Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 29 trang )

MỤC LỤC

TT

Nội dung

I

PHẦN MỞ ĐẦU

Trang
2

1 Lý do chọn đề tài
2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

2

3 Đối tượng nghiên cứu
4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu

3

5 Phương pháp nghiên cứu

3

II

3


PHẦN NỘI DUNG

3
3

1 Cơ sở lí luận

3

2 Thực trạng

5

2.1 Thuận lợi ­ khó khăn.
2.2 Thành công ­ hạn chế

5

2.3 Mặt mạnh ­ mặt yếu
2.4 Nguyên nhân, các yếu tố tác động

7

2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra

8

5

3 Giải pháp, biện pháp


7
9

3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp biện pháp

9

3.3 Điêu kiên th
̀
̣
ực hiên giai phap, biên phap
̣
̉
́
̣
́

23

3.4 Môi quan hê gi
́
̣ ưa cac giai phap, biên phap
̃ ́
̉
́
̣
́


24

3.5 Kêt qua khao nghiêm, gia tri khoa hoc cua vân đê nghiên c
́
̉
̉
̣
́ ̣
̣
̉
́ ̀
ứu.

24

4

Kết quả  thu được qua khao nghiêm, gia tri khoa hoc cua vân
̉
̣
́ ̣
̣
̉
́ 
đê nghiên c
̀
ưu.
́

III PHẦN KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ


9

24
25

1 Kết luận

25

2 Kiến nghị

26

         1. Lý do chọn đề tài

I.  PHẦN MỞ ĐẦU

1


         Môn toán ở tiểu học có một tầm quan trọng đặc biệt. Thông qua môn 
toán trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về toán học, rèn cho học 
sinh kỹ năng tính, giải toán. Đồng thời qua dạy toán giáo viên hình thành cho 
học sinh phương pháp học tập; khả năng phân tích tổng hợp, óc quan sát, trí 
tưởng tượng tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo, tư duy độc lập.
          Đối với mạch kiến thức: “Giải toán có lời văn” là một trong 5 mạch 
kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải 
toán có lời văn, các em phát huy được trí tuệ, rèn luyện kỹ  năng tổng hợp: 
đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức  

tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ 
được giải các bài toán về  số  học, các yếu tố  đại số, các yếu tố  hình học và 
đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế  đời 
sống, giữa toán học với các môn học khác.
         Dạy học môn Toán  ở lớp Một nhằm giúp học sinh:
         + Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép 
đếm, về  các số  tự  nhiên trong phạm vi 100, về  độ  dài và đo độ  dài trong 
phạm vi 20, về tuần lễ và ngày trong tuần, về giờ đúng trên mặt đồng hồ; về 
một số hình học (Đoạn thẳng, điểm, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về 
bài toán có lời văn.
         + Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành đọc, viết, đếm, so sánh  
các số trong phạm vi 100; cộng, trừ không nhớ trong phạm vi 100; đo và ước 
lượng độ dài đoạn thẳng (với các số đo là số  tự nhiên trong phạm vi 20 cm). 
Nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ  điểm, 
vẽ  đoạn thẳng). Giải một số  dạng bài toán đơn về  cộng trừ  bước đầu biết  
biểu đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài 
thực hành, tập so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá  
trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của 
học sinh.
         + Chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và học sinh có hứng thú học  
toán.
         Những năm gần đây đã có nhiều đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường 
miệt mài với đề tài nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn cho học sinh lớp  
1” mang lại kết quả khả quan nhưng kết quả đó bao hàm với mọi đối tượng  
học sinh. Dựa trên hoàn cảnh thực tế tại đơn vị  tôi với tỉ  lệ  trên 75% là học  
sinh đồng bào dân tộc thiểu số thì tôi rất trăn trở  và suy nghĩ làm thế nào để 
học sinh đồng bào dân tộc thiểu số lớp Một làm được các phép tính cộng, trừ 
đã khó việc giải toán có lời văn thì càng khó hơn. Vì vậy tôi đã nghiên cứu đề 
tài “Một số  biện pháp nâng cao chất lượng Giải toán có lời văn cho học  
sinh lớp 1 dân tộc thiểu số” 

