệp trong việc đăng ký, quản lý, kiểm soát doanh nghiệp để
thành lập các công ty “ma” ; mua bán hóa đơn giá trị gia tăng; ghi khống giá mua bán trên
hóa đơn giá trị gia tăng…Từ đó chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng từ ngân sách nhà
13
nước theo qui định của thuế giá trị gia tăng đang nổi lên một cách nghiêm trọng, ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố có tốc độ phát triển kinh tế nhanh của nước ta,
là trung tâm kinh tế, thương mại lớn. Trong những năm gần đây thành phố đang phát triển
mạnh về công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì thế sự thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài
nước đến đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tăng. Có thể nói, hằng năm thành
phố Hồ Chí Minh là nơi có số lượng doanh nghiệp đăng kí kinh doanh, dịch vụ, đóng thuế
và hoàn thuế lớn nhất cả nước. Là một thành phố có diện tích lớn, nhiều quận, huyện nên
công tác quản lý các doanh nghiệp trong địa bàn thành phố đang có nhiều vấn đề bất cập,
hay nói một cách khác công tác quản lý đối với các doanh nghiệp là rất phức tạp. Và cũng
chính do nguyên nhân này mà hoạt động vi phạm pháp luật trong việc thực hiện thuế giá trị
gia tăng, đặc biệt là hoàn thuế giá trị gia tăng ngày càng tăng mà chưa thể kiểm soát một
cách chặt chẽ. Chính từ vấn đề trên, có thể khẳng định rằng thành phố Hồ Chí Minh là điểm
nóng trong việc thực hiện thuế giá trị gia tăng, trong đó việc hoàn thuế giá trị gia tăng là vấn
đề đáng chú ý.
Qua quá trình nghiên cứu về các hoạt động vi phạm pháp luật trong việc hoàn thuế giá trị
gia tăng có thể rút ra một số dạng vi phạm như sau:
1.2.1.1 Thành lập doanh nghiệp để lừa đảo chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng
Pháp luật nước ta về doanh nghiệp qui định các điều kiện để thành lập doanh nghiệp rất
thuận lợi cho các cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp. Và đi kèm với đó là việc gia tăng
tình trạng doanh nghiệp lừa đảo hoàn thuế.
Liên tiếp nhiều vụ việc mua bán hoá đơn giá trị gia tăng, lừa đảo hoàn thuế của doanh
nghiệp bị cơ quan chức năng thành phố Hồ Chí Minh phát hiện, xử lý đã cho thấy tình hình
đang gia tăng theo chiều hướng phức tạp.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh vừa khởi tố vụ án “Cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Lưu hành giấy
tờ có giá giả”, xảy ra tại Công ty cổ phần Dược liệu Trung ương 2. Theo kết luận điều tra,
trong quá trình nhận hàng hóa từ cảng và sân bay về kho bãi của mình, ngoài những khoản
chi chính thức có hóa đơn, chứng từ, lãnh đạo Công ty còn cho phép nhân viên giao nhận chi
các khoản sai quy định như: bồi dưỡng bốc xếp, nâng hàng, cẩu hàng, trà nước cho nhân
viên hải quan (còn gọi là phí bôi trơn), với tổng số tiền gần 1,8 tỷ đồng.
Để hợp thức hóa các khoản chi bất hợp lý này, Hoàng Thế Tân (Tổng giám đốc) và Lê
Tất Tuận (Kế toán trưởng) Công ty cổ phần Dược liệu Trung ương 2 đã cho phép nhân viên
mua hóa đơn giá trị gia tăng khống và kê thêm tiền vào hóa đơn giá trị gia tăng vận chuyển
của Công ty Dịch vụ Vận tải Tiến Hưng và Doanh nghiệp Tư nhân Khả Di. Cụ thể, hai
Doanh nghiệp vận tải này đã xuất cho Công ty cổ phần Dược liệu Trung ương 2 tất cả 440 tờ
hóa đơn giá trị gia tăng có giá trị thanh toán gần 3 tỷ đồng.
