Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.32 KB, 15 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1 KHÁI NIỆM TIỀN LƯƠNG VÀ VAI TRÒ CỦA TIỀN LƯƠNG
1.1.1 Khái niệm tiền lương
Thị trường lao động là một bộ phận của nền kinh tế thị trường. Ở đó, sức
lao động được coi là hàng hóa nên tiền lương được coi là giá cả của sức lao
động. Trước hết, tiền lương là số tiền mà người lao động sử dụng trả cho người
lao động, nói cách khác đây là quan hệ kinh tế của tiền lương. Thứ hai, tiền
lương không chỉ thuần túy là vấn đề kinh tế mà còn là một vấn đề xã hội quan
trọng, liên quan tới đời sống và trật tự xã hội, đây chính là tính chất đặc biệt của
hàng hóa sức lao động. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đối với người sử
dụng lao động, tiền lương là một phần cấu thành nên chi phí sản xuất – kinh
doanh. Vì thế, tiền lương luôn được tính toán và quản lý chặt chẽ. Còn đối với
người lao động, tiền lương là thu nhập từ quá trình lao động, đây là phần thu
nhập cơ bản và chủ yếu đối với hầu hết mọi người lao động.
Trong thực tế, khái niệm tiền lương rất đa dạng và có thể gọi dưới nhiều tên gọi
khác nhau: thù lao lao động, thu nhập lao động…Ở Pháp sự trả công được gọi là
tiền lương, ở Đài Loan tiền lương chỉ mọi khoản thù lao mà người công nhân
nhận được do làm việc…còn ở Việt Nam “Tiền lương là lượng tiền mà người
lao động nhận được từ người sử dụng sức lao động sau khi hoàn thành một công
việc nhất định hoặc sau một thời gian lao động nhất định”
(1)
. Tiền lương được
chia thành tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. Tiền lương danh nghĩa là
khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động; số tiền này phụ
thuộc trực tiếp vào năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động;
phụ thuộc và trình độ cũng như kinh nghiệm làm
(1)
Giáo trình phân tích lao động xã hội, NXB lao động – xã hội, tr – 139 .
trong quá trình lao động. Còn tiền lương thực tế là số lượng các loại hàng hóa
việc…tiêu dùng và các dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể


mua được bằng tiền lương danh nghĩa
“Thu nhập là tổng số tiền mà người lao động nhận được trong một thời
gian nhất định, từ các nguồn thu khác nhau”
(2)
. Các nguồn thu nhập đó có thể là:
tiền lương, tiền thưởng, các khoản phụ cấp, trợ cấp (từ cơ sở sản xuất); từ lãi
tiền gửi tiết kiệm hay từ các khoản tiền từ kinh tế phụ gia đình…
Còn theo ILO: “Tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động theo một số lượng nhất định không căn cứ vào số giờ làm việc
thực tế thường được trả theo tháng hoặc nửa tháng”. “Tiền công là khoản tiền
trả công cho người lao động theo hợp đồng lao động (chưa trừ thuế thu nhập và
các khoản khấu trừ theo quy định); được tính dựa trên số lượng sản phẩm làm ra
hoặc số giờ làm việc thực tế”.
Bản chất của tiền lương thay đổi tùy theo các điều kiện, trình độ phát
triển kinh tế xã hội và nhận thức của côn người. Nếu trước đây, tiền lương chỉ
được coi là giá cả sức lao động trong nền kinh tế thị trường thì giờ đây, tiền
lương không đơn giản chỉ là giá cả hàng hóa sức lao động nữa. Quan hệ giữa
người sử dụng lao động và người lao động đã có thay đổi căn bản.
1.1.2 Vai trò của tiền lương
Vì tiền lương liên quan trực tiếp đến chủ sở hữu sức lao động và người sử
dụng sức lao động nên vai trò của tiền lương được xét dưới hai góc độ:
• Đối với người sử dụng lao động:
Tư bản (K) và lao động (L) là hai đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất vật
chất. Người sử dụng lao động dùng tư bản để trang bị máy móc, công
(2)
Giáo trình phân tích lao động xã hội, NXB lao động – xã hội, tr – 139.
nghệ, mua nguyên – vật liệu đầu vào cho quá trình sản xuất, họ cũng sử dụng tư
bản để thuê mướn sức lao động của người lao động để tham gia quá trình biến
đổi các nguyên liệu đó thành hàng hóa mang lại giá trị cao hơn cho người sử
dụng. Người sử dụng lao động ở đây là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế…

