Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.45 KB, 42 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm:
1.1.1. Chi phí sản xuất:
1.1.1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất:
Sự tiến hoá của con người gắn liền với lao động. Có lao động mới
có con người và một xã hội phát triển văn minh như ngày nay. Lao động
kết hợp với tư liệu lao động và đối tượng lao động tạo ra nền sản xuất
xã hội. Nền sản xuất xã hội sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời
sống xã hội, là điều kiện tiên quyết quy định tính tất yếu vĩnh viễn cho
sự tồn tại và phát triển của xã hội. Hay nói cách khác sự phát sinh và
phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với quá trình sản xuất. Ở
bất kỳ phương thức sản xuất nào thì quá trình sản xuất vẫn là sự vận
động và tiêu hao của ba yếu tố (tư liệu lao động, lao động và đối tượng
lao động) để thu được một kết quả nhất định thì người sản xuất phải bỏ
ra chi phí nhất định để tiến hành quá trình sản xuất.
Đối với các doanh nghiệp, quá trình sản xuất là một trong các quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, một mặt đơn vị
phải bỏ ra các khoản chi phí để tiến hành sản xuất, mặt khác đơn vị lại
thu được một lượng kết quả sản xuất gồm thành phẩm và sản phẩm dở
dang. Từ đó hình thành nên khái niệm chi phí sản xuất kinh doanh
“Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao
phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quá trình
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm” (mà thực chất chi phí là sự dịch chuyển
vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính
giá thành sản phẩm, lao vụ dịch vụ)
Chi phí luôn được gắn với các hoạt động làm phát sinh chi phí và
gắn liền với các yếu tố tạo nên quá trình sản xuất, do đó làm phát sinh
các chi phí tương ứng: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi
phí bán hàng,… Nhưng chỉ những chi phí phát sinh để trực tiếp tiến


hành các hoạt động sản xuất mới được gọi là chi phí sản xuất và là bộ
phận quan trọng trong chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy chi phí sản xuất bao gồm rất nhiều loại, nhiều khoản mục
khác nhau cả về nội dung, tính chất công dụng, vai trò, vị trí…trong quá
trình kinh doanh. Để hiểu rõ hơn về bản chất của chi phí sản xuất cũng
như tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán, cần thiết
phải phân loại chi phí sản xuất
1.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất:
Trước hết cần hiểu phân loại chi phí sản xuất là gì?
“Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng
loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định”
Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi
phí sản xuất cũng được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
1.1.1.2.1. Phân loại theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí:
Theo cách phân loại này, căn cứ vào tính chất, nôi dung kinh tế của
CPSX khác nhau để chia ra các yếu tố chi phí, mỗi yếu tố chi phí chỉ
bao gồm những chi phí có cùng một nội dung kinh tế không phân biệt
chi phí đó phát sinh ở lĩnh vực hoạt động sản xuất nào, ở đâu và mục
đích hoặc tác dụng của chi phí đo như thế nào. Các phân loại này còn
gọi là cách phân loại CPSX theo yếu tố chi phí. Theo đó CPSX được
phân loại thành:
Chi phí nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ các chi phí về các loại
nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế,
vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản mà doanh nghiệp đã sử dụng cho các
hoạt động sản xuất trong kỳ.
Chi phí nhân công: Bao gồm toàn bộ số tiền công phải trả, tiền trích
bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn của công nhân và
nhân viên hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp.
Chi phí khấu hao tài sản cố định: Bao gồm toàn bộ số tiền trích
khấu hao TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.

Chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm toàn bộ số tiền doanh nghiệp
ssã chi trả về các loại dịch vụ mua bên ngoài như: tiền điện, tiền nước,
tiền bưu phí..phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Chi phí bằng tiền khác: Bao gồm toàn bộ chi phí khác dùng cho
hoạt động sản xuất ngoài bốn yếu tố chi phí đã nêu trên.
Cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong quản lý sản xuất, nó
cho biết kết cấu tỷ trọng của từng yếu tố CPSX để phân tích, đánh giá
tình hình thực hiện dự toán CPSX, sử dụng để lập các báo cáo quản trị
cung cấp cho các nhà quản trị doanh nghiệp, lập bản thuyết minh báo
cáo tài chính…
1.1.1.2.2. Phân loại theo mục đích, công dụng:
Mỗi yếu tố CPSX phát sinh trong kỳ đều có mục đích và công dụng
nhất định đối với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Dựa vào đó,
người ta có thể phân loại các chi phi có cùng công dụng, mục đích vào
một khoản mục, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế
nào. Do đó cách phân loại này được gọi là phân loại CPSX theo khoản
mục. Theo đó chi phí sản xuất bao gồm:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm toàn bộ các khoản chi
phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng vào mục
đích trực tiếp sản xuất sản phẩm. Không tính vào khoản mục này những
chi phí nguyên vật liệu nhưng được sử dụng cho mục đích sản xuất
chung và những hoạt động ngoài sản xuất
Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm toàn bộ chi phí phải trả về
tiền công, tiền trích BHYT, BHXH, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản
xuất. Không tính vào khoản mục này những chi phí tiền công và trích
các khoản BHXH, BHYT, KPCĐ cuả nhân viên quản lý phân xưởng,
quản lý doanh nghiệp và nhân viên bán hàng.
Chi phí sản xuất chung: Bao gồm toàn bộ những chi phí dùng cho
hoạt động sản xuất chung ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất ngoài hai
khoản mục chi phí đã nêu trên. Chi phí sản xuất chung được chia ra

thành 5 khoản mục nhỏ:
- Chi phí nhân viên phân xưởng
- Chi phí vật liệu
- Chi phí dụng cụ sản xuất
- Chi phí khấu hao TSCĐ
- Chi phí dịch vụ mua ngoài
- Chi phí bằng tiền khác.
Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý chi phí
theo định mức, là cơ sở cho kế toán tập hợp CPSX và tính GTSP theo
khoản mục và la căn cứ để phân tích tình hình thiực hiện kế hoạch giá
thành và định mức CPSX cho kỳ sau.
1.1.1.2.3. Phân loại theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm:
Dựa vào mối quan hệ giữa CPSX phát sinh trong kỳ với khối lượng
sản phẩm, công việc, lao vụ tạo ra trong kỳ làm tiêu thức phân loại.
Theo đó CPSX được phân loại thành 2 loại:
Chi phí khả biến (biến phí): Là những chi phí có sự thay đổi về
lượng tương quan với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất
trong kỳ
Chi phí cố định (định phí): Là những chi phí không thay đổi về tổng
số dù có sự thay đổi trong mức độ hoạt động của sản xuất hoặc khối
lượng sản phẩm công việc lao vụ tạo ra trong kỳ.
Cách phân loại này đặc biệt có ý nghĩa lớn đối với kế toán quản trị
trong việc phân tích điểm hoà vốn và phục vụ việc ra quyết định quản lý
cần thiết để hạ GTSP từ đó tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.1.1.2.4. Phân loại theo phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và mối
quan hệ với đối tượng tập hợp chi phí:
Phân loại CPSX theo tiêu thức này thì CPSX được chia thành hai
loại:
Chi phí trực tiếp: Chi phí trực tiếp là những CPSX có quan hệ trực
tiếp đến việc sản xuất ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định.

Những chi phí trực tiếp kế toán có thể hạch toán trực tiếp cho đối tượng
chịu chi phí căn cứ vào số liệu trên chứng từ.
Chi phí gián tiếp: Chi phí gián tiếp là những CPSX có liên quan đến
việc sản xuất ra nhiều loại sản phẩm, nhiều công việc. Những chi phí
này khi hạch toán, kế toán phải phân bổ cho các đối tượng có liên quan
theo một tiêu thức thích hợp.
Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định
phương pháp kế toán tập hợp chi phí và phân bổ chi phi cho các đối
tượng một cách đúng đắn, hợp lý.
1.1.1.2.5. Phân loại theo nôi dung cấu thành của chi phí:
Theo tiêu thức phân loại là nội dung cấu thành của chi phí thì chi
phí cũng được chia thành 2 loại:
Chi phí đơn nhất: Là chi phí do một yếu tố duy nhất cấu thành ví dụ
như: chi phí nguyên vật liệu chính, tiền công công nhân sản xuất…
Chi phí tổng hợp: Là những chi phí do nhiều yếu tố tập hợp lại theo
cùng một công dụng như chi phí sản xuất chung…
Cách phân loại này giúp cho việc nhận thức vị trí của từng loại chi
phí trong việc hạ GTSP để tổ chức kế toán tập hợp CPSX thích hợp với
từng loại.
1.1.2. Giá thành sản phẩm:
1.1.2.1. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm:
Trong chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì
quá trình sản xuất là quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ, lao vụ của
doanh nghiệp. Trong quá trình này, doanh nghiệp đồng thời phải bỏ ra
các khoản chi phí nhưng sẽ thu được một kết quả sản xuất nhất định.
Do đó có thể nói bản chất của GTSP là sự chuyển dịch giá trị của các
yếu tố vật chất vào giá trị sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ. Chưa có
sự dịch chuyển này thì không thể nói đến CPSX và GTSP. Trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường, GTSP sẽ bao gồm toàn bộ các khoản
hao phí vật chất thực tế cần bù đắp bất kể nó thuộc bộ phận nào trong

