Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

CHUYÊN ĐỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC MẦM NON (Dành cho sinh viên Sư phạm Giáo dục mầm non)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.28 KB, 54 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CHUYÊN ĐỀ

QUẢ N LÝ GIÁO DỤC MẦM NON
(Dành cho sinh viên Sư phạm Giáo dục mầm non)

Biên soạn: TS. Bùi Việt Phú

Đà Nẵng - 2017
1


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.1.1. Quản lý
Hoạt động quản lý xuất hiện từ thuở bình minh của loài người và phát triển cùng với sự tiến
bộ của xã hội. Trong quá trình lao động và đấu tranh với thiên nhiên, để sinh tồn và phát triển con
người cần phải hợp sức với nhau. Ban đầu là do nhu cầu tự vệ và kiếm sống, về sau là nhằm huy
động sức mạnh chung cho các mục đích khác nhau. Những hoạt động cần đến sự phối hợp, điều
khiển công việc đều mang dấu ấn của quản lý. Quản lý là một dạng lao động xã hội gắn liền và phát
triển cùng với lịch sử hình thành và phát triển của loài người. Quản lý là dạng lao động đặc biệt, nó
đòi hỏi có tính khoa học và nghệ thuật cao; là sản phẩm có tính lịch sử, tính đặc thù của xã hội.
Nghiên cứu về quản lý, Karl Marx viết: “Bất cứ lao động nào có tính xã hội, cộng đồng được thực
hiện ở qui mô nhất định đều cần ở chừng mực nhất định sự quản lý, giống như người chơi vĩ cầm
một mình thì tự điều khiển còn một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng”.
Chúng ta có thể hiểu lao động xã hội và quản lý không tách rời nhau và quản lý là lao động
điều khiển lao động chung. Khi lao động xã hội đạt đến qui mô phát triển nhất định thì sự phân
công lao động tất yếu sẽ dẫn đến việc tách quản lý thành một hoạt động đặc biệt. Lúc đó xã hội hình


thành một bộ phận trực tiếp sản xuất, một bộ phận khác chuyên hoạt động quản lý, hình thành nghề
quản lý. Quan niê ̣m về quản lý tổ chức có nhiều cách thể hiện:
- Quản lý là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
đến khách thể quản lý nhằm đạt tới các mục tiêu đề ra.
- Quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc thông qua
nỗ lực của người khác.
- Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự cùng
chung một mục đích.
- Quản lý là một hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được
các mục đích của nhóm.
Những định nghĩa trên tuy khác nhau về cách diễn đạt, nhưng đều có nội hàm chủ yếu sau:
- Quản lý luôn luôn gắn liền với một tổ chức (hệ thống), trong đó chủ thể quản lý với vai trò tác
nhân tạo ra các tác động đến khách thể quản lý nhằm đưa tổ chức đạt tới mục tiêu.
- Khách thể quản lý (có thể là một nhóm người hay một người bị quản lý) tiếp nhận trực tiếp
hoặc gián tiếp các tác động của chủ thể quản lý.
- Phải có mục tiêu quản lý và mục tiêu hoạt động của tổ chức mà người quản lý và mọi người bị
quản lý hướng tới. Trong thực tiễn hai mục tiêu nói trên luôn luôn tiếp cận với nhau.
- Phải có hệ thống phương tiện thực hiện mục tiêu (luật pháp, chính sách và cơ chế; bộ máy tổ chức và
nhân sự; cơ sở vật chất; môi trường hoạt động, thông tin cần thiết...).
- Đối tượng quản lý có thể có quy mô toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, một hệ thống (tổ
chức); có thể là một con người cụ thể, sự vật cụ thể ...
Như vậy, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng, có kế hoạch của chủ
1


thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (người bị quản lý và các yếu tố
chịu ảnh hưởng tác động của chủ thể quản lý) về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội..., bằng
một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể
nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt tới mục tiêu quản lý.
1.1.2. Quản lý giáo dục

Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy
luật của chủ thể quản lý giáo dục đến toàn bộ các phần tử và các lực lượng trong hệ thống giáo dục
nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đúng tính chất, nguyên lý và đường lối phát triển giáo dục,
mà tiêu điểm hội tụ là thực hiện quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến
mục tiêu dự kiến.
Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy
mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Theo nghĩa rộng của giáo dục, với
việc thực hiện triết lý giáo dục thường xuyên và triết lý học suốt đời thì ngoài tiêu điểm là giáo dục
thế hệ trẻ còn phải chăm lo giáo dục cho mọi người. Cho nên: Quản lý giáo dục là sự tác động có
mục đích, có kế hoạch, có ý thức và tuân thủ các quy luật khách quan của chủ thể quản lý giáo dục lên
toàn bộ các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm đưa hoạt động giáo dục đạt tới kết quả mong muốn
(xây dựng và hoàn thiện nhân cách người lao động phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội).
Nhiều nhà nghiên cứu thống nhất rằng, quản lý giáo du ̣c có nhiều cấp độ và có thể phân ra
hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô.
Đối với cấp độ vĩ mô: Quản lý giáo dục cấp độ vĩ mô được nhìn nhận ở góc độ quản lý nhà nước
về giáo dục của các cơ quan quản lý giáo dục. Điều 14 của Luật Giáo dục (2005) nêu: “Nhà nước thống
nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu
chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý chất lượng giáo dục,
thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ
sở giáo dục”.
Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có
hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý giáo dục trong việc huy động, tổ chức, điều phối, điều
chỉnh, giám sát… một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) nhằm đạt
tới mục tiêu phát triển của cả hệ thống giáo dục và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với cấp vi mô: Quản lý giáo dục cấp độ vi mô được nhìn nhận ở góc độ quản lý giáo dục tại các
cơ sở giáo dục (trường học) và được thực hiện bởi chủ thể quản lý của các cơ sở đó (gọi chung là quản lý
nhà trường).
Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có
kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý giáo dục đến tập thể giáo viên, công nhân
viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm

thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ và góp phần đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến.
1.2. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1.2.1. Khái niêm
̣
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về chức năng của quản lý:
- Chức năng quản lý là dạng hoạt động quản lý, thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào
khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định.
2


- Chức năng quản lý là tập hợp các nhiệm vụ mà chủ thể quản lý phải thực hiện để đạt mục
đích và mục tiêu quản lý đã đề ra.
Từ các diễn đạt trên, có thể hiểu: Chức năng quản lý là khái niệm mô tả về phương thức, nội
dung và quy trình tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong quá trình quản lý.
1.2.2. Các chức năng của quản lý giáo dục
Có nhiều quan điểm phân định các chức năng cơ bản của quản lý. Người đầu tiên trong lĩnh
vực này là Henri Fayol đưa ra 5 chức năng: kế hoạch hoá; tổ chức; chỉ đạo, ra lệnh (hay chỉ huy);
phối hợp và kiểm tra. Tại Hội nghị của UNESCO (tổ chức tại Băng Cốc, năm 1982), một số nhà
khoa học đưa ra 7 chức năng quản lý là kế hoạch hoá, tổ chức, bố trí biên chế, chỉ đạo, phối hợp,
tổng kết và quyết toán ngân sách. Năm 1990, công trình The Management Challenge, An
Introduction to Management của Higgins James M. được công bố và trong công trình này tác giả đã
khẳng định quản lý có 4 chức năng cơ bản là kế hoạch hoá (planning), tổ chức (organizing), chỉ đạo
(leading) và kiểm tra (controlling). Ở Việt Nam, một số tác giả nêu 5 chức năng quản lý: kế hoạch
hoá, tổ chức, kích thích, kiểm tra và điều phối; hoặc: kế hoạch hoá, tổ chức, phối hợp, điều chỉnh kích thích và kiểm tra - hạch toán.
So sánh các quan điểm trên thì quan điểm của Higgins James M. là tổng quát hơn cả, vì việc
bố trí biên chế đã có trong khâu tổ chức; các hoạt động ra lệnh (hay chỉ huy), phối hợp, kích thích,
điều phối đã có trong khâu chỉ đạo; việc tổng kết và quyết toán ngân sách đã có trong khâu kiểm tra.
Như vậy, quản lý có 4 chức năng cơ bản là kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
a) Kế hoạch hoá là việc dựa trên những thông tin về chế định giáo du ̣c và đào ta ̣o, bộ máy tổ

chức và nhân lực của tổ chức, nguồn tài lực và vâ ̣t lực của tổ chức, môi trường hoạt động của tổ
chức và các thông tin về lĩnh vực hoạt động của tổ chức mà vạch ra mục tiêu, dự kiến nguồn lực
(nhân lực, tài lực và vật lực), dự kiến về thời lượng, xác định nguồn huy động các phương tiện và
điều kiện; đồng thời chỉ ra các biện pháp thực hiện mục tiêu.
b) Tổ chức là việc thiết lập cấu trúc bộ máy, bố trí nhân lực và xây dựng cơ chế hoạt động,
đồng thời ấn định chức năng, nhiệm vụ cho các bộ phận và cá nhân, quy định cơ chế phố i hơ ̣p, huy
động, sắp xếp và phân bổ các nguồn lực vật chất nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã có.
c) Chỉ đạo là việc hướng dẫn công việc, liên kết, liên hệ, động viên, kích thích, giám sát các
bộ phận và mọi cá nhân thực hiện kế hoạch đã có theo đúng dụng ý đã xác định trong khi thực hiện
chức năng tổ chức.
d) Kiểm tra là việc theo dõi và đánh giá mọi hoạt động của từng đơn vị hoặc của mỗi cá
nhân trong tổ chức bằng nhiều phương pháp và hình thức (trực tiếp hoặc gián tiếp, thường xuyên
hoặc định kỳ...) nhằm so sánh kết quả hoạt động với mục tiêu đã xác định để nhận biết về chất
lượng và hiệu quả các hoạt động đó. Từ đó tìm ra những mặt được, những mặt chưa phù hợp và
những sai phạm để đưa ra các quyết định phát huy, điều chỉnh hoặc xử lý.
Chú ý:
- Một chu trình quản lý được hiểu là quá trình thực hiện các chức năng quản lý nêu trên.
- Khi xem xét nguyên nhân của các kết quả quản lý cần rà soát lại các chức năng kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo và ngay cả khâu kiểm tra xem các mặt tốt và đặc biệt là chưa tốt là do khâu nào (kế
hoạch chưa đúng, tổ chức sai, chỉ đạo còn hạn chế, hoặc vì lý do kiểm tra).