14
Không những thế, Hoàng Thế Tân còn trực tiếp chỉ đạo các nhân viên mua khống hóa
đơn giá trị gia tăng để rút khoảng 288 triệu đồng tiền của Nhà nước và chỉ đạo Lê Tất Tuận
chi sai nguyên tắc số tiền nói trên; cho phép nhân viên cấp dưới kê thêm 1,9 tỷ đồng vào hoá
đơn giá trị gia tăng để hợp thức hóa một khoản tiền lớn đã chi ngoài sổ sách. Ngoài ra, ông
Tân còn cố ý làm trái trong việc theo dõi thực hiện hợp đồng làm dịch vụ thuê đất làm kho
bãi, gây thiệt hại cho Công ty cổ phần Dược liệu Trung ương 2 số tiền 280 triệu đồng.
Trước đó, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh cũng đã bắt tạm
giam đối với Lê Hoàng Minh, Giám đốc Công ty cổ phần Tư vấn Thương mại Dịch vụ &
Xuất nhập khẩu Tân Gia Hào về hành vi mua bán hoá đơn giá trị gia tăng khống. Theo đó,
trong quá trình điều hành doanh nghiệp, ông Minh đã mua tổng cộng 123 hoá đơn giá trị gia
tăng của các công ty đóng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, trong đó gồm: Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Thương Mại Huỳnh Xuân và Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Xuất nhập khẩu Hà Xuân Hải (quận 3), Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hà Ngọc Khánh và
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Minh Trường (quận Bình Thạnh) và Doanh nghiệp tư nhân
Cẩm Vân (quận Tân Bình).
Theo cơ quan điều tra, các công ty trên cùng với 14 doanh nghiệp khác đóng trên địa bàn
đã xuất khống hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tân Gia Hào với
tổng giá trị thanh toán hơn 17 tỷ đồng. Nhưng hiện các công ty này đã giải tán, vì mục đích
chính của việc thành lập các pháp nhân này cũng chỉ để… mua bán hoá đơn giá trị gia tăng
khống.
Còn sau đây là một số trường hợp lập hồ sơ giả để được hoàn thuế. Công ty Trách nhiệm
hữu hạn Tân Hải Phát (quận Bình Thạnh) do Nguyễn Thị Thịnh và Phạm Văn Diễn sử dụng
tên giả để thành lập, chỉ với mục đích mua bán hóa đơn giá trị gia tăng, ghi khống nội dung
bán hàng trên 287 tờ hóa đơn giá trị gia tăng với tổng trị giá hơn 65,9 tỷ đồng (thuế giá trị
gia tăng hơn 4 tỷ đồng) xuất bán cho nhiều đơn vị, cá nhân. Để hợp thức hóa đầu vào cho
các hóa đơn khống này, công ty Trách nhiệm hữu hạn Tân Hải Phát đã sử dụng 158 hóa đơn
giá trị gia tăng của 22 công ty khác nhau, đồng thời Nguyễn Thị Thịnh và Phạm Văn Diễn
đã ký lập hàng loạt hồ sơ báo cáo thuế giả tạo, nhằm hợp thức hóa hành vi sai phạm của
mình.
Ngoài ra, ông Diễn và bà Thịnh còn cung cấp cho Huỳnh Đức Huy (Giám đốc) và Võ
Hữu Phương (Kế toán trưởng) Công ty Thương mại - Sản xuất May mặc Nguyễn Hữu
Hoàng tất cả 12 tờ hóa đơn giá trị gia tăng khống, để Công ty này hợp thức hóa hàng mua
trôi nổi nhằm đưa vào kê khai khấu trừ thuế và trốn thuế hơn 733 triệu đồng; giúp Trần Thị
Thu Huyền (Trưởng chi nhánh Doanh nghiệp Tư nhân Ngọc Thảo) sử dụng 46 tờ hóa đơn
giá trị gia tăng ghi khống có trị giá hơn 12 tỷ đồng để kê khai trốn thuế gần 922 triệu đồng
và nhiều vụ việc khác.