2


        2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
        ­ Mục tiêu: 
        + Áp dụng một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn.
         + Góp phần nâng cao chất lượng dạy học Toán nói chung và dạy giải  
toán có lời văn nói riêng.
         ­ Nhiệm vụ: Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn nhằm giúp học sinh:
        + Nhận biết thế nào là một bài toán có lời văn.
         + Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn bằng một phép tính 
cộng hoặc một phép tính trừ.
        + Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán và  khả 
năng diễn đạt đúng.
        3. Đối tượng nghiên cứu, 
        Biện pháp nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn” trong chương trình  
lớp 1 ở Tiểu học.
       4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
             Một số  biện pháp nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn” trong 
chương trình toán 1. 
        5 . Phương pháp nghiên cứu.
        Để thực hiện nội dung của đề tài, tôi đã sử  dụng một số phương pháp  
cơ bản sau:
        ­ Tổng hợp lý luận thông qua các tài liệu, sách giáo khoa và thực tiễn dạy  
học của lớp 1C ­ khối I­ Trường Tiểu học Ea Bông.
        ­ Đánh giá quá trình dạy toán. Loại bài giải toán có lời văn từ những năm  
gần đây.
        ­ Tiến hành khảo sát chất lượng học sinh.
        ­ Đúc rút kinh nghiệm qua quá trình nghiên cứu. 
 

II. PHẦN NỘI DUNG
        1. Cơ sở lí luận
            Sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự  thách thức  
trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ  đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, 
trong đó có sự đổi mới cơ bản về phương pháp dạy học. Những phương pháp 
dạy học kích thích sự tìm tòi,  sự tư duy của học sinh. Mục tiêu giáo dục của  
Đảng đã chỉ rõ: “… Đào tạo có chất lượng tốt những người lao động mới có 
ý thức và đạo đức xã hội chủ  nghĩa, có trình độ  văn hoá phổ  thông và hiểu 
biết kỹ  thuật, có kỹ  năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khoẻ 
tốt…”. Muốn đạt được mục tiêu này thì dạy và học Toán trong trường phổ 
thông là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Cố thủ tướng Phạm Văn 
Đồng cũng nói về vị trí vai trò của bộ môn Toán: “ Trong các môn khoa học và  
kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với kỹ thuật,  
3


với sản xuất và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta  
nhiều trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, 
phương pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn 
luyện trí thông minh sáng tạo. Hội nghị Ban Chấp hành trung ương khoá VIII 
lần thứ  2 đã chỉ  rõ: “ Đổi mới mạnh mẽ  phương pháp giáo dục và đào tạo, 
khắc phục lối truyền thụ  một chiều, rèn luyện tư  duy sáng tạo của người 
học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, phương pháp hiện đại vào 
quá trình dạy học”. Trong luật Giáo dục, Khoản 2, điều 24 đã ghi: “Phương  
pháp giáo dục phổ  thông phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động sáng  
tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi 
dưỡng phương pháp tự  học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực  
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học  
sinh”. Đổi mới cách thực hiện phương pháp dạy học là vấn đề  then chốt của 
chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới cách  

thực hiện phương pháp dạy học sẽ  làm thay đổi tận gốc nếp nghĩ, nếp làm  
của các thế hệ học trò ­ chủ nhân tương lai của đất nước. Như vậy, đổi mới 
phương pháp dạy học sẽ tác động vào mọi thành tố của quá trình giáo dục và 
đào tạo. Nó tạo ra sự  hiện đại hoá của quá trình này. Đổi mới phương pháp 
dạy học thực chất không phải là sự  thay thế  các phương pháp dạy học cũ 
bằng một loạt các phương pháp dạy học mới. Về  mặt bản chất, đổi mới 
phương pháp dạy học là đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới  
phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để 
ưu điểm các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới 
nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của người học. Mục  
đích của đổi mới phương pháp dạy học chính là làm thế nào để học sinh phải 
thực sự tích cực, chủ động, tự giác, luôn trăn trở tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo  
trong quá trình lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có được tri thức ấy 
nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Mặt khác môn toán thiết 
thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học theo đặc trưng và khả 
năng của môn Toán, cụ thể là chuẩn bị cho học sinh những tri thức, kỹ năng 
toán học cơ  bản cần thiết cho việc học tập hoặc bước vào cuộc sống lao 
động. Đối với môn Toán lớp Một, môn học có vị  trí nền tảng, là cái gốc, là 
điểm xuất phát của cả  một bộ  môn khoa học. Môn Toán mở  đường cho các  
em đi vào thế  giới kỳ diệu của toán học. Rồi mai đây, các em lớn lên, nhiều 
em trở  thành vĩ nhân, trở  thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ…  
trở  thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời 
sống, trên tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi… nhưng không  
bao giờ  các em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập 
viết 1, 2, 3 … học các phép tính cộng, trừ… Các em không quên được vì đó là  
kỷ  niệm đẹp đẽ  nhất của đời người và hơn thế  nữa, những con số, những  
4