3


1.3. NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1.3.1. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
Đây là nguyên tắc cơ bản hàng đầu của quản lý giáo dục. Nguyên tắc này xuất phát từ chỗ nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp cách mạng
do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo (Theo điều 4 Hiến pháp nước cộng hòa XHCN Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội).

a) Yêu cầu của nguyên tắc
Đảng lãnh đạo giáo dục thông qua các chỉ thị, nghị quyết. Sự lãnh đạo của Đảng về mặt tư
tưởng cũng như về mặt tổ chức phải được đảm bảo một cách tuyệt đối ở mọi cấp quản lý giáo dục.
Mọi chủ trương, chính sách giáo dục đề ra phải phục vụ đường lối và nhiệm vụ cách mạng
trong từng giai đoạn. Đồng thời khi xem xét, đánh giá kết quả, ảnh hưởng của một chủ trương chính
sách giáo dục phải đứng vững trên lập trường và quan điểm của Đảng, căn cứ vào lợi ích của toàn
thể nhân dân lao động.
Mọi chủ thể quản lý giáo dục phải nắm vững, quán triệt các quan điểm của Đảng về giáo dục;
nghiêm túc, kiên trì tổ chức thực hiện đường lối giáo dục của Đảng, biến đường lối đó thành hiện
thực. Nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục phải bảo đảm nguyên lý giáo dục của chủ nghĩa
Mác – Lênin và đường lối, chính sách giáo dục của Đảng.
Trong các nhà trường phải tổ chức và lãnh đạo toàn diện việc giáo dục đường lối, chính sách
của Đảng và đạo đức cách mạng cho học sinh, nâng cao trình độ giác ngộ XHCN cho giáo viên và
nhân viên; tổ chức cho học sinh và giáo viên tham gia các hoạt động xã hội ở địa phương theo chủ
trương của Đảng.
Người đứng đầu cơ quan quản lý giáo dục các cấp (từ Bộ Giáo dục và Đào tạo đến các cơ sở
giáo dục) tôn trọng sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng theo đúng quy định của điều lệ Đảng. Mặt
khác, người quản lý phải quan tâm xây dựng chi bộ Đảng và các đoàn thể quần chúng trong đơn vị
công tác, phát huy ảnh hưởng chính trị của các tổ chức đó trong toàn đơn vị. Giáo dục, nhà trường
không đứng ngoài chính trị mà phục vụ chính trị. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong
quản lý giáo dục đã và đang là nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn trong
công cuộc đổi mới quản lý giáo dục hiện nay.
Thực hiện tốt nguyên tắc này là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng về giáo dục.
b) Một số biện pháp thực hiện nguyên tắc
Để thực hiện nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong quản lý giáo dục đòi hỏi chủ
thể quản lý phải nghiên cứu, nắm vững các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về giáo dục và có trách
nhiệm tổ chức thực hiện nghiêm túc trong phạm vi từng đơn vị; phải làm cho đường lối, chính sách
giáo dục của Đảng trở thành hệ tư tưởng chỉ đạo toàn bộ công tác giáo dục.
Giáo viên là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục, nên cần phải coi trọng công tác giáo

dục chính trị tư tưởng, thuyết phục, động viên, làm cho họ nhận thức sâu sắc quan điểm giáo dục
của Đảng và tự giác thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên
mạnh về tổ chức, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có đầy đủ những phẩm chất và năng lực cần
thiết để hiện thực hóa mục tiêu giáo dục.

4


Mặt khác, để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cần chăm lo xây dựng các tổ chức Đảng và tổ
chức quần chúng trong Ngành vững mạnh; chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền nhằm
nâng cao khả năng tổ chức chỉ đạo thực hiện; gắn hoạt động giáo dục của nhà trường, của các cơ sở
giáo dục với các phong trào chính trị - xã hội ở địa phương; tích cực huy động cộng đồng xã hội
tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục theo đúng đường lối, chủ trương giáo dục của Đảng.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong quản lý giáo dục là đảm bảo sự thống nhất giữa chính
trị và quản lý giáo dục. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi mỗi cơ quan giáo dục phải xây dựng
chương trình hành động thiết thực, cụ thể để thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà
nước về giáo dục.
1.3.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc bắt nguồn từ bản chất của chế độ XHCN, là nguyên tắc chỉ
đạo toàn bộ hoạt động quản lý. Điều 6 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nêu rõ: “Quốc
hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ”. Tinh thần của nguyên tắc này trong quản lý giáo dục là ở chỗ phải thường
xuyên kết hợp sự lãnh đạo tập trung với sự tham gia của quảng đại quần chúng lao động vào công
việc tổ chức quản lý giáo dục. Nhà nước thống nhất, tập trung quản lý về chế độ, chính sách giáo
dục, về mục tiêu, nội dung giáo dục và qui chế, văn bằng..., đồng thời tạo điều kiện cho cơ sở chủ
động sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động giáo dục và quản lý giáo du ̣c cụ thể. Các cơ sở
phát huy quyền làm chủ của tập thể sư phạm, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân theo chế độ Thủ
trưởng đối với việc quản lý nhà nước, thực hiện dân chủ hoá giáo dục, thực hiện Quy chế dân chủ
trong nhà trường.
a) Yêu cầu của nguyên tắc

Phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân chủ trong quản lý. Tập
trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, tập trung phải trên cơ sở dân chủ và dân chủ
phải thực hiện trong khuôn khổ tập trung.
Khía cạnh tập trung thể hiện ở chỗ phải thống nhất quản lý từ một trung tâm. Phải tăng
cường quản lý tập trung, thống nhất trên quy mô toàn quốc về những vấn đề cơ bản. Có nghĩa là cần
có sự chỉ huy, điều phối thống nhất dựa trên quan hệ mệnh lệnh - phục tùng từ cấp quản lý Trung
ương đến các cơ sở trong thực hiện quá trình giáo dục đào tạo, mặt khác cần đảm bảo sự nhất quán
trong thực hiện đường lối giáo dục của Đảng, không có bất kỳ ngoại lệ nào. Tập trung biểu hiện ở
hai điểm chính:
- Thứ nhất, có bộ chỉ huy làm nhiệm vụ lãnh đạo;
- Thứ hai, có lề lối làm việc hợp lý.
Khía cạnh dân chủ biểu hiện ở chỗ phải phát huy mở rộng tối đa quyền chủ động của các địa
phương, các cơ sở giáo dục, của quần chúng lao động trong việc giải quyết các vấn đề trọng yếu của
giáo dục, bằng các phương pháp, phương tiện đa dạng, sáng tạo. Nguyên tắc tập trung dân chủ gắn
liền với vấn đề phân cấp quản lý trong quản lý giáo dục. Một đặc trưng quan trọng của nguyên tắc
này đó là sự phân cấp quản lý thích hợp. Vấn đề phân cấp quản lý còn liên quan tới nguyên tắc kết
hợp giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Bản chất của việc phân cấp quản lý là sự ủy
quyền từ cấp quản lý cao hơn cho cấp quản lý thấp hơn. Sự ủy quyền này kèm theo những vấn đề về
tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của mỗi cấp. Một trong những nét đặc trưng
của hệ thống giáo dục đào tạo là mạng lưới giáo dục đào tạo trải rộng đến tận thôn xã, vì vậy vấn đề
5


phân cấp quản lý là một đòi hỏi khách quan, hợp quy luật. Trong quản lý giáo dục, đảm bảo dân chủ
còn thể hiện ở việc thực hiện công khai, cung cấp đầy đủ thông tin để cán bộ, công nhân viên, giáo
viên được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra, giám sát. Dân chủ biểu hiện ở năm điểm
chính là:
Thứ nhất, xác định rõ phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của các cấp;
Thứ hai, đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở;
Thứ ba, chấp nhận đấu tranh, chấp nhận liên kết;

Thứ tư, giáo dục bồi dưỡng cho quần chúng, tạo cơ hội cho họ được học tập nâng cao trình
độ về mọi mặt để đảm bảo thực hiện tốt việc quần chúng “ biết, bàn, làm và kiểm tra”;
Thứ năm, giảm bớt việc họp hành không cần thiết, tiết kiệm thời gian cho các cấp làm tốt
công việc của họ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ có nội dung phong phú và có vai trò quan trọng trong quản lý.
Thực hiện nguyên tắc này vừa đề cao trách nhiệm của cá nhân người phụ trách, vừa đề cao quyền
làm chủ của người lao động, vừa chống được tình trạng tập trung quan liêu, vừa chống được tình
trạng bè phái, đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động, làm tăng sức mạnh của tổ chức.
b) Một số biện pháp thực hiện nguyên tắc
Nguyên tắc này đòi hỏi thực hiện nghiêm túc chế độ thủ trưởng kết hợp với chế độ lấy ý
kiến tập thể.
Trong tất cả các trường hợp, không có ngoại lệ, tính tập thể phải đi đôi với việc xác định
một cách chính xác nhất trách nhiệm cá nhân của mỗi người đối với từng công việc.
Trong các cuộc thảo luận, lấy ý kiến tập thể cần đi đến kết luận rõ ràng, dứt khoát. Người
quản lý cần cố gắng làm cho những quyết định của thủ trưởng phù hợp với ý kiến tập thể, để nó trở
thành một quyết tâm, một tiếng nói, một hành động chung. Điều này đòi hỏi người quản lý phải có
trình độ và nghệ thuật quản lý.
Tăng cường kỷ luật, mở rộng dân chủ, đề cao trách nhiệm, làm rõ trách nhiệm cá nhân, trách
nhiệm tập thể trong từng công việc cụ thể. Tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm cho tập thể, thảo
luận, “thương lượng” kéo dài, không đi đến kết luận rõ ràng làm công việc không tiến triển, đồng
thời tránh độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, xa rời quần chúng, quan liêu, mất dân chủ. Trong
các cơ sở giáo dục phải thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc có tính khách quan, phổ quát, song thực hiện nó không
đơn giản, phụ thuộc rất nhiều vào bản lĩnh, phẩm chất đạo đức và phong cách của người quản lý.
Vận dụng nguyên tắc này không đúng mức đều gây tác hại. Hoặc tập trung quan liêu, mất dân chủ,
hoặc dân chủ hình thức, hoặc dân chủ quá trớn, theo đuôi quần chúng, hoặc phân tán cục bộ... đều
cản trở sự phát triển của tổ chức. Vì vậy, người QL phải không ngừng học tập, trau dồi kiến thức,
nghiệp vụ quản lý, đồng thời rèn luyện phong cách quản lý để đảm bảo kết hợp hài hòa chế độ thủ
trưởng với chế độ tập thể.
1.3.3. Nguyên tắc pháp chế