Người sử dụng lao động thu được lợi nhuận do thu được một khoản chênh lệch
giữa doanh thu thu được và chi phí mà họ bỏ ra trong quá trình sản xuất cũng
như phân phối sản phẩm. Chi phí này gồm có: Chi phí mua sắm máy móc, chi
phí mua nguyên vật liệu đầu vào, chi phí cho lao động trực tiếp sản xuất, chi phí
cho lao động tham gia gián tiếp vào quá trình sản xuất và chi phí quản lý điều
hành. Như vậy, chi phí tiền lương chi trả cho người lao động là tiền lương trả
cho công nhân trực tiếp sản xuất, công nhân phục vụ, cho cán bộ quản lý điều
hành. Để thu được lợi nhuận cao hơn, chủ doanh nghiệp luôn muốn giảm chi
phí, nhưng lượng chi phí này chỉ có thể giảm tới một mức nào đó do còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố liên quan đến pháp luật lao động và thị trường lao động.
Hoặc họ có thể nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả làm việc để
giảm giá thành sản phẩm – đây thường là cách họ chọn để nâng cao lợi nhuận
cho mình và mang lại hiệu quả cao hơn trong việc quản lý lao động. Bởi lẽ, tiền
lương tăng lên sẽ là yếu tố tạo động lực tốt nhất để người lao động gắn bó với tổ
chức, làm việc có trách nhiệm cao hơn và có năng suất lao động cao hơn. Vì thế,
tiền lương luôn được các nhà sử dụng lao động coi như một công cụ quản lý lao
động hữu hiệu nhất và ưu việt nhất trong hệ thống các bí quyết quản lý lao
động.
• Đối với người lao động:
Người lao động là người nắm giữ sức lao động. Kinh tế ngày càng phát triển,
thị trường lao động ngày một hoàn thiện, sức lao động đã trở thành một loại
hàng hóa đặc biệt và mang lại giá trị cao hơn giá trị hàng hóa mà họ làm ra cho
người chủ thuê mướn sức lao động của họ. Tiền công mà chủ doanh nghiệp trả
chính là giá cả sức lao động mà họ bỏ ra trong quá trình làm việc và cống hiến
cho doanh nghiệp. Người lao động tiêu hao sức cơ bắp và tiêu hao trí lực vào
quá trình làm việc; nếu không được nghỉ ngơi để có thời gian tái tạo sức lao
động đó thì sức lao động đó sẽ dần bị mất đi và không thể phát triển được. Vì
thế, người lao động sử dụng tiền lương để tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng
sức lao động của mình thông qua hệ thống các nhu cầu ăn, mặc, ở, giao lưu, học
hỏi… Tiền lương mà doanh nghiệp trả phải đáp ứng được các nhu cầu này thì