phép tính ấy cần thiết cho suốt cả cuộc đời. Đối với mạch kiến thức : “Giải  

toán có lời văn”, là một trong năm mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương 
trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải toán có lời văn, các em được phát 
triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, 
tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức 
toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các 
yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc 
cầu nối giữa toán học và thực tế  đời sống, giữa toán học với các môn học 
khác. 
        2. Thực trạng
        2.1. Thuận lợi và khó khăn
        a. Thuận lợi
         Toán có lời văn có những thuận lợi nhất định: Những bài toán có lời văn 
là những bài toán lấy từ thực tế cuộc sống. Nội dung bài toán được thông qua  
những câu văn nói về  những quan hệ tương quan và phụ  thuộc, có liên quan 
đến sự việc xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn 
là: phải biết lược bỏ những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học  
của bài toán, hay nói cách khác là chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố 
toán học chứa đựng trong bài toán và nêu ra cách giải thích hợp để  từ  đó tìm  
được phép tính đúng và có đáp số  đúng của bài toán. Bên cạnh đó cái khó từ 
phía học sinh là: ít em chịu khó đọc kỹ đề, phần lớn các em chưa biết dựa vào  
dữ kiện bài toán để phân tích và suy ngẫm  hoặc phân tích không đúng hướng, 
không lôgic. 
         b. Khó khăn
         Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học Ea Bông, kể từ khi về trường tới 
nay tôi luôn được phân công dạy học sinh dân tộc thiểu số. Vì vậy, qua thời 
gian giảng dạy tôi nhận thấy các em phát âm đa số là số là thiếu dấu, viết sai  
lỗi chính tả. Đặc biệt học sinh lớp Một và hầu hết giáo viên đều phàn nàn khi  
dạy đến phần giải toán có lời văn ở lớp Một. Học sinh rất lúng túng khi nêu 
câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. 
Những tiết đầu tiên của giải toán có lời văn mỗi lớp chỉ  có khoảng 20% số 

học sinh biết nêu lời giải, viết đúng phép tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ 
hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các 
em lại rất lúng túng, làm sai, một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại không 
biết để  trả  lời. Chứng tỏ  các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách  
giải bài toán có lời văn. Giáo viên phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến 
phần này. 
         2.2. Những thành công và hạn chế 
a. Những thành công
5


Trong những năm học qua, đã có một vài đồng nghiệp cũng trăn trở về 
các biện pháp “giải toán có lời văn” và bên cạnh đó nhà trường đã tổ chức các 
cuộc thi và giao lưu giữa các lớp trong tổ khối nhằm phát hiện học sinh năng  
khiếu môn Toán và đạt kết quả như sau.
          Kết quả điều tra  năm học 2013 – 2014 

TT

Lớ
p

sĩ 
số

1
2
3

1A

1B
1C

20
26
22

HS  viết 
đúng câu 
lời giải
8
40%
12 46,2%
10 38,5%

HS viết 
HS viết 
HS giải đúng 
đúng phép 
đúng đáp số
cả 3 bước
tính
10
50%
10
50%
8
40%
18 69,2% 14 53,8% 12
46,2%

13 49,9% 19 73,1% 10
38,5%

            Kết quả điều tra  năm học 2014 ­ 2015

TT

Lớ
p

sĩ 
số

HS  viết 
đúng câu 
lời giải
10 71.4%
15 75%
14 70%

HS viết 
HS viết 
HS giải đúng 
đúng phép 
đúng đáp số
cả 3 bước
tính
12 85,7% 12 85,7% 10
71,4%
17

