Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

QLNN về phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN PHƢƠNG THẢO

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TỈNH – TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN PHƢƠNG THẢO

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƢỚC CẤP TỈNH – TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG


Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TẦN XUÂN BẢO

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu trích
dẫn, các số liệu nêu trong luận văn đảm bảo
tính trung thực và có nguồn trích dẫn rõ
ràng.
Ngƣời cam đoan
NGUYỄN PHƢƠNG THẢO


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ....................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ luận văn ....................................................................... 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................... 6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ............................................................................. 7
7. Kết cấu ............................................................................................................ 7
Chƣơng 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC .......................................................... 8
1.1. Những khái niệm liên quan ........................................................................... 8
1.1.1. Cơ sở khoa học về phòng, chống tham nhũng ..................................... 8
1.1.2. Cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh .............................................. 15
1.2. Một số vấn đề lý luận Quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng .... 18
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm QLNN về phòng, chống tham nhũng ........... 18
1.2.2. Mục đích quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng ................ 20
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng ................ 21
1.2.4. Công cụ, phương thức quản lý nhà nước về PCTN ........................... 26
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương trong QLNN về PCTN và những giá trị
tham khảo cho Thành phố Hồ Chí Minh ......................................... 31
1.3.1. Kinh nghiệm của một số địa phương .................................................. 31
1.3.2. Những giá trị tham khảo cho Thành phố Hồ Chí Minh ..................... 36
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 38


Chƣơng 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
CẤP TỈNH – TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH39
2.1. Tình hình kinh tế - xã hội của TP.HCM tác động đến QLNN về PCTN trong cơ
quan hành chính của TP.HCM ......................................................... 39
2.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................... 39
2.1.2. Tình hình kinh tế -xã hội..................................................................... 40
2.1.3. Cơ quan hành chính nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh ................... 40

2.2. Đánh giá thực trạng ..................................................................................... 43
2.2.1. Đánh giá việc thực hiện các nội dung QLNN về PCTN .................... 43
2.2.2. Kết quả, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong công tác QLNN về PCTN
tại các cơ quan HCNN TPHCM ........................................................................ 63
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................... 70
Chƣơng 3 GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PCTN TRONG CƠ QUAN
HCNN CẤP TỈNH – TỪ THỰC TIỄN TPHCM ....................... 71
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng ............. 71
3.2. Định hướng phòng, chống tham nhũng tại Thành phố Hồ Chí Minh ........ 73
3.3. Các giải pháp ............................................................................................... 75
3.3.1. Giải pháp về thể chế QLNN về PCTN ............................................... 75
3.3.2. Giải pháp về tổ chức bộ máy, phân công thực hiện QLNN về PCTN81
3.3.3. Giải pháp về nhân sự........................................................................... 89
3.3.4. Giải pháp về quản lý nguồn lực công ................................................. 95
3.3.5. Thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm.................................... 100
3.3.6. Một số giải pháp khác ....................................................................... 113
3.4. Một số kiến nghị ........................................................................................ 114
3.4.1.Kiến nghị về thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng, chống lãng phí tại
Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................. 114
3.4.2. Kiến nghị về điều chỉnh, sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng .. 116
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 118
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 120
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 122


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ ĐẦY ĐỦ


1

CB,CC,VC

Cán bộ, công chức, viên chức

2

HCNN

Hành chính nhà nước

3

Luật PCTN 2005,

Luật Phòng, chống tham nhũng

STT

SĐBS 2007, 2012

số 55/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một
số Điều theo Luật số 01/2007/QH12 và Luật số
27/2012/QH13

4

PCTN


Phòng, chống tham nhũng

5

QLNN

Quản lý nhà nước

6

QLNN về PCTN

7

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

8

UBND

Ủy ban nhân dân

Quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Bảng 2.1. Công tác phổ biến, tuyên tuyền pháp luật Phòng, chống tham nhũng
qua các năm 2011 – 2016.
Bảng 2.2. Kết quả thanh tra phòng, chống tham nhũng tại TP.Hồ Chí Minh từ
2013 - 2016
Biểu đồ 2.1. Công tác phổ biến, tuyên tuyền pháp luật Phòng, chống tham
nhũng qua các năm 2011 – 2016
Biểu đồ 2.2. Số cơ quan thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng tại
TP.Hồ Chí Minh 2012-2015.
Biểu đồ 2.3. Số cuộc kiểm tra việc thực hiện các quy định về định mức, tiêu
chuẩn trong phòng ngừa tham nhũng tại TP. Hồ Chí Minh 2012-2015
Biểu 2.4. Tỷ lệ số cuộc thanh tra phòng, chống tham nhũng tại TP.Hồ Chí
Minh 2013-2016(%)