Tăng cường pháp chế XHCN là một nguyên tắc quan trọng đối với tổ chức và hoạt động
của các cơ quan Nhà nước (Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã khẳng định:
Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN).
a) Yêu cầu của nguyên tắc
6


Các cơ quan quản lý giáo dục phải tuân thủ quy chế quản lý hành chính của bộ máy Nhà
nước. Điều đó có nghĩa là:
Cơ quan quản lý giáo dục phải là một cơ quan có tư cách pháp nhân công quyền trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo, có đủ thẩm quyền thực thi quyền hành pháp để quản lý các hoạt động giáo
dục của xã hội bằng pháp luật.
Các cơ quan quản lý giáo dục phải là một hệ thống cơ cấu có tổ chức và chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, thẩm quyền được thế chế hóa bằng những văn bản pháp quy để thực hiện việc quản
lý với tư cách là bộ máy Nhà nước.
Pháp chế có vai trò quan trọng là đảm bảo và bảo vệ quyền tự do và lợi ích hợp pháp của
công dân. Tăng cường pháp chế là một đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp đổi mới kinh tế – xã hội và
đổi mới giáo dục, đảm bảo dân chủ và ngăn chặn, loại trừ các vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật
lao động. Vì thế để nâng cao hiệu lực quản lý, yêu cầu mọi chủ thể quản lý giáo dục phải hoạt động
trên nguyên tắc pháp chế.
Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi công tác tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý giáo
dục, của mọi chủ thể quản lý giáo dục phải tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, chống sự
lạm quyền, lẩn tránh nghĩa vụ.
Mọi cán bộ, giáo viên phải tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu của pháp luật
và các quy phạm của ngành trong hoạt động của mình. Những người vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ
luật lao động phải được xử lý nghiêm minh. Đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong quản lý giáo dục là
điều kiện để giữ nghiêm kỷ luật.
b) Một số biện pháp thực hiện nguyên tắc
Coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho đối tượng quản lý để hình thành cho
họ có ý thức pháp luật, tạo điều kiện để mọi cán bộ, công nhân viên, giáo viên và học sinh nắm

vững và thực hiện nghiêm chỉnh những chế độ, quy định của Nhà nước cũng như nội quy, quy chế
của nhà trường.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và các quy phạm của ngành trong
phạm vi đơn vị. Phát hiện sai sót trong quá trình thực hiện để kịp thời uốn nắn, sửa chữa. Giữ vững
trật tự, kỷ cương, nền nếp trong mọi hoạt động giáo dục.
Cán bộ quản lý giáo dục nhất thiết phải là những người nắm vững pháp luật, nắm vững các
quy phạm của ngành để quản lý đơn vị theo đúng pháp luật.
1.3.4. Nguyên tắc kết hợp Nhà nước và xã hội
Xuất phát từ luận điểm “giáo dục là sự nghiệp của toàn dân” (toàn dân chăm lo cho sự nghiệp
giáo dục), nguyên tắc này giữ vai trò quan trọng trong quản lý giáo dục.
a) Yêu cầu của nguyên tắc
Từ đặc điểm quan trọng của hệ thống quản lý giáo dục là sự tham gia ngày càng tăng của
quần chúng lao động, của các tổ chức xã hội vào việc xây dựng và quản lý giáo dục, quản lý nhà
trường, nguyên tắc này đòi hỏi phải kết hợp quản lý giáo dục mang tính chất nhà nước với quản lý
giáo dục mang tính chất xã hội.
Quản lý có tính chất nhà nước là hoạt động có tính chỉ huy - chấp hành, thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền do Nhà nước qui định, phân cấp trong các hoạt động quản lý giáo dục. Thực
hiện quản lý giáo dục có tính chất Nhà nước là: hoạch định các chính sách cho giáo dục - đào tạo; lập
7


pháp, lập qui cho các hoạt động giáo dục - đào tạo; thực hiện quyền hành pháp trong quản lý giáo dục;
tổ chức bộ máy quản lý giáo dục; huy động các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục; thanh tra,
kiểm soát nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương, pháp luật trong hoạt động quản lý và phát triển sự nghiệp
giáo dục. Với mỗi cấp quản lý, các nội dung đó lại một bước được cụ thể hoá. Trong các trường học,
thực hiện quản lý có tính chất nhà nước là thực hiện tốt các nội dung: tổ chức thực hiện chủ trương,
chính sách giáo dục thông qua việc thực hiện mục tiêu, nội dung giáo dục và đảm bảo các qui chế
chuyên môn; quản lý đội ngũ cán bộ giáo viên, cơ sở vật chất thiết bị, tài chính... theo các qui định
chung; thực hiện kiểm tra nội bộ, bảo đảm an ninh trật tự trong nhà trường; điều hành các hoạt động
của nhà trường theo đúng Điều lệ Nhà trường đã được ban hành và giám sát sự tuân thủ điều lệ đó.

Quản lý giáo dục có tính chất xã hội là huy động sự tham gia của các đoàn thể quần chúng nhân
dân, các tổ chức xã hội vào thực hiện các chức năng xã hội nhất định của sự nghiệp giáo dục. Đó có thể
là tham gia độc lập hoặc cộng tác với các cơ quan nhà nước, tham gia cùng các cơ sở giáo dục (dựa vào
các chuẩn mực, điều lệ của tổ chức xã hội và sức mạnh tác động của tổ chức) nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục người học, đào tạo cán bộ, bồi dưỡng giáo viên hoặc bổ sung nguồn lực cho
các nhà trường, các cơ sở giáo dục (về tri thức khoa học, nghệ thuật, chính trị; kinh nghiệm quản lý; xây
dựng cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục; chăm lo đời sống nhà giáo; tạo môi trường xã hội thuận lợi cho
công tác giáo dục).
Kết hợp Nhà nước và xã hội trong quản lý giáo dục là tạo môi trường cho mối quan hệ giữa
giáo dục và xã hội phát huy tối đa vai trò của mình. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ nâng cao hơn,
gắn bó hơn, làm phong phú hơn trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với sự nghiệp phát triển
giáo dục, tạo điều kiện cho giáo dục khẳng định vai trò thúc đẩy phát triển xã hội và khơi dậy mọi
tiềm năng, huy động mọi nguồn lực trong cộng đồng xã hội để phát triển bền vững giáo dục.
b) Một số biện pháp thực hiện nguyên tắc
Quản lý giáo dục phải thực hiện chức năng dự báo, đảm bảo cho giáo dục luôn có sự thích
ứng với sự phát triển kinh tế – xã hội.
Đối với các cơ sở giáo dục cần nắm vững các văn bản: Luật giáo dục, các nghị định hướng
dẫn, văn bản pháp qui về giáo dục để thực hiện nhiệm vụ quản lý.
Xây dụng bộ máy quản lý và đội ngũ cán bộ công chức; qui định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các đối tượng trong tổ chức; có cơ chế phối hợp rõ ràng; đổi mới cách thức tổ chức, chỉ đạo các
hoạt động quản lý, đảm bảo kỉ cương góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
Phải bám sát Điều lệ nhà trường trong triển khai mọi hoạt động.
Thực hiện xã hội hóa giáo dục (nội dung cơ bản là huy động các lực lượng xã hội và cộng
đồng tham gia phát triển giáo dục và quản lý giáo dục); đa dạng hóa nền giáo dục quốc dân; dựa
vào các văn bản pháp luật, pháp qui để đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối với mọi đối tượng tham gia
hoạt động giáo dục, quản lý giáo dục.
Xây dựng và củng cố hoạt động của hội đồng giáo dục các cấp, tạo điều kiện cho các hội
đồng giáo dục hoạt động có hiệu quả.
Trong các nhà trường, cần xây dựng một cơ chế quản lý đảm bảo sự phối hợp giữa hội đồng
giáo dục của nhà trường với các tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội

Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh... trong quản lý trường học; xây dựng và duy trì tốt mối quan hệ
Nhà trường – Gia đình – Xã hội trong việc triển khai các hoạt động giáo dục, trong đó nhà trường giữ
vai trò chủ đạo.
8


1.3.5. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ
Hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân đòi hỏi sự quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo
dục phải tuân theo nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo địa phương, vùng, lãnh
thổ. Cơ sở của nguyên tắc là sự kết hợp hữu cơ giữa quá trình hình thành các đơn vị cơ sở trong hệ
thống giáo dục quốc dân theo địa bàn với vấn đề phân cấp quản lý hành chính theo địa phương,
vùng, lãnh thổ. Khái niệm địa bàn có nhiều nghĩa: Theo quan điểm quản lý hành chính là các địa
phương; theo quan điểm phân bố kinh tế là các vùng kinh tế.
a) Yêu cầu của nguyên tắc
Quản lý nhà nước thống nhất từ Trung ương đến cơ sở về nội dung hoạt động giáo dục và
đào tạo, kết hợp với sự phân cấp và phối hợp quản lý nhà nước về đảm bảo các nguồn lực cho các
hoạt động này theo địa phương, vùng, lãnh thổ.
Phân cấp quản lý thích hợp, qui định rõ ràng phạm vi trách nhiệm của ngành và địa phương
đối với từng vấn đề cụ thể về kế hoạch, tài chính, cơ sở vật chất, đội ngũ... cũng như trách nhiệm,
quyền hạn của thủ trưởng các tổ chức giáo dục trước ủy ban nhân dân địa phương. Trong sự kết hợp
quản lý theo ngành và theo địa phương, vùng lãnh thổ cần phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
địa phương, nhưng phải trên cơ sở đảm bảo vai trò chỉ đạo của quản lý theo ngành. Kết hợp đúng
đắn hai mặt đó giúp tăng cường khả năng phát triển bền vững của giáo dục.
Quản lý theo ngành có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quan điểm, đường lối, chính sách
giáo dục thống nhất trong cả nước; thống nhất mục tiêu, nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục
thông qua chương trình, sách giáo khoa, các điều lệ tổ chức, các chính sách, chế độ...; thống nhất
những vấn đề có tính chất khoa học và chuyên môn; thực hiện hợp tác với các ngành khác trên qui
mô cả nước. Đặc trưng quản lý theo ngành là dựa trên cơ sở quá trình tích tụ và tập trung các nguồn
lực, đặc biệt là nguồn vốn tài chính và trí tuệ; giúp các đơn vị cơ sở của ngành có điều kiện chuyên
môn hóa, nâng cao trình độ công nghệ, tài năng nghề nghiệp của cán bộ giáo viên, tạo điều kiện và