15
Đáng chú ý, trong thời gian qua, tại Cục Thuế thành phố Hồ Chí minh đã xuất hiện việc
một số doanh nghiệp lập hồ sơ xuất khẩu khống để được hoàn thuế. Điển hình là trường hợp
của Công ty cổ phần Nam Việt (Navico) do Phạm Đại Tự làm giám đốc và Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Sản xuất - Thương mại Tuấn Thành (do Đặng Văn Lĩnh làm giám đốc). Hai
công ty này đã phối hợp với một số đối tượng khác để lập hợp đồng bán hàng, bill tàu,
packing list… “ma”, đồng thời sử dụng các bộ hồ sơ đã xuất hàng may mặc đi Nga, Ba Lan
của một số doanh nghiệp khác, nhằm hợp thức hóa hồ sơ cho mình. Sau đó, Navico xuất hoá
đơn bán hàng theo hợp đồng ngoại thương để làm hồ sơ đầu ra.
Theo thỏa thuận, các hợp đồng xuất hàng khống sau khi đã hoàn thành, Navico có trách
nhiệm lập hồ sơ hoàn thuế tại Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh, số tiền hoàn thuế nhận
được sẽ chia theo tỷ lệ 4/6, trong đó Navico được hưởng 40% và Công ty Tuấn Thành được
60%. Để hoàn tất các bộ hồ sơ xuất khẩu giả này, Phạm Đại Tự và Đặng Văn Lĩnh đã nhờ
Nguyễn Văn Dũng (ngụ tại 38/2A khu phố 3, phường Trung Mỹ Tây, quận 12, thành phố Hồ
Chí Minh) đứng tên giả mạo 2 công ty nước ngoài để ký các hợp đồng ngoại thương, mở tài
khoản ngoại tệ tại ngân hàng và chuyển tiền vào tài khoản này. Cứ sau mỗi hợp đồng thực
hiện xong, Nguyễn Văn Dũng sẽ tiến hành làm thủ tục chuyển khoản “thanh toán tiền mua
hàng” cho Navico.
Với “thủ thuật' nêu trên, Phạm Đại Tự, Đặng Văn Lĩnh và Nguyễn Văn Dũng đã cùng
nhau lập ra được 4 hợp đồng xuất khẩu khống, với nội dung xuất hàng hóa sang Nga và Ba
Lan, có tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu gần 8 tỷ đồng và đã xin hoàn thuế trót lọt với số
tiền hơn 766 triệu đồng để chia nhau. Nhưng đến bộ hồ sơ xin hoàn thuế gần đây thì Navico
và các “đối tác” của mình đã bị cơ quan thuế phát hiện và bị cơ quan chức năng thành phố
Hồ Chí Minh… “sờ gáy”.
Theo một quan chức của Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh, hành vi vi phạm pháp luật
về thuế của các đối tượng nêu trên ngày càng liều lĩnh và tinh vi. Đơn cử là trường hợp của
Phạm Đại Tự và Đặng Văn Lĩnh, thủ đoạn của hai bị cáo này đã khiến cơ quan thuế phải
mất gần một năm mới nhận diện được dấu hiệu vi phạm, sau đó cơ quan điều tra cũng phải
mất thêm 3 năm mới có kết luận cuối cùng. Qua vụ việc này cho thấy, cơ quan thuế cũng
cần được tăng cường lực lượng và nghiệp vụ để đủ khả năng đấu tranh phòng, chống các
hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng.
Theo nghiên cứu các vụ án ở trên thì bằng thủ đoạn tinh vi một số cá nhân đã lợi dụng sự
thông thoáng của pháp luật về doanh nghiệp nhằm thành lập các doanh nghiệp nhằm có cơ
sở cho việc mua bán hoá đơn giá trị gia tăng. Với đặc điểm hoạt động rất tinh vi, trốn tránh
sự quản lý của cơ quan chức năng nên các doanh nghiệp này đã nhiều lần thực hiện các hành
vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng.