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế, chính trị khoa học và kỹ
thuật.Tuy nhiên, trong quá trình này chúng ta phải đối mặt với rất nhiều trở ngại và
thách thức, và một trong các vấn đề lớn đó chính là tệ nạn tham nhũng.Tệ nạn này
đã ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế đất nước.Mặc dù công cuộc chống tham
nhũng đã có những tiến bộ nhất định nhưng đây vẫn là một nguy cơ mang tính toàn
cầu, đe dọa sự phát triển của xã hội.Với quy mô, thủ đoạn ngày càng diễn biến phức
tạpnên việc chống tham nhũng là vấn đề vô cùng cấp bách hiện nay, đòi hỏi phải
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cơ quan hành chính, hình
sự và của từng thành viên trong xã hội.
Trải qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ
trương, giải pháp tích cực để phòng, chống tham nhũng. Đại hội lần thứ XI (nhiệm
kỳ 2011-2015) Đảng ta khẳng định: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Tiếp tục hoàn thiện thể chế

và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập
trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí. Thực hiện chế độ công khai,
minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch
vụ công, doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ
ngân sách nhà nước, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công. Thực hiện có hiệu quả
việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định.
Xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng,
lãng phí. Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng, tịch thu
sung công tài sản tham nhũng và có nguồn gốc tham nhũng; có cơ chế khuyến khích
và bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tổng kết, đánh giá
cơ chế, mô hình tổ chức cơ quan phòng, chống tham nhũng để có chủ trương, giải
pháp phù hợp”. Ngoài ra, Luật phòng, chống tham nhũng 2005, sửa đổi bổ sung
năm 2007, 2012cùng các văn bản dưới luật cũng đã được ban hành để kịp thời,
nhanh chóng hạn chế tệ nạn nguy hiểm này.


2
Với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước cùng với sự cố gắng
của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội đã tạo những chuyển biến tích cực cả về
nhận thức và hành động trong PCTN. Công tác PCTN đã đạt được những kết quả
bước đầu, nhất là trong xây dựng thể chế và công tác phòng ngừa. Tuy nhiên,
nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá, công tác PCTN trong thời gian qua vẫn còn nhiều
hạn chế, đó là: Giữa quyết tâm chính trị và hành động thực tiễn còn khoảng cách
đáng kể.Mặc dù công tác PCTN đã có chuyển biến theo hướng tích cực nhưng chưa
tạo được sự chuyển đổi mạnh mẽ, tình hình tham nhũng hiện nay vẫn ở mức nghiêm
trọng, diễn biến phức tạp; xảy ra ở nhiều cấp – ngành - lĩnh vực, trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ, công chức suy thoái đạo đức, lối sống; hình thức, thủ đoạn tham
nhũng ngày càng tinh vi, gây bức xúc xã hội.
Thành phố Hồ Chí Minh là địa bàn chiến lược trọng yếu, có vị trí, vai trò đầu
tàu về kinh tế - xã hội đối với khu vực và cả nước, luôn nhận được sự quan tâm của

Đảng, Nhà nước và Chính phủ về cơ chế, chính sách đặc thù, góp phần tạo thuận lợi
cho phát triển bền vững. Thời gian qua, bên cạnh những kết quả đạt được, qua kiểm
tra, giám sát, đôn đốc công tác phòng chống tham nhũng tại Thành ủy TP.HCM cho
thấy còn có những hạn chế, nếu không được kịp thời chấn chỉnh, khắc phục sẽ kìm
hãm sự phát triển của thành phố và tiềm ẩn nhiều nguy cơ tham nhũng: Cụ thể, công
tác tuyên truyền, quán triệt các văn bản quy định của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về phòng chống tham nhũng chưa được sâu rộng, chưa tạo được sự chuyển
biến căn bản về nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức có chức vụ quyền
hạn.Việc tự phát hiện tham nhũng của các cơ quan, đơn vị hiệu quả chưa cao. Việc
theo dõi, giám sát xử lý sau thanh tra đối với một số vụ việc chưa được chặt chẽ.
Theo ông Nguyễn Thành Phong - Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh cho biết nhiều năm qua tình hình chống tham nhũng và công tác điều tra, truy
tố, giám định tư pháp còn chậm, chưa đạt yêu cầu: “Trên thực tế tham nhũng ngày
càng tinh vi, được che chắn, tiềm ẩn dưới hình thức như lợi ích nhóm, vận chuyển
tiền, tài sản ra nước ngoài. Trong những vụ việc phát hiện tham nhũng có biểu hiện
lợi ích nhóm rất tinh vi, thậm chí cấu kết chặt chẽ thành một nhóm người, có những