cấu thành giá trị sản phẩm đó. Do đó có thể định nghĩa:
“ Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản
hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối
lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành trong kỳ”
1.1.2.2. Phân loại giá thành:
Giá thành là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp có ý nghĩa rất quan trọng
đối với công tác quản lý của các doanh nghiệp và của nền kinh tế.
Thông qua chỉ tiêu GTSP người ta có thể đánh giá được hiệu quả của
quá trình sản xuất, hiệu quả của việc sử dụng những yếu tố vật chất.
Căn cứ vào GTSP mà các doanh nghiệp xác định được giá cả của sản
phẩm hàng hoá, quyết định mức doanh lợi cao hay thấp, do đó có thể
nói GTSP có chức năng như đòn bẩy kinh tế của doanh nghiệp để bù
đắp CPSX mà doanh nghiệp bỏ ra.
Do có tính chất quan trọng như vậy nên chỉ tiêu giá thành luôn
được xem là một chỉ tiêu cần được xác định một cách chính xác, trung
thực để giúp cho doanh nghiệp cũng như giúp cho nhà nước có căn cứ
xem xét, đánh giá kiểm tra và đề xuất các biện pháp thích hợp ứng với
hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn cụ thể. Để thực hiện
mục tiêu đó, trước hết cần phải phân biệt các loại giá thành với nhau.
Cũng như CPSX, GTSP cũng có thể được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau.
1.1.2.2.1. Phân loại giá thành theo thời gian và cơ sở số liệu tính GTSP:
Phân loại theo tiêu thức thới gian và cơ sở số liệu tính GTSP thì
GTSP được chia thành 3 loại:
Giá thành kế hoạch: Giá thành kế hoạch là GTSP được tính trên cơ
sở CPSX kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính toán giá thành kế
hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và tiến hành
trước khi quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm được bắt đầu. Giá thành
kế hoạch của sản phẩm vừa là mục tiêu phấn đấu vừa là căn cứ để so
sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành cũng

như kế hoạch hạ giá thành của đơn vị.
Giá thành định mức: Giá thành định mức là GTSP được tính trên cơ
sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm.
Cũng như giá thành kế hoạch, việc tính giá thành định mức phải được
tính trước khi quá trình sản xuất diễn ra.Giá thành định mức là công cụ
quản lý định mức của doanh nghiệp là thước đo chính xác để xác định
kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất, giúp cho các
nhà quản lý đánh giá được các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà đơn vị
đang áp dụng từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là GTSP được tính trên cơ sở
số liệu CPSX thực tế đã phát sinh và tập hợp trong kỳ và sản lượng sản
phẩm thực tế đã sản xuất ra trong kỳ. Khác với giá thành kế hoạch và
giá thành định mức, giá thành thực tế chỉ tính toán được sau khi quá
trình sản xuất chế tạo sản phẩm kết thúc. Giá thành thực tế là chỉ tiêu
kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả của doanh nghiệp trong việc tổ chức
và sử dụng các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật để thực hiện quá
trình sản xuất sản phẩm; nó cũng là cơ sở để xác định kết quả hoạt
động của doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp biết được tình hình sử
dụng chi phí và giá thành có hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của công
tác kế toán hay không.
1.1.2.2.2. Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán:
Theo phạm vi tính toán thì giá thành được chia thành hai loại:
Giá thành sản xuất (hay còn gọi là giá thành công xưởng): Giá
thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất (chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất
chung) tính cho những sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Giá
thành sản xuất của sản phẩm được sử dụng để ghi sổ cho sản phẩm đã
hoàn thành nhập kho và nó cũng là căn cứ để tính toán giá vốn hàng
bán và lãi gộp ở các doanh nghiệp sản xuất.