85%
17
85%
15
75%
16
80%
16
80%
14
70%

1
1A 14
2
1B 20
3
1C 20
       
          Qua cuộc khảo sát trong bài kiểm tra của học sinh cho thấy chất lượng  
giải toán có lời văn  được nâng lên rõ rệt. Lỗi của học sinh trong bài khảo sát  
Tỷ  lệ  Giỏi 9,10 đạt 29/54 trình bày còn bẩn. Khá 7,8 đạt 39/54 em trình bày 
còn bẩn, câu lời giải chưa chuẩn. Trung bình 5,6 đạt 45/54 em chỉ  làm đúng 
phép tính và đáp số, sai tên đơn vị, sai câu lời giải. Yếu dưới 5 đạt 9 em 
không biết làm bài. 
          Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn, kết quả  của bài toán  
đúng. Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn Toán nói chung và “Giải 
toán cơ  lời văn” nói riêng. Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời 
văn vào thực tế.
         b. Những hạn chế            

         Về học sinh: Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu  
học thì tuyến kiến thức “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn 
nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một  dân tộc 
thiểu số. Bởi vì đối với lớp Một vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu,  
khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay  
nói chung là học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. 
Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính 
6


của bài   nhưng không thể  trả  lời hoặc lí giải là tại sao các em lại có được 
phép tính đúng như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy các em thực sự lúng túng 
khi giải bài toán có lời văn. Một số  em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết  
phân tích đề toán để tìm ra lối giải, chưa biết tổng hợp để  trình bày bài giải,  
diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ  toán học còn rất hạn chế, kỹ  năng 
trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp  
học toán và giải toán một cách máy móc rập khuôn, bắt chước.
         Trình bày bài làm còn chưa sạch đẹp, một số  học sinh chưa biết cách 
đặt câu lời giải  phù hợp hoặc  không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn 
đến không làm được bài.
         Về  giáo viên: Một số giáo viên ngại sử dụng đồ  dùng minh hoạ, ngại 
tóm tắt bằng sơ  đồ  hình vẽ  hoặc đoạn thẳng, sử  dụng phương pháp phân 
tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm đường lối giải và giải toán còn  
khó hiểu.
          Về đồ dùng dạy học: Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để 
học sinh học tốt “giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ 
dùng thiết bị  dạy học để  minh họa. Trong những năm qua, các trường Tiểu  
học đã được cung cấp khá nhiều trang thiết  bị về đồ dùng dạy học đồng bộ 
để dạy cho cả cấp học để dạy theo lớp nhưng thống kê theo danh mục thì số 
lượng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu dạy “giải toán có lời văn”.

         Về cha mẹ học sinh: Một số phụ huynh chỉ quan tâm dấu hiệu bên ngoài 
của việc học tập đó là chỉ  cần biết tính toán là được. Bên cạnh đó phần đa  
hoàn cảnh gia đình các em còn khó khăn do đó cha mẹ hầu như  chỉ  chăm lo 
làm kinh tế mà chưa thực sự quan tâm tới việc học tập và giúp đỡ các em tháo 
gỡ kịp thời những khúc mắc, khó khăn trong học tập khiến các em bỡ ngỡ khi 
làm bài, đặc biệt là giải toán có lời văn dẫn đến sự chán nản, thiếu tự tin, từ 
đó tạo nên những lỗ hổng kiến thức trong học tập của các em.
         Bên cạnh những thành công mà đồng nghiệp tôi đã thực hiện được thì 
không ít mặt hạn chế và tồn tại cần được khắc phục. Chính vì vậy tôi đã xây 
dựng sáng kiến riêng cho bản thân mình nhằm sử dụng các biện pháp để nâng 
cao chất lượng “giải toán có lời văn”.
         2.3. Những mặt mạnh, mặt yếu
         a. Mặt mạnh
         Khi thực hiện đề  tài này được sự   ủng hộ  và động viên của Lãnh đạo 
nhà trường, cha mẹ  học sinh và đa số  giáo viên trong tổ  khối I nhằm mang 
đến cho cả giáo viên và học sinh kết quả cao nhất. 
         b. Mặt yếu
         Thời gian thực hiện đề tài còn hạn chế.
         Tài liệu phục vụ cho đề tài chưa đáp ứng được yêu cầu đạt ra.
         2.4. Nguyên nhân, các yếu tố tác động       
7