3
vụ việc tạo ra lợi ích nhóm từ việc xây dựng cơ chế chính sách để làm lợi cho một
số người có chức vụ, quyền hạn”. Chủ tịch UBND TP đã nhận định tham nhũng là
vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong nhân dân. Do đó, từ nhiều năm nay, Đảng bộ,
chính quyền TP luôn chú trọng công tác phòng, chống tham nhũng; và cũng đã sớm
ban hành các quy định về phòng chống tham nhũng.
Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng của UBND
thành phố cho thấy, từ năm 2006-2015, Công an TP đã thụ lý điều tra 152 vụ án
tham nhũng, chức vụ với 463 bị can. Tổng giá trị tài sản thiệt hại, phạm tội trên 600
tỉ đồng và 136.000 USD.Đến nay, quá trình khởi tố, điều tra, kết luận không có
trường hợp nào bị oan sai phải bồi thường.
Riêng Viện kiểm sát nhân dân TP đã thụ lý 151 vụ với 396 bị can, truy tố 140

vụ với 323 bị can. Toà án nhân dân TP xét xử 199 vụ. Tính từ năm 2006 đến nay,
các vụ án hình sự sơ thẩm thuộc thẩm quyền thụ lý của Toà án nhân dân TP liên
quan đến tham nhũng có tăng nhưng không đáng kế về số lượng vụ. Tuy nhiên, số
bị cáo ngày càng tăng mạnh, đặc biệt có năm số bị cáo tăng đột biến.
Do vậy, với vai trò là một đơn vị hành chính rộng lớn, phát triển vượt trội về
mọi mặt, trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa – du lịch nước ta, Thành phố Hồ Chí
Minh cần nhanh chóng, khẩn trương tăng cường hơn nữa công tác QLNN trong lĩnh
vực phòng, chống tham nhũng, đặc biệt trong cơ quan hành chính để đảm bảo thực
hiện chức năng QLNN, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động, duy trì sự ổn định
trong sự phát triển kinh tế - xã hội, lấy lại niềm tin từ người dân.
Đây chính là những lý do tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về phòng, chống
tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh – từ thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có nhiều nghiên cứu
về vấn đề PCTN. Tuy nhiên, các nghiên cứu phần lớn thiên về hệ thống chính sách,
pháp luật, mà ít đề cập đến nội dung quản lý nhà nước về PCTN, nhất là trong các
cơ quan hành chính nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh.


4
Có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu sau:
- Luận án Tiến sĩ Luật học: “Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay”, của tác giả Trần Đăng Vinh, Đại học Luật Hà Nội,
2012. Luận án tập trung nghiên cứu nội dung Pháp luật về PCTN tại Việt Nam gồm:
lý luận, thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật – đây là cơ sở lý thuyết
để tôi vận dụng váo xây dựng luận cứ nội dung thể chế QLNN nói chung và QLNN
về PCTN nói riêng. Nội dung này chỉ là một nhánh trong nội dung QLNN về
PCTN, luận án chỉ đề cập đến pháp luật mà chưa nhắc đến các nội dung QLNN về
PCTN. Vì vậy, vấn đề QLNN về PCTN sẽ được đào sâu nghiên cứu trong luận văn

của tôi.
- Luận văn Quản lý công: “Quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng của
cơ quan Thanh tra nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Xuân Dương,
2010. Luận văn này có đề cập đến nội dung QLNN về PCTN – phần luận văn của
tôi kế thừa, tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của luận văn này hạn chế trong cơ quan
thanh tra ở Việt Nam, chứ không phải toàn hệ thống cơ quan thực hiện chức năng
QLNN về PCTN.
- Luận văn Quản lý công: “Tham nhũng, phòng và chống tham nhũng trong cơ
quan hành chính nhà nước từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Từ
Thanh Sơn, 2007. Luận văn tiếp cận theo hướng hệ thống hóa lý luận chung về
PCTN, đánh giá thực trạng PCTN tại cơ quan hành chính TP.HCM và đưa ra giải
pháp – nghiên cứu này cung cấp cho tác giả hệ thống các đánh giá thực trạng công
tác PCTN tại TP.HCM, để tác giả vận dụng vào chương 2 luận văn. Tuy nhiên, đối
tượng luận văn nghiên cứu là hoạt động PCTN, chứ không xoáy vào nội dung
QLNN về PCTN. Vì vậy, một mặt kế thừa các nghiên cứu về vấn đề PCTN, luận
văn của tôi đã tập trung vào nội dung còn chưa rõ trong việc QLNN về PCTN.
- Luận văn Quản lý công:“Quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Nga,2011. Luận văn hệ thống hóa lý
luận quản lý nhà nước về PCTN gồm các nội dung: các khái niệm, đặc trưng, nội
dung QLNN, kinh nghiệm một số nước về PCTN. Sau đó, luận văn đánh giá thực


5
thực trạng QLNN về PCTN tại Việt Nam hiện nay trên các nội dung của QLNN về
PCTN, đánh giá những kết quả, hạn chế. Cuối cùng, luận văn hệ thống quan điểm
và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về PCTN ở Việt Nam hiện nay. Đây
là luận văn thiên về phân tích thực trạng QLNN về PCTN, tuy nhiên phạm vi đề cập
tại Việt Nam nói chung. Luận văn của tôi sẽ kế thừa nội dung QLNN về PCTN tại
luận văn này, đồng thời chủ động đánh giá thực trạng QLNN về PCTN tại cơ quan
hành chính TP. Hồ Chí Minh. Đây là điểm khác biệt trong luận văn của tôi.