16
Đó là một số trường hợp diễn ra trong thời gian vừa qua về tình trạng thành lập doanh
nghiệp để lừa đảo chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh đã bị phát hiện và xử lý trước pháp luật.
1.2.1.2 Tình trạng mua, bán hóa đơn giá trị gia tăng, kê khống hàng hóa xuất khẩu xảy ra ở
nhiều doanh nghiệp
Từ sau khi Luật thuế giá trị gia tăng được áp dụng, xuất hiện loại tội phạm chiếm đoạt
tiền của Nhà nước qua việc hoàn thuế. Một trong những thủ đoạn để moi tiền Nhà nước là
việc thành lập doanh nghiệp để… mua bán hóa đơn.
Sáu tháng đầu năm 2001, Cục Cảnh sát kinh tế (Bộ Công an) đã phát hiện, điều tra, khởi
tố 97 vụ lập khống hồ sơ hoàn thuế với tổng trị giá hàng chục tỷ đồng. Hiện tượng chiếm
đoạt tiền hoàn thuế xuất hiện tập trung ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Hải
Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu và các tỉnh có cửa khẩu xuất khẩu hàng hóa.
Thời gian vừa qua, Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã liên tục ra các
quyết định truy tố nhiều nhóm tội phạm chiếm đoạt hàng tỷ đồng tiền thuế giá trị gia tăng
của Nhà nước. Đây là loại tội phạm hoạt động có tổ chức trên nhiều địa phương, với những
thủ đoạn tinh vi.
Gần đây nhất, cơ quan chức năng đã truy tố doanh nghiệp tư nhân Kiều Phương vì đã lợi
dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng.
Với tư cách là Phó giám đốc của Kiều Phương, Dương Quang Trí đã móc nối với Phạm
Minh Nhật (cán bộ Phòng Xuất nhập khẩu Sài Gòn Coop) và Hoàng Văn Vinh (Trưởng
phòng kế hoạch kinh doanh Công ty Bách hóa điện máy) để “làm ăn”. Hai bên thoả thuận,
Trí và Nhật “gom” hàng “quý hiếm” như cá ngựa, nấm linh chi, bạch tuộc khô..., phía Công
ty Bách hóa điện máy lo thủ tục xuất khẩu.
Nhóm tội phạm này thiết lập quan hệ tại cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn) để làm thủ tục
xuất hàng. Trên giấy tờ, với 10 hợp đồng kèm 71 tờ khai hải quan ở các cửa khẩu phía Bắc,
cùng với 81 hóa đơn giá trị gia tăng, Công ty Bách hóa điện máy đã xuất bán cho 3 doanh
nghiệp Trung Quốc 1.022 tấn hàng quý hiếm. Về hồ sơ đầu vào, nhóm này móc nối với 19
doanh nghiệp trong nước cấp hợp đồng, hóa đơn giá trị gia tăng để cân bằng lượng hàng thu
mua và lượng hàng xuất. Từ đây, chúng lập hồ sơ đề nghị và được Cục thuế thành phố Hồ
Chí Minh hoàn 8,05 tỷ đồng.
Trước đó, Dương Quang Trí cùng vợ là Phạm Thị Kiều Phương cũng liên kết với một số
cán bộ tại Công ty Xuất nhập khẩu Hà Nội (Simex) xuất khống 14 hóa đơn giá trị gia tăng
chứng nhận là đã bán 352 tấn mực khô cho Công ty Simex. Sau đó, vợ chồng Trí kê khai
khống tiền khấu trừ thuế đầu vào và chiếm đoạt trên 2,5 tỷ đồng. Với hành vi trên, vợ chồng
Trí bị truy tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Toà án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã
phạt Trí 15 năm, Phương 9 năm tù giam.