Giá thành toàn bộ: Giá thành toàn bộ của sản phẩm bao gồm giá
thành sản xuất của sản phẩm cộng thêm chi phí quản lý doanh nghiệp
và chi phí bán hàng tính cho sản phẩm đó. Giá thành toàn bộ chỉ được
tính khi sản phẩm, công việc hoặc lao vụ được xác định là đã tiêu thụ.
Dựa vào giá thành toàn bộ, doanh nghiệp có thể xác định kết quả
sản xuất phục vụ cho việc tính lợi nhuận, do đó giá thành toàn bộ đóng
vai trò quan trọng trong các quyết định kinh doanh đúng đắn mang tính
chiến lược dài hạn của các nhà quản trị doanh nghiệp.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
CPSX và GTSP là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất. CPSX
là mặt hao phí sản xuất (đầu vào) còn GTSP phản ánh mặt kết quả sản
xuất (đầu ra) cho nên CPSX và GTSP có mối liên hệ mật thiết với nhau,
có nguồn gốc giống nhau nhưng cũng có những điểm khác nhau về
phạm vi và hình thái biểu diễn.
Mối quan hệ chặt chẽ của CPSX và GTSP được thể hiện qua
những điểm cơ bản sau:
CPSX và GTSP đều là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về
lao động sống và lao động vật hoá. CPSX là căn cứ để tính GTSP và nó
ảnh hưởng trực tiếp đến GTSP
Tuy vậy CPSX và GTSP không phải là một, chúng có tính riêng biệt
và nội dung kinh tế không giống nhau.
Trong khi CPSX luôn gắn với thời kỳ phát sinh chi phí nhất định còn
GTSP lại gắng với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ, dịch vụ đã
sản xuất hoàn thành.
CPSX phát sinh trong kỳ bao gồm những chi phí phát sinh thực tế ở
kỳ này, không phân biệt chi phí đó phải trả kỳ trước hoặc kỳ sau, CPSX
ở mỗi kỳ độc lập với nhau. Ngược lại GTSP lại bao gồm phần lớn CPSX
phát sinh kỳ này và một phần chi phí đã chi ra ở kỳ trước ( tồn tại dưới
dạng sản phảm dở dang) nhưng được tính cho sản phẩm trong kỳ này.
Trong một quy trình sản xuất, CPSX kỳ trước chuyển sang cho kỳ

này thường không khớp với CPSX kỳ này chuyển sang kỳ sau nên
CPSX trong một kỳ thường không khớp với tổng giá thành hoàn thành
trong kỳ đó. Mối quan hệ này có thể được biểu diễn như sau:
CPSX DD ĐK CPSX phát sinh trong kỳ
GTSP CPSX DD CK
Qua đó ta có thể thấy:
Tổng giá
thành SP
hoàn thành
=
Chi phí
SP dở
dang
đầu kỳ
+
Chi phí sản
xuất phát
sinh trong
kỳ
-
Chi phí
SP dở
dang
cuối kỳ
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành và CPSX phát sinh trong kỳ
chỉ bằng nhau khi CPSX DD ĐK bằng đúng CPSX DD CK hoặc trong
các ngành sản xuất không có SPDD
1.1.4. Ý nghĩa, nhiệm vụ hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
Trong công tác quản lý doanh nghiệp, CPSX và GTSP là những chỉ
tiêu kinh tế quan trọng luôn luôn đựơc các nhà quản lý quan tâm. Hai

chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của hoạt động sản xuất trong doanh
nghiệp, thông tin do kế toán cung cấp về hai chỉ tiêu này là căn cứ quan
trọng để các nhà quản lý phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các
định mức chi phí và dự toán chi phí, tình hình sử dụng tài sản, vật tư…
để từ đó có các quyết định quản lý thích hợp.
Với tầm quan trọng như vậy nên vấn đề tổ chức công tác kế toán
tập hợp CPSX và tính GTSP trở nên rất quan trọng. Để đảm bảo cung
cấp thông tin đầy đủ, trung thực và kịp thời yêu cầu của quản lý CPSX
và tính GTSP, kế toán CPSX và tính GTSP phải đảm bảo thực hiện đầy
đủ các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất là việc xác định đối tượng tập hợp CPSX và phương pháp
tính GTSP phải phù hợp với đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ
chức sản xuất của doanh nghiệp.
Thứ hai, phải tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại CPSX theo
đúng đối tượng tập hợp CPSX đã xác định và bằng phương pháp thích
hợp đã chọn, cung cấp kịp thời những số liệu thông tin tổng hợp về các
khoản mục chi phí và yếu tố chi phí quy định, xác định đúng đắn chi phí
của sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Thứ ba là vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính
toán tổng giá thành và giá thành đơn vị của các đối tượng tính giá thành
theo đúng các khoản mục quy định và đúng kỳ tính giá thành đã xác
định.
Thứ tư là định kỳ tổ chức lập và phân tích các báo cáo về CPSX và
giá thành cho lãnh đạo doanh nghiệp và tiến hành phân tích tình hình
thực hiện kế hoạch giá thành và kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, phát
hiện kịp thời khả năng tiềm tàng để đề xuất các biện pháp thích hợp để
phấn đấu đạt mục tiêu tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản
phẩm
1.2. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp sản xuất:

1.2.1. Hạch toán chi phí sản xuất:
1.2.1.1.Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất:
Để hạch toán CPSX và tính GTSP được chính xác, kịp thời đảm
bảo cung cấp các thông tin kế toán trung thực thì việc đầu tiên đó là
phải xác định đúng đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng tính GTSP.
Công việc này có tầm quan trọng đặc biệt cả trong lý luận và trong thực
tiễn hạch toán.
Trước hết xét đến đối tượng tập hợp CPSX, đây là khâu đầu tiên
cần thiết của công tác kế toán tập hợp CPSX. Có xác định đúng đắn đối
tượng tập hợp CPSX phù hợp với đặc điểm tình hình hoạt động sản
xuất, đặc điểm quy trình sản xuất sản phẩm và đáp ứng được yêu cầu
quản lý CPSX của doanh nghiệp mới giúp cho công việc tổ chức kế toán
tập hợp CPSX một cách tốt nhất. Vậy xác định đối tượng tập hợp CPSX
là như thế nào?
“ Xác định đối tượng tập hợp CPSX chính là việc xác định giới hạn
tập hợp chi phí” mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi
chiụ chi phí.
Để xác định được đối tượng tập hợp CPSX một cách chính xác thì
cần dựa vào những căn cứ sau:
Thứ nhất là phải dựa vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: là
sản xuất giản đơn hay phức tạp. Với sản xuất giản đơn thì đối tượng tập
hợp CPSX có thể là sản phẩm hoặc toàn bộ quá trình sản xuất hoặc có
thể là một nhóm sản phẩm…Với sản xuất phức tạp thì đối tượng tập
hợp CPSX có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến,
phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm…
Thứ hai là phải dựa vào loại hình sản xuất: Là sản xuất đơn chiếc
hay sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. Với sản xuất đơn chiếc thì
đối tượng tập hợp CPSX thường là các đơn đặt hàng riêng biệt. Còn với
loại hình sản xuất hàng loạt thì đối tượng tập hợp CPSX có thể là sản
phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết…

Thứ ba là phải dựa vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản
xuất kinh doanh. Với trình độ cao thì có thể chi tiết đối tượng tập hợp
CPSX ở nhiều góc độ khác nhau. Ngược lại nếu như trình độ quản lý
cũng như tổ chức sản xuất kinh doanh thấp thì đối tượng đó có thể bị
thu hẹp lại.
1.2.1.2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất:
Phương pháp hạch toán CPSX là một phương pháp hay hệ thống
các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các CPSX
trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán CPSX.
Nếu xét trên góc độ xem xét phương pháp gắn với đối tượng hạch
toán thì phương pháp hạch toán CPSX bao gồm các phương pháp hạch
toán CPSX theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng,… Nếu theo góc độ tập
hợp CPSX trực tiếp hay gián tiếp cho kết quả sản xuất cần tính giá thì
bao gồm có phương pháp hạch toán trực tiếp và phương pháp hạch
toán gián tiếp. Nếu dựa vào phương pháp hạch toán hàng tồn kho thì
bao gồm: phương pháp hạch toán CPSX theo phương pháp kê khai
thường xuyên và hạch toán CPSX theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
Để hiểu rõ hơn phương pháp hạch toán CPSX ta có thể xem xét
phương pháp hạch toán CPSX trong các doanh nghiệp áp dụng phương
pháp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên
và kiểm kê định kỳ.
1.2.1.2.1 Phương pháp hạch toán CPSX theo phương pháp kê khai thường
xuyên:

×