khả năng quản lý tốt nhất, đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, tay nghề quản lý.
Quản lý theo ngành có điều kiện tuyển chọn, đào tạo và sử dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ cán bộ
giáo viên và các nhà quản lý có trình độ cao. Đồng thời có thể tận dụng khai thác tốt nhất mọi tiềm
năng, thế mạnh của ngành để phát triển, nâng cao trình độ, sớm hội nhập với khu vực và quốc tế
ngay ở từng đơn vị cơ sở.
Quản lý theo địa phương, vùng lãnh thổ có trách nhiệm đảm bảo thực hiện nội dung và các
yêu cầu cơ bản của quản lý theo ngành phù hợp với hoàn cảnh địa phương, lãnh thổ; khai thác khả
năng và phát huy thế mạnh của địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp “Nhà nước và nhân dân
cùng làm giáo dục”. Đặc trưng quản lý theo địa phương thể hiện ở chỗ: Mỗi địa bàn chính là nơi hội
tụ của dân cư, do đó quản lý nhà nước ở địa phương có thể chăm lo tố t hơn cho giáo dục. Mặt khác,
địa bàn còn là nơi hội tụ các đơn vị cơ sở của các ngành, sự quản lý của địa phương giúp các đơn vị
này phục vụ thiết thực mọi lợi ích, mọi nhu cầu của dân cư trên địa bàn. Từ sự kết hợp hữu cơ này
đã hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả cao trong đầu tư và quản lý tất cả các lĩnh vực
trên địa bàn. Do đó, kết hợp quản lý theo địa bàn với quản lý theo ngành là cơ chế quản lý thích
hợp, nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục.
Tóm lại, hệ thống giáo du ̣c quố c dân là một thể thống nhất, có sự phân cấp quản lý chặt chẽ,
cụ thể là Bộ Giáo du ̣c và Đào ta ̣o là cơ quan quản lý nhà nước về giáo du ̣c và đào ta ̣o thống nhất
trong phạm vi cả nước và chính quyền địa phương quản lý nhà nước về giáo du ̣c và đào ta ̣o thông
9


qua cơ quan chuyên môn của mình theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do Nhà nước qui định,
phù hợp với cơ chế phân cấp, bảo đảm môi trường kinh tế – xã hô ̣i lành mạnh cho các hoạt động
giáo dục diễn ra theo đúng mục tiêu của Nhà nước.
Kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ thể hiện rằ ng mọi
cơ sở giáo dục thực hiện chức năng, nhiệm vụ giáo dục - đào tạo theo sự chỉ đạo của ngành dọc,
nhưng đều đứng trên một địa bàn cụ thể, vì vậy vừa chịu sự quản lý của Ủy ban nhân dân địa
phương theo sự phân cấp của Nhà nước, đồng thời chịu sự quản lý của cơ quan giáo dục cấp trên
trực tiếp.
b) Một số biện pháp thực hiện nguyên tắc

Người quản lý phải xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình trong hệ thống
giáo dục và trên địa bàn.
Hiểu rõ cơ chế quản lý phối hợp và biết xây dựng quy chế phối hợp hợp lý, có hiệu quả.
1.3.6. Nguyên tắc tính khoa học
Nguyên tắc tính khoa học là một nguyên tắc cơ bản của quản lý giáo dục. Quản lý giáo dục
nhất thiết phải dựa trên cơ sở khoa học. Lênin đã nói: “Không thể nào quản lý, nếu không am hiểu
thông thạo công việc. Không thể nào quản lý, nếu không có tri thức đầy đủ về khoa học quản lý”.
Các nhóm khoa học làm cơ sở chủ yếu cho quản lý giáo dục một cách khoa học là: Triết học
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các khoa học tổ chức quản lý, tâm lý học, giáo dục học, các
thành tựu của khoa học kỹ thuật được sử dụng vào các khâu của quá trình quản lý (ví dụ như tin
học, tự động hóa...).
Quản lý giáo dục là một khoa học tổng hợp. Đảm bảo tính khoa học trong quản lý giáo dục là
một đòi hỏi tất yếu. Đó là yêu cầu về chất của công tác quản lý giáo dục.
a) Yêu cầu của nguyên tắc
Quản lý giáo dục phải xây dựng dựa trên hệ thống tri thức sâu rộng, dựa trên sự tổng kết quá
trình phát triển của lý luận quản lý; nhận thức được những quy luật khách quan của giáo dục, của tự
nhiên và xã hội và nghiên cứu những quy luật đó để sử dụng trong hoạt động thực tiễn quản lý giáo
dục.
Hoạt động quản lý giáo dục nói chung và quản lý nhà trường nói riêng là hoạt động mang tính
chất tổng hợp rất cao. Nó không chỉ dựa vào kinh nghiệm mà phải am hiểu tri thức của nhiều ngành
khoa học và sự hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực lý luận quản lý giáo dục.
Để đảm bảo tính khoa học trong quản lý giáo dục, người cán bộ quản lý giáo dục phải nắm
vững và biết tận dụng các quy luật khách quan, quy luật giáo dục, các tri thức khoa học quản lý vào
quá trình tổ chức điều hành các hoạt động giáo dục. Làm tốt công tác dự báo, biết phân tích tổng
hợp các sự kiện, hiện tượng giáo dục, các tác động qua lại, phát hiện ra xu hướng phát triển của
chúng để có sự điều chỉnh, tác động phù hợp.
Phải am hiểu sâu sắc đối tượng quản lý. Tức là người quản lý phải hiểu tường tận về tính chất,
nguyên tắc tổ chức các hoạt động giáo dục, các quá trình giáo dục và am hiểu đặc điểm lao động,
đặc điểm tâm sinh lý của người giáo viên, cán bộ công nhân viên và học sinh cũng như đặc điểm
tâm lý của các lực lượng xã hội tham gia giáo dục... Đó là một trong những điều kiện quan trọng

hàng đầu để người quản lý có khả năng điều hành công việc một cách thành thạo, có hiệu quả.

10


Tổ chức lao động của chủ thể quản lý và khách thể quản lý một cách khoa học, phân định
trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng, tạo nên sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất trong quá trình thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục.
b) Một số biên pháp thực hiện nguyên tắc
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi người cán bộ quản lý giáo dục phải tuân thủ nghiêm ngặt
quy trình khoa học khi ra các quyết định hoặc xử lý thông tin để xác định mục tiêu.
Người cán bộ quản lý phải không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức
thuộc các lĩnh vực có liên quan, biết vận dụng chúng vào thực tiễn công tác để đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của nhiệm vụ quản lý giáo dục.
Việc quản lý đảm bảo tính khoa học đòi hỏi phải thường xuyên nghiên cứu, tiếp thu, khái quát
kinh nghiệm giáo dục, kinh nghiệm quản lý và áp dụng có kết quả vào quá trình quản lý.
Kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với tình hình và kinh nghiệm thực tế trong quá trình cụ thể hóa
đường lối thành bước đi, mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách, kế hoạch phát triển trước mắt và lâu dài của tổ
chức cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện.
1.3.7. Nguyên tắc tính hiệu quả, thiết thực và cụ thể
a) Yêu cầu của nguyên tắc
Chất lượng giáo dục phụ thuộc nhiều vào hiệu quả quản lý. Hiệu quả quản lý giáo dục được
tính trên cơ sở thực hiện các mục tiêu với những chi phí nhất định về các nguồn lực cho phép (nhân
lực, vật lực, tài lực), sao cho đạt kết quả cao nhất với mức chi phí thấp nhất.
Tối ưu hóa việc thực hiện các mục tiêu quản lý với sự tiết kiệm và sử dụng hợp lý sức lao
động cũng như các phương tiện vật chất kỹ thuật.
Nắm vững và vận dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào lĩnh vực giáo dục trong hoạt
động quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Giáo dục là loại hình hoạt động đặc biệt, kết quả có được là do cả một quá trình lao động
(dạy học, giáo dục) liên tục, cụ thể và thiết thực tạo nên. Quản lý giáo dục phải thường xuyên cụ

thể, thiết thực.
Chân lý bao giờ cũng cụ thể, khoa học không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.
Tính cụ thể và tính thiết thực của quản lý giáo dục gắn liền với tính khoa học.
Quản lý giáo dục phải nắm chính xác thông tin, diễn biến tình hình giáo dục, coi trọng điều
tra, nghiên cứu khảo sát, tổng kết kinh nghiệm và hiện thực hoạt động, nhanh chóng, kịp thời đề ra
những biện pháp đúng đắn, cụ thể, thiết thực và hiệu quả.
Trong quá trình quản lý cần hiểu biết đầy đủ, tường tận tình hình thực tế công việc, biết xác
định những vấn đề cơ bản – then chốt trong từng thời gian để tập trung sức giải quyết. Quan tâm cụ
thể đến từng cán bộ giáo viên, tạo điều kiện để họ phát huy ở mức cao nhất khả năng làm việc và
phấn đấu rèn luyện, hoàn thiện bản thân. Khi triển khai nhiệm vụ phải nêu rõ ràng nội dung, yêu
cầu, thời gian, địa điểm tiến hành và thời điểm phải hoàn thành và phân công cụ thể đến từng người
hoặc nhóm người. Mục tiêu nhiệm vụ phải phù hợp tình hình thực tế của đơn vị, với mục tiêu phát
triển của đơn vị..., nghĩa là phải khả thi.
Mọi hoạt động giáo dục và mọi quyết định đưa ra thực hiện đều phải được kiểm tra một cách
chu đáo làm cơ sở cho việc đề ra các quyết sách quản lý đúng đắn.
b) Một số biện pháp thực hiện nguyên tắc
11