Ngoài ra, còn rất nhiều các tài liệu, giáo trình, đề tài khác, nhưng chưa có công
trình nghiên cứu nào đề cập rõ ràng, sâu sắc về nội dung QLNN về PCTN, đặc biệt
tại các cơ quan hành chính cấp tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh, ví dụ:
- Luận văn Quản lý công:“Hiệu quả quản lý nhà nước trong phòng, chống
tham nhũng của Thanh tra Chính phủ” của tác giả Lương Duy Huy,2012;
- Luận văn Quản lý công:“Tăng cường cơ chế dân biết, dân bàn, dân kiểm tra
trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nghiêm Thị
Thanh Nga,2012;
- Luận văn Quản lý công:“Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước khi để xảy ra tham nhũng, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
tác giả Đào Quốc Trưởng,2014;
- Đề tài cấp bộ:“Một số vấn đề về quản lý nhà nước trong phòng, chống tham
nhũng” của tác giả Ngô Mạnh Hùng,2013;
- Tài liệu giảng dạy về phòng, chống tham nhũng dùng cho các trường đại học,
cao đẳng không chuyên về luật, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 2014;
- Tài liệu bồi dưỡng về phòng, chống tham nhũng (dành cho giáo viên các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp), Viện khoa học Thanh tra, Thanh tra chính phủ,
NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011.
Vì các nghiên cứu liên quan đến QLNN về PCTN tại các cơ quan hành chính
cấp tỉnh tại Thành phố Hồ Chí Minh có khá ít tác giả nghiên cứu, nên tôi đã mạnh
dạn tìm hiểu và lựa chọn nội dung này làm tên luận văn thạc sĩ của mình. Đây là đề
tài không trùng lặp, nghiên cứu vấn đề hoàn toàn mới, còn bỏ ngõ.


6
3. Mục đích và nhiệm vụ luận văn
- Mục đích: hệ thống hóa cơ sở khoa học của hoạt động QLNN về PCTN, các
cơ quan HCNN làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về PCTN tại cơ quan hành
chính nhà nước trên địa bànTPHCM; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường
hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về PCTN tại cơ quan hành chính nhà

nước trên địa bànTPHCM.
- Nhiệm vụ:
Một là, khái quát cơ sở khoa học quản lý nhà nước về về phòng, chống tham
nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước
Hai là, tìm hiểu thực trạng quản lý nhà nước về về PCTN tại TPHCM.Trong
nhiệm vụ này cần làm rõ những kết quả, hạn chế trong công tác quản lý và tìm ra
nguyên nhân.
Ba là, đưa ra các quan điểm chung của Đảng, nhà nước trong PCTN; vạch ra
những định hướng của TPHCM; đề xuất các giải pháp khắc phục hạn chế trong
quản lý nhà nước về PCTN từ thực tiễn TPHCM.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng: Công tác quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng trong
cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh (thực tiễn từ UBND TP.HCM)
- Phạm vi:
Không gian: tại UBND Thành phố Hồ Chí Minh
Thời gian: 2011 – 2016
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí
Minh và hệ thống quan điểm của Đảng và nhà nước về PCTN.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nguồn nghiên cứu chủ yếu là các công trình,
đề tài, luận văn, luận án, sách, giáo trình. Tác giả đọc tài liệu và rút ra các nhận
định, trích dẫn những nội dung cần thiết liên quan đến luận văn.


7
Phương pháp thu thập số liệu, tổng hợp và xử lý số liệu: Tác giả thống kê các
con số đánh giá thực trạng QLNN về PCTN qua các năm, tổng hợp, so sánh và đưa
ra các kết luận dựa vào số liệu cụ thể.
Phương pháp phân tích: Trên cơ sở số liệu thu thập được, tác giả sử dụng

phương pháp phân tích để so sánh, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước
về PCTN tại TPHCM qua các năm, tìm ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân
của những tồn tại. Trong chương 3, luận văn phân tích, diễn giải cụ thể từng nhóm
giải pháp để giải quyết tồn tại, hạn chế này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về lý luận: Đề tài cung cấp những kiến thức cơ bản về về PCTN trong cơ
quan hành chính nhà nước - nội dung ít được nghiên cứu cho các cơ quan nhà nước.
Đồng thời hệ thống hóa những nội dung cần thiết nhằm hoàn thiện công tác quản lý
nhà nước về về PCTN trong cơ quan hành chính nhà nước tại TPHCM
- Về thực tiễn: đề tài góp phần cung cấp thực trạng QLNN về PCTN trong cơ
quan hành chính nhà nước tại TPHCM giúp các cơ quan quản lý nhìn nhận, đánh
giá thực trạng một cách khách quan, chính xác nhất. Đồng thời đề tài tìm ra những
hạn chế tồn tại để giúp cơ quan quản lý tìm ra giải pháp khắc phục hiệu quả.
7. Kết cấu
Theo dự kiến ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, mục lục, phụ
lục, luận văn có bố cục gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học và pháp lý của quản lý nhà nước về phòng, chống
tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng trong cơ
quan hành chính nhà nước cấp tỉnh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Giải pháp quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng trong cơ
quan hành chính nhà nước cấp tỉnh – từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.