17
Cũng với cách “làm ăn” trên, chủ cơ sở kinh doanh nông hải sản Việt Hưng và Nam
Hưng, Đặng Văn Tỷ Em đã “bắt tay” với một số giám đốc, phó giám đốc các đơn vị như:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đông Huy, Chi nhánh Công ty Thiết bị Vật tư Du lịch tại
thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ Thiết kế Tạo
mẫu S.T.A... để hợp thức hóa các chứng từ khống trong việc mua bán hàng hải sản chiếm
đoạt của Nhà nước gần 3 tỷ đồng tiền hoàn thuế giá trị gia tăng.
Một luật sư thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, chính sách hoàn thuế
là cần thiết nhưng còn tràn lan về đối tượng và mặt hàng, cơ chế tổ chức thiếu chặt chẽ, dễ
bị lợi dụng nhất là trong khâu thuế và hải quan.
Năm 1999, lợi dụng chính sách của Nhà nước, Lê Thị Thuý Vinh đã bàn bạc với Nguyễn
Hùng Phong thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Anh Phong do Phong đứng tên
làm giám đốc. Mục đích là mua bán hoá đơn giá trị gia tăng ghi khống giá trị hàng hóa để
thu lợi. Theo đó, hoá đơn giá trị gia tăng ghi khống bán cho các doanh nghiệp và cá nhân
nếu có thuế xuất 10%, "bộ đôi" này thu 5%, nếu thuế xuất 5% thì phí 2,5% trên giá trị hoá
đơn. Để tạo hoá đơn đầu vào, Phong và Vinh còn thành lập nhiều công ty khác như: Công ty
trách nhiệm hữu hạn Quốc Khánh, Hà Anh, Vinh Phong và thuê người làm giám đốc, ký
giấy tờ, trả lương 600 ngàn/tháng .
Từ tháng 4/1999 đến tháng 5/2002, Phong và Vinh đã ghi khống 1.192 tờ hoá đơn có
tổng giá trị hàng hoá trên 80 tỉ đồng, bán cho các khách hàng có nhu cầu và xuất cho các
công ty nội bộ hợp thức hoá đầu vào. Họ đã thu lợi gần 830 triệu đồng mỗi người.
Đóng vai trò giúp sức là các "mối" tiêu thụ hoá đơn cho Phong, Vinh gồm có Lâm Phát
Tài (hành nghề mua bán) đã mua 30 tờ hoá đơn ghi khống hàng hoá trên 1,9 tỉ đồng để hợp
thức hoá hàng hoá mua trôi nổi cung cấp cho Công ty Bột mỳ Bình Đông, hưởng lợi trên 31
triệu đồng. Dương Kim Phát (tự A lỉn, nguyên Giám đốc công ty Viễn Thông Liên Phát)
cũng đã mua của chuỗi công ty ma này 124 tờ hoá đơn. Nguyễn Thị Hương Giang “tiêu thụ”
150 tờ hoá đơn để hợp thức hoá hàng mua trôi nổi cung cấp cho 8 doanh nghiệp trong thành
phố và các tỉnh.
Các trường hợp nêu trên đã cho thấy được tình trạng mua bán hóa đơn giá trị gia tăng
diễn ra trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hết sức phức tạp. Đây chỉ là các trường hợp đã
bị phát hiện, còn nhiều vụ việc khác chưa bị phát hiện và xử lý trước pháp luật.
1.2.1.3 Ghi giá mua, bán trên hóa đơn giá trị gia tăng không đúng với giá thực tế ( gian lận
qua giá)
Theo tình hình hiện nay qua các vụ việc đã phát hiện, điều tra cho thấy phần lớn số hàng
hóa mua bán đều được ghi tăng giá trị lên nhiều lần, thậm chí có những mặt hàng được ghi
tăng giá lên hàng chục lần so với giá mua bán trên thị trường nhằm khai tăng giá trị đầu vào
của hàng hóa để được hoàn thuế nhiều hơn. Ví dụ 150 USD/ 1kg mực khô; 80 cent/ 1 quả
dừa, 20.000 đồng/ 1kg thanh long…
18
Bằng những cách thức như trên doanh nghiệp đã làm tăng số giá trị hàng hóa đầu vào
của doanh nghiệp mình khi thu mua hàng hóa. Và như thế khi tính toán các hồ sơ hoàn thuế
thì lượng tiền chênh lệch so với thực tế sẽ thuộc về doanh nghiệp. Đây là một trong ba dạng
vi phạm của doanh nghiệp trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng.