Để thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi người cán bộ quản lý giáo dục khi đưa ra các quyết
định quản lý cần lưu ý tính hiệu quả, khả thi. Phải có quan điểm nhìn nhận hiệu quả đúng đắn, biết
phân tích hiệu quả trong từng tính huống khác nhau; biết đặt lợi ích chung trước và trên lợi ích cá
nhân; đưa ra các quyết định tối ưu, nhằm tạo được những thành quả có lợi nhất cho nhu cầu phát
triển của tổ chức.
Việc nắm sâu sát tình hình giáo dục, phát hiện, phân tích, tổng kết và phổ biến những kinh
nghiệm giáo dục tiên tiến là những yêu cầu chủ yếu của tính cụ thể và thiết thực trong công tác quản
lý giáo dục.
Tóm lại, các nguyên tắc quản lý giáo dục là những tiêu chuẩn, những quy tắc cơ bản được
đúc kết từ thực tiễn quản lý giáo dục, là chỗ dựa đáng tin cậy về lý luận, giúp người cán bộ quản lý
giáo dục định hướng đúng đắn trong hoàn cảnh phức tạp luôn biến đổi, để tự mình giải quyết các

tình huống cụ thể, đa dạng và biết tổ chức một cách khoa học hoạt động quản lý để đạt hiệu quả tối
ưu.
Trong thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục, các nguyên tắc liên hệ chặt chẽ với nhau, tác
động bổ sung cho nhau. Chất lượng và hiệu quả quản lý giáo dục chỉ đảm bảo được khi thực hiện
tốt các nguyên tắc quản lý.
1.4. PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1.4.1. Phương pháp tổ chức - hành chính
Phương pháp tổ chức - hành chính trong quản lý được hiểu là chủ thể quản lý tác động đến
khách thể quản lý dựa vào mối quan hệ thứ bậc trong tổ chức một cách trực tiếp. Người quản lý tác
đô ̣ng đế n những người dưới quyền thông qua các quy định đã có dưới hình thức mệnh lệnh, chỉ thị,
quyết định có tính bắt buộc, đòi hỏi mọi người phải chấp hành nghiêm ngặt, nếu vi phạm sẽ bị xử lý
kịp thời theo quy định. Cũng có thể nói đây là phương pháp quản lý thiên về pháp trị.
1.4.2. Phương pháp tâm lý - xã hội
Phương pháp tâm lý - xã hội trong quản lý được hiểu là những cách thức tác động của chủ
thể quản lý vào nhận thức, tư tưởng và tình cảm của những người bị quản lý nhằm nâng cao tính tự
giác, khơi dậy tiềm năng, tính chủ động, sáng tạo, tự chủ và tự chịu trách nhiệm của mỗi đơn vị, cá
nhân trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn đã được người quản lý phân định
cho mỗi đơn vị và cá nhân đó. Cũng có thể nói đây là phương pháp quản lý thiên về đức trị.
1.4.3. Phương pháp lợi ích kinh tế
Phương pháp dùng lợi ích kinh tế trong quản lý được hiểu là sự tác động một cách gián tiếp của
chủ thể quản lý đến những người bị quản lý bằng cơ chế kích thích các hoạt động của họ thông qua lợi
ích vật chất, nhằm tạo cho họ có động lực vật chất trong việc tham gia thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ để đạt tới mục tiêu quản lý.

12


HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN, ÔN TẬP CHƯƠNG 1
1. Trình bày các quan niê ̣m về quản lý. Lấy ví dụ minh họa?
2. Trình bày các chức năng quản lý? Phân tích mối quan hệ giữa các chức năng quản lý?

3. Xây dựng sơ đồ mối quan hệ giữa các chức năng quản lý? Anh/chị hãy trình bày mối quan
hệ gữa các chức năng theo sơ đồ trên.
4. Phân tích các nguyên tắc quản lý. Liên hệ thực tế ở trường MN bạn đang công tác nguyên
tắc nào làm tốt, nguyên tắc nào làm chưa tốt?
5. Phân tích các phương pháp quản lý giáo dục đang sử dụng phổ biến hiện nay. Nêu ví dụ về
trường hợp nhà quản lý phải vận dụng ít nhất hai phương pháp đã trình bày.

13


Chương 2
QUẢN LÝ TRƯỜNG MẦM NON
2.1. VI ̣ TRÍ , TÍ NH CHẤT, NHIỆM VỤ CỦ A TRƯỜNG MẦM NON
2.1.1. Vị trí của trường mầm non
Trường mầm non là một đơn vị cơ sở của bậc giáo dục mầm non thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân - đây là khâu đầu tiên của cả quá trình giáo dục con người trong xã hô ̣i hiê ̣n đa ̣i.
Trường mầ m non có vị trí đă ̣c biê ̣t quan tro ̣ng: xây dựng cơ sở ban đầu cho việc hình thành,
phát triển nhân cách và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ em bước vào trường phổ thông.
Tuổi mầm non là thời kỳ trẻ rất nhạy cảm với mọi tác động bên ngoài, do đó tác đô ̣ng giáo dục của
trường mầ m non có ảnh hưởng to lớn, lâu dài đến sự phát triển của trẻ. Nếu trẻ đươ ̣c chăm sóc, giáo
dục một cách chu đáo, khoa ho ̣c, trẻ sẽ đa ̣t đươ ̣c sự phát triển tích cực, hình thành những nét tính
cách cầ n thiế t, thuâ ̣n lơ ̣i cho các giai đoa ̣n giáo du ̣c sau này. Ngươ ̣c la ̣i, trẻ không đươ ̣c giáo du ̣c
hoă ̣c chiụ sự giáo du ̣c sai lầm trong những năm đầ u đời sẽ rấ t khó trưởng thành như mong đơ ̣i của
xã hô ̣i. Trẻ có tính nết tốt hay xấu (ngoan hay hư), năng khiếu có nảy nở hay không, phầ n không
nhỏ bắ t đầ u từ giai đoa ̣n này. Tiề n đề ban đầ u sẽ có ảnh hưởng quyết định đến các giai đoạn lứa tuổi
sau này.
Trường mầ m non là nơi thực thi các chủ trương, chiń h sách chăm sóc, giáo du ̣c trẻ em của
Đảng và Nhà nước. Chấ t lươ ̣ng hoa ̣t đô ̣ng của hê ̣ thố ng các trường mầ m non có ảnh hưởng không
nhỏ đế n sự phát triể n của thế hê ̣ trẻ, tương lai của đấ t nước.
Chất lượng quản lý trường mầm non ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thực hiện mục tiêu

giáo dục của trường.
2.1.2. Tính chất của trường mầm non
Trường mầm non thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em, nhằm hình thành và
phát triển nhân cách một cách toàn diện.
Giáo dục trẻ em ở trường mầm non mang tính chất giáo dục gia đình, quan hệ giữa cô giáo
và trẻ em vừa mang tính thầy - trò vừa mang tình mẫu - tử. Việc giáo dục trẻ được tiến hành ở mọi
lúc, mọi nơi trong mọi sinh hoạt và hoạt động của trẻ hàng ngày, trẻ học mà chơi - chơi mà học.
Trường mầm non tổ chức chăm sóc, giáo dục trẻ em ở nhiều độ tuổi. Các thời kỳ tương ứng
với từng giai đoạn theo độ tuổi, trẻ có những đặc điểm tăng trưởng và phát triển rất khác biệt nhau.
Do đó người làm công tác chăm sóc, giáo dục trẻ phải biết đón trước và đáp ứng kịp thời những nhu
cầu tăng trưởng, phát triển của trẻ.
Trong hoàn cảnh thực tế hiện nay ở nước ta, điều kiện cơ sở vật chất phục vụ giáo dục của
nhiều trường mầm non còn rất hạn chế. Trường mầm non cần đến sự hỗ trợ của nhà nước, của nhân
dân và các lực lượng xã hội về vật chất cũng như tinh thần.
Để đáp ứng nhu cầu của xã hội, trường mầm non (trường mẫu giáo, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp
mẫu giáo độc lập) được tổ chức theo các loại hình: công lập, dân lập và tư thục. Dù ở loại hình nào,
trường mầm non cũng chịu sự quản lý của Nhà nước, các cơ quan quản lý giáo dục theo sự phân
công, phân cấp.
2.1.3. Nhiệm vụ của trường mầm non
14


Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm
non do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Huy động trẻ em lứa tuổi mầm non đến trường; Tổ chức giáo dục hoà nhập cho trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật.
Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo
dục trẻ em.
Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật.
Xây dựng cơ sở vật chất theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hóa hoặc theo yêu cầu tối thiểu

đối với vùng đặc biệt khó khăn.
Phối hợp với gia đình trẻ em, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt động nuôi dưỡng, chăm
sóc và giáo dục trẻ em.
Tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và trẻ em tham gia các hoạt động xã hội
trong cộng đồng.
Thực hiện kiểm định chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em theo quy định.
Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
2.2. TỔ CHỨC BỘ MÁY TRƯỜNG MẦM NON
Cơ cấu tổ chức bộ máy của trường mầm non bao gồm các thành phần sau:
- Lãnh đạo và quản lý.
- Tổ chuyên môn và tổ văn phòng.
- Các hội đồng và tổ chức tư vấn.
- Các tổ chức phối hợp.
2.2.1. Lãnh đạo và quản lý
a) Tổ chức Đảng trong nhà trường
Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong trường mầm non lãnh đạo nhà trường và hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ của Đảng.
b) Ban giám hiệu
Gồm Hiệu trưởng và các phó Hiệu trưởng.
- Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý các hoạt động và đảm bảo chất
lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em của nhà trường.
- Hiệu trưởng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận theo các tiêu chuẩn
quy định.
- Hiệu trưởng phải được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý trường mầm non.
- Phó Hiệu trưởng là người giúp việc cho Hiệu trưởng và chịu trách nhiệm trước Hiệu
trưởng.
- Nhiệm vụ và quyền hạn của Phó Hiệu trưởng:
+ Chịu trách nhiệm điều hành công việc do Hiệu trưởng phân công;
+ Điều hành hoạt động của nhà trường, nhà trẻ khi được Hiệu trưởng uỷ quyền.
- Cũng như Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm,

công nhận theo các tiêu chuẩn quy định và được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý.
15


Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng được lựa chọn trong số giáo viên có uy tín, tín nhiệm về
chính trị, đạo đức, chuyên môn.
2.2.2. Tổ chuyên môn và tổ văn phòng
a) Tổ chuyên môn
Tổ chuyên môn bao gồm giáo viên, người làm công tác thiết bị giáo dục và cấp dưỡng. Tổ
chuyên môn có tổ trưởng và tổ phó.
Nhiệm vụ của tổ chuyên môn gồm:
- Xây dựng kế hoạch hoạt động chung của tổ theo tuần, tháng, năm học nhằm thực hiện
chương trình, kế hoạch nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ và các hoạt động giáo dục khác;
- Thực hiện bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra, đánh giá chất lượng, hiệu quả
công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ và quản lý sử dụng tài liệu, đồ dùng, đồ chơi, thiết bị
giáo dục của các thành viên trong tổ theo kế hoạch của nhà trường;
- Tham gia đánh giá, xếp loại giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non;
- Đề xuất khen thưởng, kỷ luật giáo viên.
Tổ chuyên môn sinh hoạt định kỳ ít nhất hai tuần một lần.
b) Tổ văn phòng
Tổ văn phòng gồm các nhân viên làm công tác y tế trường học, văn thư, kế toán và nhân
viên khác.
Nhiệm vụ của tổ văn phòng gồm:
- Xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ theo tuần, tháng, năm nhằm phục vụ cho việc thực
hiện các hoạt động của nhà trường, nhà trẻ về chăm sóc, dinh dưỡng;
- Giúp Hiệu trưởng quản lý tài chính, tài sản, lưu giữ hồ sơ của nhà trường, nhà trẻ;
- Thực hiện bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra, đánh giá chất lượng, hiệu quả
công việc của các thành viên trong tổ theo kế hoạch của nhà trường, nhà trẻ;
- Tham gia đánh giá, xếp loại các thành viên.
Tổ văn phòng sinh hoạt định kỳ ít nhất hai tuần một lần.

2.2.3. Các hội đồng và tổ chức tư vấn
a) Hội đồng trường
Hội đồng trường đối với trường công lập, Hội đồng quản trị đối với trường dân lập, tư thục
(gọi chung là Hội đồng trường) có vai trò đă ̣c biê ̣t quan tro ̣ng trong bô ̣ máy quản lý. Hội đồng
trường là tổ chức chịu trách nhiệm quyết định về phương hướng hoạt động của nhà trường, huy
động và giám sát việc sử dụng các nguồn lực dành cho nhà trường, gắn nhà trường với cộng đồng
và xã hội, quyế t đinh
̣ các chủ trương nhằ m bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Cơ cấu tổ chức, nội quy hoạt động của Hội đồng trường công lập:
* Cơ cấu tổ chức:
- Hội đồng trường công lập gồm: đại diện tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban giám hiệu
(gồm Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng), đại diện Công đoàn, đại diện Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, đại diện các tổ chuyên môn, đại diện tổ văn phòng.
- Hội đồng trường có Chủ tịch, Thư ký và các thành viên khác. Chủ tịch Hội đồng trường
16


không nhất thiết là Hiệu trưởng. Số lượng thành viên Hội đồng trường có 7 hoặc 9 người.
* Nội quy hoạt động:
- Hội đồng trường họp thường kỳ ít nhất hai lần trong một năm học. Trong trường hợp cần
thiết, khi Hiệu trưởng hoặc ít nhất một phần ba số thành viên Hội đồng trường đề nghị, Chủ tịch
Hội đồng trường có quyền triệu tập phiên họp bất thường để giải quyết những vấn đề phát sinh
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, nhà trẻ. Chủ tịch Hội đồng trường
có thể mời đại diện chính quyền và đoàn thể địa phương tham dự cuộc họp của Hội đồng trường khi
cần thiết.
Phiên họp Hội đồng trường được công nhận là hợp lệ khi có mặt từ ba phần tư số thành viên
của Hội đồng trường trở lên (trong đó có Chủ tịch hội đồng). Nghị quyết của Hội đồng trường được
thông qua và có hiệu lực khi được ít nhất hai phần ba số thành viên có mặt nhất trí. Các nghị quyết
của Hội đồng trường được công bố công khai trong toàn nhà trường.
- Hiệu trưởng nhà trường có trách nhiệm thực hiện các nghị quyết hoặc kết luận của Hội đồng

trường. Khi Hiệu trưởng không nhất trí với nghị quyết hoặc kết luận của Hội đồng trường, phải kịp thời
báo cáo xin ý kiến cơ quan quản lý giáo dục cấp trên. Trong khi chờ ý kiến của cấp trên, Hiệu trưởng
vẫn phải thực hiện theo nghị quyết hoặc kết luận của Hội đồng trường đối với những vấn đề không trái
với pháp luật hiện hành và các quy định về tổ chức và hoạt động của trường mầm non.
* Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng trường công lập:
- Quyết nghị về mục tiêu, chiến lược, các dự án, kế hoạch đầu tư và phát triển của nhà
trường, nhà trẻ trong từng giai đoạn và từng năm học;
- Quyết nghị về tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản của nhà trường, nhà trẻ; giới thiệu người để
bổ nhiệm làm Hiệu trưởng theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;
- Giám sát các hoạt động của nhà trường, nhà trẻ; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của
Hội đồng trường, việc thực hiện quy chế dân chủ trong các hoạt động của nhà trường, nhà trẻ.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thành phần, cơ cấu tổ chức, thủ tục thành lập và nội quy hoạt
động của Hội đồng quản trị đối với nhà trường, nhà trẻ dân lập, nhà trường, nhà trẻ tư thục được thực
hiện theo Quy chế tổ chức và hoạt động của trường mầm non dân lập, Quy chế tổ chức và hoạt động
của trường mầm non tư thục.
b) Hội đồng Thi đua khen thưởng
Hội đồng Thi đua khen thưởng do Hiệu trưởng thành lập vào đầu mỗi năm học. Hiệu trưởng
là Chủ tịch Hội đồng Thi đua, khen thưởng. Các thành viên của Hội đồng gồm: Phó Hiệu trưởng,
Bí thư Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, tổ trưởng tổ chuyên môn, tổ trưởng tổ văn phòng.
Hội đồng Thi đua khen thưởng giúp Hiệu trưởng tổ chức phong trào thi đua, đề nghị khen
thưởng đối với cán bộ, giáo viên, nhân viên, trẻ em trong nhà trường.
Hội đồng Thi đua khen thưởng họp vào cuối học kỳ và cuối năm học.
c) Các hội đồng tư vấn
Trường hợp cần thiết, Hiệu trưởng có thể thành lập các hội đồng tư vấn giúp Hiệu trưởng về
chuyên môn, quản lý nhà trường. Nhiệm vụ, quyền hạn, thành phần và thời gian hoạt động của các
hội đồng tư vấn do Hiệu trưởng quy định.
2.2.4. Các tổ chức phối hợp
17



a) Công đoàn giáo dục ở trường mầm non
Công đoàn giáo dục là tổ chức chính trị, nghề nghiệp của cán bộ giáo viên trong trường,
được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện.
Công đoàn giáo dục ở trường mầm non hoạt động theo Luật Công đoàn, dưới sự lañ h đa ̣o
của Chi bô ̣ Đảng và sự chỉ đạo của Công đoàn cấ p trên. Có đại diện tham gia các tổ chức như Hội
đồng Sư phạm, Hội đồng Thi đua khen thưởng, Hội đồng Kỷ luật theo quy định của Bộ giáo dục và
Đào tạo và Công đoàn Ngành.
b) Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị, giáo dục của cán bộ giáo viên
đang ở lứa tuổi thanh niên. Đoàn hoạt động theo quy định của điều lệ Đoàn và dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở trường. Đoàn có nhiệm cụ giáo dục đoàn viên cùng nhà
trường thực hiện tốt mọi nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ.
c) Ban đại diện cha mẹ trẻ em (hội phụ huynh)
Nhà trường có các ban đại diện cha mẹ trẻ em của từng nhóm trẻ, lớp mẫu giáo và ban đại
diện cha mẹ trẻ em của nhà trường, nhà trẻ (Nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập cũng cầ n có ban đại
diện cha mẹ trẻ em).
Các tổ chức quần chúng hoạt động phối hợp với chính quyền nhà trường thông qua các hình
thức phù hợp: tham gia ý kiến trong các hội nghị; cùng chính quyền thống nhất, phố i hơ ̣p các tác
động, các hoa ̣t đô ̣ng nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ, nâng cao hiệu quả quản lý
nhà trường và tăng cường xã hội hóa công tác giáo dục mầm non.
2.3. CÔNG TÁC QUẢN LÝ CỦ A HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG MẦM NON
Công tác kế hoạch trong trường mầm non đòi hỏi người Hiệu trưởng phải quan tâm đầy đủ
các loại kế hoạch như:
- Kế hoạch dài hạn
- Kế hoạch ngắn hạn
- Kế hoạch tổng thể
- Kế hoạch bộ phận
- Kế hoạch tập thể
- Kế hoạch cá nhân

Quy trình xây dựng kế hoạch năm học
Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch năm học phải tiến hành theo các bước sau:
*Bước 1: Chuẩn bị.
Tổng kết việc thực hiện kế hoạch năm học vừa qua, từ đó xác định đúng trạng thái xuất phát
của nhà trường khi bước vào năm học mới.
Nghiên cứu nắm vững nhiệm vụ năm học mới và các văn bản chỉ đạo của cấp trên. Nghiên
cứu tình hình địa phương - tình hình kinh tế xã hô ̣i, những chủ trương của địa phương về công tác
giáo dục, số trẻ trong độ tuổi và nhu cầu gửi con của các bậc cha mẹ.
Những công việc nêu trên giúp Hiệu trưởng có được thông tin cần thiết, làm cơ sở cho việc
xây dựng kế hoạch năm học mới.
*Bước 2: Dự thảo kế hoạch.
18