mới có tác dụng kích thích họ làm việc và giữ chân họ ở lại với doanh nghiệp.
Không những thế, người lao động làm việc không chỉ để nuôi sống bản thân
mình mà còn nuôi sống những người đang phụ thuộc vào họ, đó là những người
đã hết tuổi lao động và những người chưa đến tuổi lao động, là bố mẹ và con cái
của họ. Chính vì vậy, khi trả lương cho người lao động nhất thiết cũng phải xét
đến các yếu tố này thì tiền lương mới thực sự là công cụ quản lý hiệu quả.
1.2 KHÁI NIỆM VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG VÀ VAI TRÒ CỦA
CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG
1.2.1 Khái niệm chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách này liên quan trực tiếp đến hầu
hết người lao động trong xã hội và chịu sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước
quản lý thống nhất tiền lương. Nhà nước thực hiện một cơ chế kiểm soát trong
thực hiện chính sách và chế độ trả lương, trên cơ sở pháp luật về tiền lương, các
hợp đồng lao động và thuế thu nhập. Việc quản lý Nhà nước về tiền lương được
thực hiện thông qua Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (cơ quan quản lý
tiền lương cao nhất); các bộ quản lý chuyên ngành và các địa phương (cấp Tỉnh,
cấp thành phố); các doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện công tác lao động,
tiền lương theo quy định của pháp luật.
Chính sách tiền lương trong doanh nghiệp là các quy định, hướng dẫn của
Nhà nước về tiền lương, phụ cấp, hệ thống các đòn bẩy, giải pháp bao gồm việc
nghiên cứu, xây dựng, ban hành hệ thống các văn bản, các hướng dẫn về chế độ
tiền lương, tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện những chính sách tiền
lương… nhằm thực hiện phân phối công bằng, minh bạch, hài hòa lợi ích giữa
người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước, phù hợp với quy luật
phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2 Vai trò của chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương được xem như một văn bản pháp luật nên có thể
xem chính sách tiền lương như một công cụ hiệu quả góp phần điều tiết thị
trường lao động, thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ và góp phần nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia.
Đối với thị trường lao động, thông qua việc ban hành và sửa đổi chính
sách lương trong những năm qua, Nhà nước công nhận tiền lương và tiền công
là giá cả của hàng hóa sức lao động. Thông qua hoạt động của thị trường lao
động, chính sách tiền lương góp phần phân bổ điều chỉnh nguồn nhân lực phạm
vi vùng, địa phương và toàn bộ nền kinh tế.
Bộ luật lao động ra đời năm 1994, qua hai lần sửa đổi, bổ sung đã quy
định khung pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện cơ chế lao động hai bên trong
doanh nghiệp,…tiền lương, tiền công được xác định, điều chỉnh thông qua hoạt
động lao động và thương lượng lao động tập thể.
Nhờ vậy, chính sách tiền lương đã góp phần thu hút đầu tư và thu hút lao
động vào các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu chế xuất; hạn chế
sự di chuyển lao động. Chất lượng lao động tăng lên, công nghệ ngày một hiện
đại, môi trường đầu tư thuận lợi là điều kiện quan trọng để thu hút đầu tư nước
ngoài. Quy mô sản xuất được mở rộng đã tạo thêm việc làm cho người lao động
và có tác dụng trở lại với thị trường lao động, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập
cho người lao động và tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân.
Để chính sách tiền lương phát huy được hiệu quả thì các chính sách liên
quan như chính sách đào tạo, chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm, phát triển hệ
thống dịch vụ việc làm, chính sách xóa đói giảm nghèo sẽ làm cho thị trường
lao động phát triển toàn diện hơn. Nhà nước cũng đang tiếp tục nghiên cứu cải
cách các chính sách toàn diện triệt để hơn chính sách tiền lương cho phù hợp
với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế như việc ban hành tiền lương
tối thiểu, thiết lập hệ thống thang, bảng lương mới, hướng dẫn các doanh nghiệp
xây dựng thệ thống thang lương, bảng lương, hoàn thiện khung pháp lý về cơ
chế hai bên, ba bên. Tất cả đều nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ngày
càng văn minh, hiện đại.
1.3 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TIỀN LƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH
TIỀN LƯƠNG
1.3.1 Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến tiền lương và chính sách tiền

lương.
Sự phát triển của khoa học công nghệ, những quy định của Nhà nước và
sự vận động của thị trường chính là các yếu tố bên ngoài, yếu tố khách quan ảnh
hưởng đến tiền lương và chính sách tiền lương. Sự phát triển của khoa học công
nghệ và việc vận dụng nó vào quá trình sản xuất kinh doanh đã đem đến hiệu
quả quản lý tốt hơn. Do đó việc vận dụng các chính sách tiền lương của mỗi
doanh nghiệp cũng nhạy bén hơn nên việc xác định quỹ trả lương, phân phối
tiền lương cho người lao dựa trên việc xây dựng đơn giá tiền lương cũng được
diễn ra dễ dàng và khoa học hơn, giúp cho việc thực hiện chính sách tiền lương
được hiệu quả. Quy chế tiền lương luôn thay đổi theo sự phát triển của kinh tế -
xã hội trong từng thời kỳ. Nếu nền kinh tế phát triển nhanh mà vẫn áp dụng quy
chế tiền lương cũ thì trong mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức việc giảm năng suất
lao động, giảm hiệu quả làm việc là khó tránh khỏi do tốc độ tăng tiền lương
không theo kịp tốc độ tăng giá, không kích thích được lao động, không kích
thích được sản xuất phát triển. Chính vì thế, tiền lương tối thiểu chung được quy
định khác nhau trong mỗi giai đoạn sao cho nó phải phản ánh được tình hình
phát triển kinh tế - xã hội. Trước đây, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
phần lớn đều áp dụng Quy chế tiền lương của Nhà nước một cách cứng nhắc để
xây dựng Quy chế tiền lương cho đơn vị mình. Tuy nhiên, do nhiều hạn chế và
chậm đổi mới nên các quy định này trở nên lạc hậu và không còn theo kịp sự
phát triển của thị trường nên ngày ngay, các đơn vị tự xây dựng quy chế tiền
lương cho đơn vị mình gắn với sự biến động của thị trường trên nền tảng chính
sách tiền lương của Nhà nước. Có thể coi sự vận động của thị trường là yếu tố
khách quan lớn nhất ảnh hưởng tới các chính sách tiền lương. Nền kinh tế suy

×