Trên cơ sở nghiên cứu các vụ án bị phát hiện trong thời gian vừa qua thấy rằng, đây là
một số dạng vi phạm pháp luật xảy ra phổ biến trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng. Để
hiểu rõ hơn hoạt động vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng, cần thiết
phải tìm hiểu thủ đoạn hoạt động của loại tội phạm này.
1.2.2 Một số thủ đoạn hoạt động vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia
tăng
Đứng trước diễn biến tình hình ngày càng phức tạp về những hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng, các cơ quan chức năng đã có nhiều cuộc điều tra,
nghiên cứu, nắm tình hình thực tế về vấn đề hoàn thuế giá trị gia tăng và những vấn đề khác
có liên quan. Hiện nay việc vi phạm pháp luật ở lĩnh vực này ngày càng tăng nhanh về số
lượng cũng như tính chất phương thức hoạt động của các đối tượng ngày càng tinh vi, phức
tạp, xảo quyệt. Để qua mặt các cơ quan thuế một số cá nhân, tổ chức trong doanh nghiệp đã
lợi dụng những sơ hở trong việc quản lý, kiểm tra việc tính toán, lập hồ sơ hoàn thuế giá trị
gia tăng để khai khống, lập hồ sơ giả cũng như nhiều cách thức khác có được các hóa đơn
chứng từ và các giấy tờ có liên quan khác trong hồ sơ xin hoàn thuế giá trị gia tăng, từ đó rút
từ ngân sách nhà nước hàng tỷ đồng.
Theo kết quả công tác nắm tình hình và thực tế điều tra các vụ án trong lĩnh vực hoàn
thuế trong thời gian qua xảy ra ở nước ta nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng thì
thủ đoạn chủ yếu là lập hồ sơ chứng từ khống hàng nông, hải sản xuất khẩu. Đây là một
trong những loại hàng hóa có thuế suất là 0% và công tác kiểm tra việc thu mua các loại
hàng hóa này là rất khó khăn cho các ngành chức năng. Lợi dụng việc thuế suất khi xuất
khẩu là 0% nên các đối tượng không phải nộp thuế giá trị gia tăng cho cơ quan thuế. Đó là
điểm rất có lợi cho các doanh nghiệp “ma” khi thành lập chỉ trên giấy tờ, không có vốn hoặc
lượng vốn (ảo) thấp. Các doanh nghiệp này chỉ việc khai báo trong hồ sơ xin hoàn thuế là
hàng hóa xuất khẩu ở đây là hàng nông, lâm, hải sản thì sẽ được miễn việc nộp thuế cho cơ
quan thuế khi xuất khẩu.
Bên cạnh đó cơ quan chức năng lại rất khó khăn trong việc kiểm tra nguồn gốc của các
loại hàng hóa nông, lâm, hải sản xuất khẩu như thế này. Các doanh nghiệp thông qua việc
tạo ra một lượng hàng hóa ảo mà không thông qua mua bán có hóa đơn, hay nói cách khác là
mua bán hàng hóa không có hóa đơn hoặc hóa đơn chợ “đen” từ đó các doanh nghiệp vi
phạm đã có được một lượng hàng hóa và hóa đơn chứng từ giả toàn bộ về việc mua bán
hàng hóa xuất khẩu mà trong đó là hàng nông, lâm, hải sản nhưng số hồ sơ đó lại được coi là
hợp lệ.
19