Hiệu trưởng viết dự thảo kế hoạch năm học của trường:
- Dự báo hệ thống mục tiêu cần đạt được.
- Lựa chọn hệ thống biện pháp tối ưu, tương ứng để thực hiện mục tiêu.
- Dự kiến điều kiện thực hiện kế hoạch.
* Bước 3: Duyệt nội bộ.
Hiệu trưởng trình bày dự thảo kế hoạch trước những người thực hiện để mọi người đóng
góp ý kiến xây dựng kế hoạch. Sau đó hiệu trường điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện bản kế hoạch
để trình cấp trên phê duyệt.
* Bước 4: Trình duyệt cấp trên và chính thức hóa kế hoạch.
- Duyệt với Phòng Giáo dục đào tạo và lãnh đạo địa phương; tranh thủ sự chỉ đạo, tạo điều
kiện, giúp đỡ nhà trường hoàn thành kế hoạch năm học.
- Kế hoạch sau khi được cấp trên duyệt trở thành văn bản pháp lý để Hiệu trưởng điều hành
công việc, Hiệu trưởng có trách nhiệm phổ biến kế hoạch chính thức đến cán bộ, giáo viên để thống
nhất thực hiện.
2.4. CÔNG TÁC QUẢN LÝ CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON
2.4.1. Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của giáo viên mầ m non

a. Vai trò
Giáo viên mầm non là chủ thể trực tiếp của quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Họ là lực lượng
chủ yếu, là nhân vật trung tâm thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Chương trình chăm sóc,
giáo dục trẻ ở trường mầm non chỉ có thể được hiện thực hóa thông qua hoạt động của giáo viên.
Giáo viên MN là nhân tố quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động của trường mầm non.
b. Nhiệm vụ của giáo viên mầm non
Người giáo viên mầm non có các nhiệm vụ sau:
- Thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ theo đúng mục tiêu, chương trình,
phương pháp giáo dục mầm non.
- Quản lý nhóm lớp, làm đồ chơi, đồ dùng dạy học, bảo quản và sử dụng hiệu quả trang bị
tài sản của nhóm lớp.
- Phối hợp chặt chẽ với gia đình trẻ để thống nhất việc chăm sóc, giáo dục trẻ và tuyên
truyền, hướng dẫn kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ.
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và Điều lệ trường
mầm non.
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo. Tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ. Bảo
vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em.
- Đoàn kết và có trách nhiệm xây dựng tập thể không ngừng tiến bộ.
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực sư
phạm và phẩm chất đạo đức.
Các nhiệm vụ của người giáo viên mầm non có liên quan chặt chẽ với nhau, tác động qua
lại, bổ sung cho nhau. Và được tiến hành thống nhất trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ.
c. Quyền hạn của giáo viên mầm non
19


Giáo viên mầm non có những quyền sau đây:
- Được tiến hành các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ theo chuyên ngành đào tạo, theo sự
phân công của nhà trường.
- Được tham gia với tư cách là thành viên chính thức trong các cuộc họp chuyên môn của

trường.
- Được đề xuất, thảo luận và biểu quyết trong các hội nghị bàn về chủ trương, biện pháp
công tác của nhà trường.
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
- Được hưởng các chế độ theo quy định của Nhà nước và của địa phương.
2.4.2. Yêu cầ u đố i với giáo viên mầ m non
2.4.2.1. Yêu cầu chung
Giáo viên mầm non có vị trí và vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục hình thành nhân
cách con người và đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non. Để hoàn thành sứ mệnh là người xây
dựng nền móng ban đầu của nhân cách, giáo viên mầm non cần phải đạt những tiêu chuẩn và yêu
cầu sau đây:
a) Giáo viên mầm non phải có lập trường tư tưởng vững vàng, yêu nghề và thương trẻ, tôn
trọng và đối xử công bằng với trẻ
Lập trường tư tưởng vững vàng của người giáo viên mầm non được thể hiện ở sự yên tâm
nghề nghiệp, không dao động trước khó khăn thử thách, có niềm tin vào công việc và kiên định với
mục tiêu đã đề ra. Tin vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, biết vận dụng
sáng tạo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng vào thực tiễn chăm sóc, giáo dục trẻ em. Luôn có
chí hướng phấn đấu vươn lên trong hoạt động nghề nghiệp của bản thân.
Lòng yêu nghề, yêu trẻ là điều kiện cơ bản để người giáo viên đạt được nhiều kết quả tốt đẹp
trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Có tình thương yêu trẻ, cô giáo sẽ nhạy cảm, sẵn sàng và thực sự
say mê trong công việc. Trong bầu không khí tôn trọng và đối xử công bằng của cô giáo, trẻ sẽ lớn lên
trong cảm giác an toàn, yên tâm tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh, ăn ngon, ngủ say, vui vẻ,
mạnh dạn trong hoạt động giao tiếp, nảy nở tình cảm tốt đẹp, biết quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ với bạn bè
và những người gần gũi, trẻ tin yêu cô và vâng lời cô dạy bảo.
L. Tônxtôi đã từng nói: “Nếu thầy giáo chỉ biết yêu công việc thì đó là thầy giáo tốt. Nếu
thầy giáo biết yêu học sinh như tình yêu của cha mẹ đối với con cái sẽ tốt hơn là người thầy giáo đã
đọc nhiều sách vở mà lại không yêu công việc, không yêu trẻ. Nếu người thẩy giáo biết kết hợp
trong mình lòng yêu công việc và tình yêu trẻ thì đó là một thầy giáo hoàn hảo”.
b) Giáo viên mầm non cần có kiến thức văn hóa cơ bản, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
để thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ em theo mục tiêu giáo dục

Giáo dục mầm non là một khoa học mang tính chất tổng hợp, có liên quan đến nhiều lĩnh
vực khoa học khác nhau (triết học, sinh lý, tâm lý học, giáo dục học, dinh dưỡng học, văn học, ngôn
ngữ học, nghệ thuật, đạo đức học, xã hội học...).
Giáo viên mầm non không nhất thiết phải có kiến thức uyên thâm về mọi lĩnh vực khoa học,
song cần phải có hiểu biết cơ bản về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và con người. Đặc biệt,
giáo viên mầm non phải được trang bị một hệ thống tri thức khoa học nuôi dạy trẻ làm cơ sở cho
20


việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ, giúp trẻ phát triển tốt về thể chất,
tâm lý, hình thành những yếu tố ban đầu của nhân cách.
Kiến thức văn hoá cơ bản không chỉ là điều kiện cần để người giáo viên chiếm lĩnh tri thức,
kỹ năng nghề nghiệp, mà còn là phương tiện quan trọng tạo cho giáo viên có khả năng học tập tiếp
tục để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
xã hội về chất lượng giáo dục mầm non.
c) Giáo viên mầm non phải nhiệt tình, nhanh nhạy, dịu dàng, cởi mở, dễ hòa nhập với trẻ
Trẻ đến trường mầm non với thời gian từ 8 giờ đến 10 giờ trong một ngày. Sinh hoạt ở một
nhóm trẻ hay một lớp mẫu giáo có bao nhiêu công việc phải làm và bao nhiêu nhu cầu của trẻ cần
phải đáp ứng một cách hợp lý. Từ việc ăn, ngủ, vệ sinh đến việc học tập, vui chơi trong lớp, ngoài
sân... Ở mọi lúc, mọi nơi nhất nhất phải có sự quan tâm theo dõi của giáo viên. Công việc mà người
giáo viên mầm non đảm nhận đòi hỏi cao lòng nhiệt tình, lương tâm và trách nhiệm cũng như sự
nhanh nhậy của chính bản thân họ. Nếu thiếu những phẩm chất đó trong công việc, người giáo viên
mầm non khó có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Trẻ em ở tuổi mầm non bé bỏng, hồn nhiên, nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Cô giáo cần phải
biết âu yếm trẻ, vui vẻ ngọt ngào với trẻ. Sự hòa nhập của cô trong giao tiếp với trẻ sẽ mang lại cho
trẻ cảm giác an toàn, dễ dàng thiết lập mối quan hệ thiện cảm gắn bó giữa cô và trẻ. Qua đó giúp cô
hiểu trẻ nhiều hơn, giáo dục trẻ có hiệu quả hơn.
d) Giáo viên mầm non phải cẩn thận, chu đáo, tỷ mỷ và biết tự kiềm chế trong quá trình chăm
sóc, giáo dục trẻ
Quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ chính là quá trình làm thỏa mãn hợp lý các nhu cầu tồn tại

và phát triển của đứa trẻ. Một sự sơ suất hoặc sai lầm của người lớn trong phương pháp chăm sóc,
giáo dục trẻ cũng có thể để lại hậu quả có tác hại cho cả đời. Vì trẻ còn quá bé bỏng, non nớt, tốc độ
tăng trưởng và phát triển rất nhanh, nên việc chăm sóc, giáo dục trẻ đòi hỏi phải tỷ mỷ, chuẩn xác.
Giáo viên phải chu đáo chăm sóc trẻ từng bữa ăn, giấc ngủ, phải tỷ mỷ thận trọng trong từng thao
tác vệ sinh, phải kiên trì khi dạy dỗ và hình thành nề nếp, thói quen tốt cho trẻ. Phải biết tự kiềm
chế sự bực tức, nóng giận khi trẻ tỏ ra bướng bỉnh, không vâng lời, để luôn luôn tạo cho trẻ được
sống trong môi trường ấm cúng, vui vẻ, thoải mái, gần với môi trường gia đình, trong đó cô giáo
thực sự như người mẹ hiền của trẻ.
2.4.2.2. Một số năng lực sư phạm đặc thù
Năng lực sư phạm là điều kiện để hiện thực hoá hoạt động sư phạm và là một bộ phận
không thể thiếu được trong cấu trúc nhân cách của người giáo viên. Để tổ chức, hướng dẫn có kết
quả các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ, đòi hỏi giáo viên mầm non phải có những năng lực sau
đây :
a) Năng lực thiết kế
Năng lực này có vai trò quan trọng định hướng cho quá trình thực hiện nhiệm vụ của người
giáo viên mầm non, giúp giáo viên chủ động trong công việc và sử dụng thời gian một cách tối ưu.
Năng lực thiết kế của giáo viên mầm non biểu hiện ở khả năng xây dựng các loại kế hoạch
của nhóm lớp (kế hoạch năm học, kế hoạch tháng, kế hoạch tuần) phù hợp với mục tiêu chương
trình và hoàn cảnh thực tế, ở khả năng dự đoán chiều hướng phát triển nhân cách của từng trẻ để có
biện pháp giáo dục hợp lý, khả năng dự đoán các tình huống xảy ra, để tìm cách giải quyết...
b) Năng lực quan sát, phân tích
21