8
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
1.1. Những khái niệm liên quan

1.1.1. Cơ sở khoa học về phòng, chống tham nhũng
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và các hành vi tham nhũng
Khái niệm tham nhũng
Theo nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn,
hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là lợi
dụng quyền hành để nhũng nhiễu doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân.[33,tr. 8]
Theo nghĩa hẹp và cũng là khái niệm được pháp luật Việt Nam quy định (tại
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2007, 2012), “tham
nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
đó vì vụ lợi” [33, tr.8]. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người
làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác
là ở nơi có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước. Việc giới hạn như vậy
nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ
biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các biện pháp
phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có những đặc trƣng
cơ bản nhƣ sau:
a) Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn
Đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là người có chức
vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên
chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn
vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan


9
chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người
đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện

nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó [33].
b) Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham nhũng.
Người thực hiện hành vi tham nhũng phải lợi dụng “chức vụ, quyền hạn của mình”
như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình hoặc cho
người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng.
c) Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi
Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích
vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có
thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng. Như vậy, khi xử lý về hành vi tham
nhũng, bắt buộc chủ thể tham nhũng phải đạt được lợi ích. Hiện nay,pháp luật Việt
Nam quy định việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tham
nhũng chủ yếu dựa trên những lợi ích vật chất mà kẻ tham nhũng đạt được, để từ đó
quyết định mức độ xử lý.
Các hành vi tham nhũng
Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi bổ sung
năm 2007, 2012 phân loại tham nhũng theo hành vi. Theo đó, các hành vi sau đây
thuộc nhóm hành vi tham nhũng:
- Tham ô tài sản: là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình
có trách nhiệm quản lý;
- Nhận hối lộ: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung
gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình
thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người
đưa hối lộ;
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;


10
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi:
là việc cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn

làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của nhân dân;
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi: là cá nhân vì vụ
lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ
gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước và xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi: là
việc cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận
hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào, gây
hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng
ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm
một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm
một việc không được phép làm;
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân
khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây: Sửa
chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; Làm, cấp giấy tờ giả; Giả mạo chữ ký
của người có chức vụ, quyền hạn[36, tr. 247-254];
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn
để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ
lợi: là hành vi lợi dụng việc được giao quyền quản lý tài sản của nhà nước để phục
vụ lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người nào đó thay vì phục vụ cho lợi ích công.
Biểu hiện cụ thể của hành vi này thường là cho thuê tài sản như: nhà xưởng, trụ sở,
xe ôtô và các tài sản khác nhằm vụ lợi. Số lượng tài sản cho thuê nhiều khi lớn;
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi: là hành vi “đòi hối lộ” một cách gián tiếp hoặc ở mức
độ chưa thật nghiêm trọng và có thể dùng biện pháp xử lý hành chính;
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi: là hành vi thường được gọi là
“bảo kê” của những người có trách nhiệm quản lý, đặc biệt là một số người làm việc


11

tại chính quyền địa phương cơ sở, đã “lờ” đi hoặc thậm chí tiếp tay cho các hành vi
vi phạm để từ đó nhận lợi ích từ những kẻ phạm pháp.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi. ... [69]
1.1.1.2. Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu ở những điểm
chính sau:
Một là, tác hại về chính trị
Tham nhũng là cản trở lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mòn
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, làm chậm sự nghiệp xây dựng đất
nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện đổi mới đất nước đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế
và chính trị vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, trên thực tế, sự phát triển
gặp rất nhiều khó khăn thách thức và một trong những cản trở lớn nhất là tham
nhũng. Quan điểm và tư duy đổi mới cùng với cơ chế, pháp luật đúng đắn, phù hợp
đã bị tệ tham nhũng làm cho méo mó. Đối tượng tham nhũng đã lợi dụng sự thông
thoáng của cơ chế, chính sách để thực hiện hành vi tham nhũng. Cơ chế, chính sách
đã trở thành công cụ để thực hiện những lợi ích cá nhân. Trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài, tham nhũng sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư dù Việt Nam được coi là
quốc gia ổn định, an toàn về chính trị, xã hội.
Hai là,tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của doanh nghiệp
và của nhân dân. Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền
của, thời gian, công sức của nhân dân. Hàng loạt vụ tham nhũng lớn, nghiêm trọng
đã bị phát hiện. Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất thoát liên quan tới tham nhũng của