         + Nguyên nhân từ phía HS:
         Về học sinh: Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu  
học thì tuyến kiến thức “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn 
nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì  
học sinh lớp Một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy 
lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay nói chung học 
sinh chưa biết cách tự  học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với 

một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng 
không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy.  
Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự  lúng túng khi giải bài toán có lời 
văn, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ  toán học còn rất hạn chế, kỹ 
năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học. 
         + Nguyên nhân từ phía giáo viên:
         Về giáo viên: Vẫn còn một số giáo viên chuyển đổi phương pháp giảng 
dạy còn  lúng túng,  chưa phát  huy  được tích  cực chủ   động của  học  sinh,  
phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào tư  duy vào lề  lối dạy học  
hàng ngày. Một số  giáo viên dạy theo cách thông báo kiến thức sẵn có, dạy 
theo phương pháp thuyết trình có kết hợp với đàm thoại, thực chất vẫn là 
“thầy truyền thụ, trò tiếp nhận ghi nhớ”.  
         + Những sai lầm và khó khăn thường gặp của giáo viên và học sinh khi  
dạy và học tuyến kiến thức : “Giải toán có lời văn” ở lớp Một: Về mặt nhận 
thức giáo viên còn coi việc dạy  “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một  
là đơn giản, dễ  dàng nên chưa tìm tòi nghiên cứu để  có phương pháp giảng  
dạy hiệu quả, đôi khi giáo viên giảng  cho học sinh lớp Một đã diễn đạt như 
với các lớp trên làm học sinh khó hiểu và không thể tiếp thu được kiến thức  
trong việc giải các bài toán có lời văn. Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều  
phương pháp để  dạy tuyến kiến thức: “Giải toán có lời văn” ở  lớp Một còn 
thiếu linh hoạt. Giáo viên còn lúng túng khi tạo các tình huống sư  phạm để 
nêu vấn đề. Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ  một cách hợp lý các  
nhóm cũng như các đối tượng học sinh trong quá trình học. Khả năng kiên trì  
của học sinh lớp Một trong quá trình học nói chung cũng như học “Giải toán 
có lời văn” nói riêng còn chưa cao.   
         2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt  
ra
         Vấn đề nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn” ở lớp Một hiện nay  
là một vấn đề nan giải mà đa số  giáo viên và nhà trường quan tâm. Để  nâng  
cao chất lượng giải toán có lời văn phải có kế hoạch cụ thể cho đội ngũ giáo  

viên thông qua việc nâng cao trình độ chuyên môn và tiếp tục đổi mới phương  
pháp giáo dục theo hướng tích cực, sáng tạo của học sinh nhiệm vụ  đặt ra 
chúng ta phải đưa ra phương pháp dạy hiệu quả nhất.
8


         Một trong những yếu tố không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng 
“giải toán có lời văn”  ở  lớp Một là việc tăng cường động viên các em học  
sinh luyện tập thực hành giải toán có lời văn mọi lúc mọi nơi.  Kiên trì, bền bỉ 
là yếu tố  góp phần không nhỏ  vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy của  
đội ngũ giáo viên từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
                 Để  nâng cao chất lượng giảng dạy thì việc  Tăng cường sử  dụng 
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy tính tích cực  của học sinh 
càng không thể thiếu trong mỗi bài dạy, tiết dạy học toán.
         Thường xuyên đánh giá để có biện pháp giúp đỡ học sinh kịp thời  đây là 
yếu tố  vô cùng quan trọng góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng  
giải toán có lời văn nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Việc thường 
xuyên đánh giá nhằm phát huy năng lực của từng học sinh, và kịp thời động 
viện khích lệ tinh thần học tập của các em.
         Đồng thời việc kết hợp giữa Gia đình – Nhà trường­ Xã hội cũng là vấn 
đề lớn để nâng cao chất lượng giảng dạy. 
         3.  Giải pháp, biện pháp.
         3.1. Mục tiêu của giải pháp:
         Chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh lớp Một trong hai năm 
qua đã có những chuyển biến đi lên đáng kể, tuy nhiên vẫn chưa đạt được  
mức chất lượng tối thiểu theo quy định của trường, ngành Giáo dục đề ra. Để 
tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh lớp Một 
trường Tiểu học Ea Bông trong giai đoạn hiện nay nhằm đạt chất lượng tối  
thiểu, mục tiêu chính của tôi như sau:
         3.2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp

          ­ Nắm bắt nội dung chương trình Để  dạy tốt môn Toán lớp  Một nói 
chung, “Giải bài toán có lời văn” nói riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải 
nắm thật chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa. Nhiều người nghĩ rằng  
Toán tiểu học, và đặc biệt là toán lớp Một thì ai mà chả  dạy được. Đôi khi 
chính giáo viên đang trực tiếp dạy cũng rất chủ  quan và cũng có những suy  
nghĩ tương tự như vậy. Qua dự giờ một số đồng chí giáo viên tôi nhận thấy 
giáo viên dạy bài nào chỉ cốt khai thác kiến thức của bài ấy, còn các kiến thức  
cũ có liên quan giáo viên nắm không thật chắc. Người ta thường nói “Biết 10 
dạy 1” chứ không thể  “Biết 1 dạy 1” vì kết quả thu được sẽ không còn là 1  
nữa. 
         ­ Dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp Một theo từng mức độ.
        Mức độ 1: Ngay từ đầu học kỳ I các bài toán được giới thiệu ở mức độ 
nhìn hình vẽ  ­ viết phép tính. Mục đích cho học sinh hiểu bài toán qua hình 
vẽ, suy nghĩ chọn phép tính thích hợp.

9


        Thông thường sau mỗi phép tính ở phần luyện tập có một hình vẽ gồm 5 
ô vuông cho học sinh chọn ghi phép tính và kết quả phù hợp với hình vẽ. Ban 
đầu để giúp học sinh dễ thực hiện sách giáo khoa ghi sẵn các số và kết quả :
Ví dụ: Bài 5 trang 46                                                
        a)
1

  

2

=


3

Chỉ yêu cầu học sinh viết dấu cộng vào ô trống để có : 1 + 2 = 3
 b) Đến câu này nâng dần mức độ  học sinh nhìn vào hình vẽ để hình dung số 
quả bóng và phải đặt được các số để thành phép tính và kết quả 
+

=

    
          Kết quả đạt được là:
1
+
2
=

3

    
         Và yêu cầu tăng dần, học sinh có thể nhìn từ một tranh vẽ bài 4 trang 77 
diễn đạt theo  2 cách .         

 Cách 1:  Có 8 hộp thêm 1 hộp, tất cả là 9 hộp. 
8

+

1


=

9

Cách 2: Có 1 hộp đưa vào chỗ 8 hộp, tất cả là 9 hộp. 
10


   
1

+

8

=

9

Tương tự câu b : Có 7 bạn và 2 bạn đang đi tới. Tất cả là 9 bạn. 
 
 Cách 1:
   
7
+
2
=
9
Cách 2:
2


+

7

=

9

      Giáo viên hướng dẫn để các em biết được hướng đi của hình mũi tên thì 
học
sinh phải làm phép tính gì?
         Đến bài 3 trang 85

        Học sinh quan sát và cần hiểu được: 
        Lúc đầu trên cành có 10 quả. Sau đó rụng 2 quả . Còn lại trên cành 8 quả. 
10

­

2

=

8

 
        Ở đây giáo viên cần động viên các em diễn đạt trình bày miệng ghi đúng 
phép tính. Tư  duy toán học được hình thành trên cơ  sở  tư  duy ngôn ngữ  của 
học sinh. Khi dạy bài này cần hướng dẫn học sinh diễn đạt trình bày động 

viên các em viết được nhiều phép tính để  tăng cường khả  năng diễn đạt cho 
học sinh. 
11


         Mức độ 2:   Đến cuối học kì I học sinh đã được làm quen với tóm tắt 
bằng lời:
Bài 3 trang 87 
  B, Có      : 10 quả bóng 
       Cho   : 3 quả bóng
       Còn   :.... quả bóng? 
10

­

3

=

7

       
         Học sinh từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần dần 
thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học 
sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề  bài và lời giải bài toán  
bằng lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết lời giải.
         Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có 
thể  động viên học sinh khá giỏi làm nhiều cách, có nhiều cách diễn đạt từ 
một hình vẽ hay một tình huống sách giáo khoa. 
          Mức độ 3:  Giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách cho học sinh tiếp  