Năng lực quan sát của giáo viên mầm non thể hiện ở khả năng tri giác nhanh, nhạy, chính
xác những đặc điểm của từng trẻ cũng như những biểu hiện bình thường hoặc không bình thường
đối với trẻ trong cuộc sống hàng ngày. Từ các hiện tượng quan sát được, với năng lực phân tích,
giáo viên sẽ nhận thức nhanh, đúng những gì đang diễn ra. Trên cơ sở đó, giáo viên có biện pháp
chăm sóc, giáo dục phù hợp và xử lý kịp thời các tình huống trong nhóm, lớp ở những thời điểm
khác nhau. Năng lực phân tích giúp đánh giá đúng khả năng và kết quả được giáo dục của trẻ về

mọi mặt để có tác động thích hợp.
c) Năng lực giao tiếp, cảm hoá thuyết phục trẻ
Năng lực này được biểu thị ở khả năng thiết lập và duy trì mối quan hệ giữa giáo viên với
trẻ và với những người xung quanh. Có năng lực giao tiếp sẽ giúp giáo viên dễ dàng thiết lập mối
quan hệ gắn bó thân thiện với trẻ; gây được lòng tin và niềm yêu quý của trẻ, thu hút trẻ tích cực
tham gia vào các hoạt động, trên cơ sở đó phát triển nhận thức, tăng cường vốn kinh nghiệm, hình
thành xúc cảm, tình cảm tích cực và kỹ năng, kỹ xảo ở trẻ.
c) Năng lực quản lý nhóm lớp
Năng lực này thể hiện ở khả năng kế hoạch hoá công việc, khả năng tổ chức thực hiện kế
hoạch; khả năng phối hợp điều hành công việc trong phạm vi nhóm lớp; khả năng tự kiểm tra, đánh
giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện nhiệm vụ của nhóm lớp trong những thời gian xác định; khả
năng phối hợp với gia đình để thống nhất việc chăm sóc giáo dục trẻ và sử dụng có hiệu quả, bảo
quản tốt cơ sở vật chất.
d) Năng lực quản lý và tổ chức hoạt động sư phạm
Đây là những năng lực sư phạm chuyên biệt gắn liền với yêu cầu nhiệm vụ quản lý lớp học,
nhóm trẻ và tổ chức các hoạt động giáo dục ở trường mầm non.
Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm là tổ hợp của nhiều năng lực bộ phận cần thiết đối với
giáo viên mầm non. Để thực hiện thành công chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường
mầm non, người giáo viên không chỉ cần có kiến thức về ngành học, mà còn phải có khả năng vận
dụng kiến thức và kinh nghiệm đúc kết được trong cuộc sống vào hoạt động sư phạm. Các năng lực
đã nêu trên đều có thể xem là năng lực cấu thành năng lực này. Năng lực tổ chức hoạt động sư
phạm của giáo viên mầm non được thể hiện cụ thể qua các công việc:
+ Tổ chức hoạt động chăm sóc trẻ.
+ Tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ tuổi nhà trẻ và tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ
mẫu giáo.
+ Tổ chức hoạt động học tập.
+ Tổ chức hoạt động lao động.
e) Năng lực tự học, tự bồi dưỡng và đúc rút kinh nghiệm
Tự nghiên cứu tài liệu chuyên môn; thu thập và xử lý kịp thời các thông tin về ngành học;
tự đúc rút kinh nghiệm của bản thân và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp; biết vận

dụng các phương pháp, phương tiện tự học để nâng cao trình độ chuyên môn. Có khả năng phân
tích, đánh giá hoạt động sư phạm của đồng nghiệp và bản thân.
Việc phân loại các năng lực như trên chỉ có tính tương đối. Trong thực tế, các năng lực sư
phạm của giáo viên mầm non luôn đan xen, bổ trợ cho nhau và được thể hiện thống nhất trong toàn
bộ quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ.
22


2.4.3. Công tác quản lý của giáo viên mầ m non
Giáo viên mầm non vừa là chủ thể trực tiếp của quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ, vừa là chủ thể
quản lý nhóm lớp. Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhóm lớp là điều kiện để đảm bảo thực hiện
thành công chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ.
Mỗi nhóm lớp trong trường mầm non được coi như một tế bào của cơ thể nhà trường. Chất
lượng giáo dục, hiệu quả quản lý từng nhóm lớp góp phần tạo nên chất lượng giáo dục và hiệu quả
quản lý chung của trường.
Công tác quản lý nhóm lớp là một nhiệm vụ đặc trưng của giáo viên trong trường mầm non.
Phát huy đúng đắn vai trò, trách nhiệm của người giáo viên trong quá trình thực hiện chức năng
quản lý toàn diện nhóm lớp là một vấn đề quan trọng của quản lý trường mầm non.
Để làm tốt công tác này, người giáo viên mầm non phải thực hiện:
2.4.3.1. Tìm hiểu, nắm vững đặc điểm của trẻ
Nắm vừng đặc điểm từng trẻ là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý
nhóm lớp ở trường mầm non.
Giáo viên cần phải hiểu hoàn cảnh sống của trẻ, nắm được những đặc điểm về thể chất, sinh
lý, tâm lý của trẻ cũng như những thói quen, hành vi đạo đức mà trẻ đã có... Từ đó lựa chọn những
biện pháp tác động sư phạm phù hợp nhằm giúp trẻ phát triển tốt về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm
mỹ và thích ứng với cuộc sống, với môi trường luôn biến đổi.
Tìm hiểu để nắm được đặc điểm của từng trẻ là việc cần làm thường xuyên, liên tục trong cả
một năm học và phải có kế hoạch cụ thể mới thu được những thông tin phong phú, có độ tin cậy về
thực trạng và khả năng, hoàn cảnh của trẻ. Để hiểu trẻ, giáo viên có thể tiến hành bằng nhiều biện
pháp khác nhau như: trao đổi trực tiếp với gia đình trẻ để thu nhận những thông tin cần thiết về trẻ;

quan sát theo dõi trẻ tham gia vào các hoạt động hàng ngày; thường xuyên gần gũi chuyện trò cùng
trẻ; sử dụng phiếu điều tra, trưng cầu ý kiến của phụ huynh; ghi nhật ký về trẻ; thăm gia đình trẻ;
tạo tình huống để trẻ bộc lộ đặc điểm ...
2.4.3.2. Xây dựng kế hoạch quản lý công việc
Kế hoạch quản lý công việc có vai trò định hướng cho mọi hoạt động của giáo viên, giúp
giáo viên chủ động trong quá trình tổ chức thực hiện mọi công việc. Mặt khác, kế hoạch quản lý của
giáo viên còn là cơ sở để kiểm tra, đánh giá của cán bộ quản lý trường mầm non đối với việc thực
hiện nhiệm vụ năm học và chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ.
Giáo viên phụ trách các nhóm lớp cần phải xây dựng các loại kế hoạch: kế hoạch năm học,
kế hoạch tháng, kế hoạch tuần.
Nếu phân loại kế hoạch theo nội dung công việc thì giáo viên phải xây dựng “kế hoạch chủ
nhiệm” và “kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ” (còn gọi là kế hoạch chuyên môn).
a) Xây dựng kế hoạch năm học
Nội dung kế hoạch năm học phải trả lời được ba câu hỏi: Phải làm gì? Làm như thế nào?
Bao giờ thì hoàn thành?
Để trả lời ba câu hỏi đó, kế hoạch của lớp phải nêu rõ những vấn đề cơ bản sau đây:
1/ Đặc điểm tình hình lớp
* Thuận lợi
23


* Khó khăn
2/ Mục tiêu phấn đấu thực hiện trong năm học
* Mục tiêu chung
* Mục tiêu cụ thể
a. Mục tiêu số lượng: Số trẻ nhận vào lớp, tỷ lệ chuyên cần (dựa vào chỉ tiêu trường giao
cho lớp).
b. Mục tiêu chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ:
- Chỉ tiêu đạt được về chăm sóc, nuôi dưỡng
- Mục tiêu tăng cường sức khoẻ, bảo vệ an toàn

Các mục tiêu này bao gồm chăm sóc bữa ăn cho trẻ, cân đo, tiêm chủng, khám sức khỏe
định kỳ, vệ sinh thân thể, môi trường, theo dõi sự phát triển của trẻ, phòng chống suy dinh dưỡng…
c. Mục tiêu giáo dục trẻ
- Mục tiêu đạt được theo Chương trình giáo dục với từng độ tuổi.
- Mục tiêu chất lượng thực hiện quá trình giáo dục.
- Chỉ tiêu đạt được đối với các chuyên đề trọng tâm.
d. Mục tiêu sử dụng, bảo quản cơ sở vật chất của nhóm, lớp.
e. Các mục tiêu khác: thi đua, các hoạt động phong trào, công tác tuyên truyền, vận động,
công tác đoàn thể, sáng kiến kinh nghiệm…
Việc đăng ký thi đua, đăng ký sáng kiến kinh nghiệm có thể tách thành các đề mục riêng.
3/ Những biện pháp thực hiện
Mỗi mục tiêu được xác định phải lựa chọn biện pháp thực hiện tương ứng, có như vậy mục
tiêu mới thành kết quả và kế hoạch mới có khả năng trở thành hiện thực.
Ghi chú: Trong kế hoạch có thể không tách riêng các phần mục tiêu và biện pháp, mà trình
bày theo từng đề mục (Từng mảng công tác có mục tiêu và biện pháp đi kèm). Ví dụ: Công tác phát
triển số lượng; công tác đảm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ…
Xây dựng kế hoạch năm học chính là định trước những công việc phải làm, đó là sản phẩm
trí tuệ của người giáo viên, là ý chí và quyết tâm của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ năm học.
Bản kế hoạch năm học là chương trình hành động quản lý công việc, quản lý nhóm lớp của giáo
viên trong suốt kỳ kế hoạch. Cán bộ quản lý trường mầm non có trách nhiệm duyệt và đóng góp ý
kiến để kế hoạch của từng nhóm lớp được hoàn chỉnh, thực sự trở thành một bộ phận quan trọng
của kế hoạch nhà trường.
b) Xây dựng kế hoạch tháng
Xây dựng kế hoạch tháng phải căn cứ vào kế hoạch năm học của lớp, chương trình kế hoạch
công tác của trường trong tháng và tình hình, điều kiện thực tế của nhóm lớp.
Kế hoạch tháng có thể là bản kế hoạch thời gian (hoặc dự kiến kế hoạch, lịch hoạt động), cụ
thể hóa việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non theo chủ đề, nhóm lớp (độ tuổi).
Nội dung, cấu trúc bản kế hoạch này có thể trình bày theo mẫu sau:

24



×