12
mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỉ đồng.Đó là những con
số lớn và đáng lo ngại so với ngân sách hằng năm của đất nước. Trong điều kiện là
một nước đang phát triển, mọi nguồn lực cần phải huy động tối đa cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời phải nỗ lực cho việc xoá đói, giảm nghèo
và thực hiện các chính sách xã hội khác thì việc lãng phí, thất thoát tài sản, tiền của,
thời gian, công sức do tham nhũng cần được coi là một thứ tội ác phải đấu tranh và
xử lý mạnh mẽ. Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán bộ, công chức quan liêu, sách
nhiễu đối với nhân dân trong khi thực thi công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi
hành công vụ khiến cho doanh nghiệp và nhân dân phải mất rất nhiều thời gian,
công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được công việc của mình như xin cấp các loại
giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác.
Ba là, tác hại về xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo
đức xã hội, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Trước những lợi ích
bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham nhũng, nhiều CB,CC,VC
đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng. Vì vậy, tham
nhũng không chỉ phát sinh ở trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư,
xây dựng cơ bản, quản lý đất đai… mà còn có xu hướng lan sang các lĩnh vực mà từ
trước tới nay ít có khả năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục
thể thao. Hành vi tham nhũng còn xảy ra trong một số chương trình trợ cấp cho
thương binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách; tham nhũng cả tiền, hàng hoá cứu trợ
cho đồng bào gặp thiên tai; tham nhũng trong cả xét duyệt công nhận di tích lịch sử,
văn hoá, thi đua khen thưởng. Tham nhũng còn xảy ra ở một số cơ quan bảo vệ
pháp luật, những cơ quan đại diện cho công lý và công bằng xã hội[69].
1.1.1.3. Ý nghĩa và tầm quan trọng của phòng, chống tham nhũng
Phòng, chống tham nhũng là các hoạt động phòng ngừa, phát hiện và xử lý
tham nhũng, đó là việc thực hiện các phương thức, biện pháp để ngăn ngừa, hạn
chế, đấu tranh phát hiện, xử lý các hành vi của các chủ thể có chức vụ, quyền hạn và

lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để vụ lợi. Trong đó:


13
- Phòng ngừa tham nhũng: là việc áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa sự
phát sinh hành vi tham nhũng.
- Chống tham nhũng: là quá trình phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng.
Phòng, chống tham nhũng có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, cụ thể:
Thứ nhất, Phòng, chống tham nhũng góp phần bảo vệ chế độ, xây dựng Nhà
nước pháp quyền
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam) ra đời là thành quả của cuộc cách mạng nhân dân vĩ đại do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Cùng với việc xây dựng nhà nước kiểu mới – Nhà nước xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, toàn Đảng và toàn dân ta phải tiến hành đấu tranh
với các tệ nạn, tiêu cực xã hội, trong đó có các hành vi tham nhũng và tội phạm về
tham nhũng - tàn dư của chế độ cũ nhưng đã tiềm ẩn, phát sinh trong chế độ mới.
Bác Hồ từng nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của chế độ cũ”[23].
Nghị quyết số 14 ngày 15 tháng 5 năm 1996 của Bộ Chính trị về lãnh đạo
cuộc đấu tranh chống tham nhũng đã nhận định: Tình trạng tham nhũng đã và đang
gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng, làm xói mòn bản chất của Đảng và Nhà nước,
làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên, tiếp tay cho các thế lực thù địch lợi dụng
chống phá ta, uy hiếp sự tồn vong của chế độ[5, Tr.204-205].
Trong chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, Chính
phủ nhận định: “Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc
đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sựtồn vong của chế độ”[23,Tr.494].
Như vậy, phòng, chống tham nhũng không chỉ có mục đích đơn thuần là làm giảm
tình hình vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm nói riêng mà nó còn có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo vệ sự vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Do đó, phòng, chống tham nhũng cần được xem như là một nhiệm vụ quan
trọng, cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện nay.

Thứ hai, Phòng, chống tham nhũng góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước,
nâng cao đời sống nhân dân


14
Tham nhũng làm hao tổn lớn nguồn lực kinh tế của quốc gia, làm chậm nhịp
tăng trưởng của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng tụt hậu
ngày càng xa so với các nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác, tham nhũng còn
làm cho người dân bị thiệt hại hơn về kinh tế thông qua việc “buộc phải đưa hối lộ”.
Tham nhũng làm tăng thêm gánh nặng về kinh tế đối với người dân trong điều kiện
kinh tế vốn đã rất khó khăn. Tham nhũng còn làm cho sự chênh lệch về tài sản, sự
phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng tăng. Các lợi ích kinh tế trong xã hội
không được phân chia hợp lý. Điều này không chỉ gây khó khăn cho hoạt động sản
xuất, phát triển kinh tế mà còn làm tiềm ẩn nguy cơ mâu thuẫn, bất ổn trong xã hội.
Vì vậy, để phát triển kinh tế nhanh và vững chắc, đồng thời không ngừng nâng cao
đời sống, vật chất, tinh thần cho nhân dân cần thực hiện các biện pháp cần thiết để
phòng ngừa và đấu tranh không khoan nhượng với tham nhũng. Việc tích cực
phòng, chống tham nhũng có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với việc phát triển,
tăng trưởng nền kinh tế mà còn có ý nghĩa to lớn, góp phần quan trọng trong việc
cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Thứ ba, Phòng, chống tham nhũng góp phần duy trì các giá trị đạo đức truyền
thống, làm lành mạnh các quan hệ xã hội
Các giá trị đạo đức truyền thống của xã hội, của dân tộc như lòng nhân ái, đức
hy sinh, tinh thần tương thân tương ái… không những không được đề cao mà ngày
càng mai một. Tư tưởng coi trọng quyền lực và đồng tiền (quá mức) đã làm cho
nhiều người (có chức vụ, quyền hạn) thiếu trách nhiệm đối với nhà nước và xã hội,
thờ ơ vô cảm với đồng loại, thậm chí hống hách, coi thường kỷ cương, vi phạm
pháp luật. Tham nhũng đã và đang tấn công mạnh mẽ sang cả những lĩnh vực vốn
được cả xã hội tôn vinh, kính trọng là y tế và giáo dục. Để bảo vệ xã hội, bảo tồn và
phát triển các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống thì Nhà nước, mỗi người dân và

toàn xã hội cần đồng lòng, chung sức đấu tranh không khoan nhượng với các hành
vi tham nhũng và tội phạm về tham nhũng. Việc phòng ngừa và đấu tranh chống
tham nhũng chính là hoạt động góp phần duy trì các giá trị đạo đức truyền thống và
làm lành mạnh các quan hệ xã hội.


15
Thứ tư, Phòng, chống tham nhũng góp phần củng cố niềm tin của nhân dân
vào chế độ và pháp luật
Nạn tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua diễn ra rất tinh vi, phức tạp và ngày
càng nghiêm trọng và điều đó đã gây ra những thiệt hại lớn về cả kinh tế và xã hội
cũng như làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và pháp luật,
khiến cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng càng thêm khó khăn. Nguyên nhân chủ
yếu là bởi sự tha hóa của một bộ phận không nhỏ của CB, CC, VC trong thực thi
công vụ, nhiệm vụ được giao. Vì vậy, nhiệm vụ làm trong sạch bộ máy, tăng cường
sức mạnh cho bộ máy nhà nước mà chủ yếu thông qua con đường đấu tranh không
khoan nhượng với nạn tham nhũng cần được thực hiện một cách quyết liệt. Chỉ có
như vậy mới loại bỏ được hành vi tham nhũng, mới khôi phục được niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và pháp luật [26]
1.1.2. Cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp tỉnh
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm
Khái niệm cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh
Hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước là một bộ phận hợp thành của bộmáy
Nhà nước, được thành lập để thực thi quyền hành pháp. Đó là hoạt động chấp hành
và điều hành của hệ thống hành chính Nhà nước trong quản lý xã hội theo quy định
pháp luật. Hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước được thành lập từ Trung ương
đến địa phương, có tính trực thuộc và tính thứ bậc chặt chẽ. Cơ quan hành chính
Nhà nước ở Trung ương bao gồm Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ; trong đó Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất. Cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương là một bộ phận của bộ máy nhà nước, có chức

năng quản lý hành chính trong đơn vị lãnh thổ là địa phương mình theo quy định
pháp luật.Cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương bao gồm Ủyban nhân dân
các cấp (tỉnh, huyện, xã) và cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủyban nhân dân các
cấp (sở, phòng, ban). Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan thẩmquyền chung, thực
hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước đối với mọi mặtđời sống xã hội trên
phạm vi lãnh thổ địa phương; còn các cơ quan chuyên mônthuộc Ủy ban nhân dân


16
các cấp là cơ quan thực hiện chức năng tham mưu, giúpỦy ban nhân dân cùng cấp
quản lý hành chính Nhà nước về ngành, lĩnh vực ởđịa phương mình.
Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp 2013và Luật Tổ chức Chính uyền địa
phương 2015,chính quyền địa phương được tổ chức ở 3 cấp tương ứng đối với các
đơn vị hành chính sau đây:Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp
tỉnh); Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện); Xã,
phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
Do đó, có thể nói, cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh gồm: Ủy bannhân
dân cấp tỉnh và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên; cáccơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có sở và cơ quan ngang sở.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: là cơ quan hành chính của các địa phương
ấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có p và các cơ quan,
tổ chức, đơn vị khác có sử dụng ngân sách nhà nước căn cứ vào quy định tại khoản
1 điều này hướng dẫn áp dụng hoặc phối hợp với cơ quan nhà nươc có thẩm quyền
xây dựng, ban hành và công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn áp dụng trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị mình.
- Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, đơn vị ban hành các chế độ, định mức, tiêu
chuẩn trái pháp luật.



99
Như vậy, việc xây dựng, ban hành và công khai các chế độ, định mức, tiêu
chuẩn là quy định bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân
sách nhà nước.
Thứ ba, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán nhằm phòng
ngừa tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 cũng quy định có tính chất định
hướng cho các cơ quan nhà nước áp dụng khoa học - công nghệ trong quản lý nhằm
giảm bớt cơ hội và nguy cơ xảy ra tham nhũng, nhất là việc tiếp xúc trực tiếp giữa
người quản lý và người bị quản lý trong những trường hợp không cần thiết. Theo
đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị thường xuyên cải tiến công tác, tăng cường áp dụng
khoa học - công nghệ trong hoạt động của mình, tạo thuận lợi để công dân, cơ quan,
tổ chức, đơn vị thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan, tổ chức,
đơn vị có trách nhiệm hướng dẫn trình tự, thủ tục giải quyết công việc để cơ quan,
tổ chức, đơn vị, cá nhân chủ động thực hiện mà không phải trực tiếp tiếp xúc với
cán bộ, công chức, viên chức.
Một giải pháp phòng ngừa tham nhũng quan trọng nữa mà Luật phòng, chống
tham nhũng năm 2005 có quy định đó là vấn đề đổi mới phương thức thanh toán.
Hiện nay, về cơ bản nền kinh tế của chúng ta vẫn là nền kinh tế tiền mặt, các giao
dịch chủ yếu bằng tiền mặt, rất khó kiểm soát, kể cả các khoản thu nhập của cán bộ,
công chức từ ngân sách nhà nước. Vì vậy, cùng với việc áp dụng khoa học - công
nghệ trong quản lý, cần phải đổi mới phương thức thanh toán để kiểm soát chặt chẽ
hơn các giao dịch, nhất là những khoản chi có sử dụng ngân sách nhà nước và các
khoản chi liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức để bảo đảm sự minh bạch
trong các nguồn thu nhập của họ.
Cải cách cơ bản chế độ tiền lương, phụ cấp bảo đảm để cán bộ, công chức có
mức thu nhập tương đương mức thu nhập khá trong xã hội; thực hiện chính sách
tiền lương hợp lý trong một số lĩnh vực đặc thù; nghiên cứu bổ sung chính sách đãi
ngộ đối với cán bộ, công chức...



100
3.3.5. Thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm
Thứ nhất, Tăng cường trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy trong
thực hiện công tác kiểm tra, giám sát phòng, chống tham nhũng
Các cấp ủy cần đề ra chủ trương, chính sách, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo cụ
thể, sát hợp trong từng thời gian với các cơ quan, đơn vị thuộc quyền. Chủ động xây
dựng chương trình, kế hoạch hành động và chỉ đạo các tổ chức đảng, các cơ quan,
đơn vị trực thuộc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động PCTN. Tăng cường
trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo trên các nội dung chính sau:
Một là, cấp ủy các cấp đẩy mạnh chỉ đạo, kiểm tra các ban của cấp ủy thực
hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên
thuộc phạm vi phụ trách, góp phần thực hiện tốt công tác đấu tranh PCTN. Chỉ đạo
các tổ chức cơ sở đảng tăng cường công tác quản lý, giáo dục, giám sát, kiểm tra
cán bộ, đảng viên, kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê
bình để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm tham nhũng; đưa nội dung PCTN
thành một nội dung trong sinh hoạt Đảng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
đối với tổ chức đảng cấp dưới và Đảng viên trong việc chấp hành nghị quyết, chỉ
thị, quy định của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước để phòng, chống
tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để chủ động phòng ngừa tham
nhũng, kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng của cán bộ, Đảng viên từ khi mới
manh nha, từ trong chi bộ, ngay từ cơ sở để nhắc nhở, uốn nắn, ngăn chặn kịp thời.
Chỉ đạo các chi bộ, tổ chức cơ sở đảng cần thường xuyên, kịp thời phát hiện những
dấu hiệu có thể làm nảy sinh hành vi tham nhũng để nhắc nhở, uốn nắn, kiểm tra
hoặc báo cáo tổ chức có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, kết luận và xử lý nghiêm
minh…
Cấp ủy các cấp tăng cường chỉ đạo ủy ban kiểm tra các cấp bám sát các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, của cấp ủy cấp trên và của cấp mình để chủ động có
chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện có kết quả công tác kiểm tra, giám sát
việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

mình bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm. Định kỳ báo cáo cấp ủy kết quả thực hiện


×