cận với một đề  bài toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ  và yêu cầu hoàn  
thiện (tiết 81­ bài toán có lời văn). Tư  duy học sinh từ  hình  ảnh phát triển  
thành ngôn ngữ, thành chữ viết. Giải toán có lời văn ban đầu được thực hiện 
bằng phép tính cộng là phù hợp với tư duy của học sinh.
         Cấu  trúc một đề toán gồm 2 phần: phần cho biết và phần hỏi, phần cho  
biết gồm có 2 yếu tố. 
          Mức độ 4: Để hình thành cách giải bài toán có lời văn, sách giáo khoa 
đã nêu một bài toán, phần tóm tắt đề toán và giải bài toán hoàn chỉnh để học  
sinh làm quen.( Bài toán­ trang 117)
          Giáo viên cần cho học sinh nắm vững đề toán, thông qua việc tóm tắt  
đề toán. Biết tóm tắt đề toán là yêu cầu đầu tiên để giải  bài toán có lời văn.
          Bài giải gồm 3 phần :  câu lời giải, phép tính và đáp số.
          Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng phần  
tóm tắt cần được luyện kỹ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ, chính xác.  
Câu lời giải trong bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải theo mẫu như 
nhau, tạo diều kiện cho học sinh diễn đạt câu trả  lời theo ý hiểu của mình.  
Quy  ước viết đơn vị  của phép tính trong bài giải học sinh cần nhớ  để  thực  
hiện  khi trình bày bài giải. 
          Bài toán giải  bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành 
thạo giải ài toán có lời văn bằng phép tính cộng.   Giáo viên  chỉ  hướng dẫn 
cách làm tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán.

12


         Ở lớp Một, học sinh chỉ giải toán về thêm, bớt với một phép tính cộng 
hoặc trừ, mọi học sinh bình thường đều có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập  
một cách nhẹ nhàng nếu được giáo viên hướng dẫn cụ thể.
         GV dạy cho học sinh giải bài toán có lời văn cần thực hiện tốt các bước  
sau:

          + Đọc và tìm hiểu đề bài.
         +Tìm đườ ng lối giải bài toán.
         + Trình bày bài giải
         + Ki ểm tra l ại bài giải.
                ­ Mu ốn h ọc sinh hi ểu và có thể  giải đượ c bài toán thì điều quan  
trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu đượ c nội dung bài toán. 
Giáo viên cần tổ  chức cho các em đọc kỹ  đề  toán, hiểu rõ mộ t số  từ  khoá  
quan  tr ọng  nh ư   "   thêm,  và,   tất  cả,   ...  "   ho ặc  "b ớt,   bay  đi,   ăn  mất,  còn  
lại, ..." (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để  hỗ  trợ). Để  họ c sinh dễ hiểu  
đề  bài, giáo viên cần gạch chân các từ  ngữ  chính trong đề  bài. Một số 
giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc g ạch chân các từ chưa 
sát với nội dung c ần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho  
dễ nhìn.
                 Trong giai đoạn đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề  toán 
bằng cách đàm thoại " Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?" và dựa vào 
câu trả  lời của học sinh để  viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm 
tắt để nêu lại đề  toán. Đây là cách rất tốt để  giúp học sinh ngầm phân tích 
đề toán.
         N ếu h ọc sinh g ặp khó khăn trong khi đọc đề  toán thì giáo viên nên 
cho các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi. 
            Ví dụ   : Bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi:

13


        + Em thấy d ưới ao có mấy con vịt?  (Dướ i ao có 5 con vịt)
        + Trên bờ có mấy con v ịt? (Trên bờ có 4 con vịt)
        + Trên bờ và dướ i ao có tất cả mấy con v ịt? (Có tất cả 9 con vịt)
         Trong tr ườ ng h ợp không có tranh  ở  sách giáo khoa thì giáo viên có  
thể gắn mẫu vật (gà, vịt, ...) lên bảng từ để  thay cho tranh; ho ặc dùng tóm 

tắt bằng lời ho ặc s ơ đồ đoạn thẳng để hỗ  trợ học sinh đọ c đề  toán. 
        Thông thườ ng có 3 cách tóm tắt đề toán:
        Cách 1: Tóm tắt bằng l ời:
          Ví dụ 1 :   Lan có  : 3 quy ển v ở
                          Vy có    : 2 quy ển v ở
                    C ả hai b ạn có: ... quy ển v ở?                    
      Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
      Ví dụ 2 : Bài 2 trang 123
   
        A    5 cm            B     3 cm   C
                                       ? cm
         Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật:
          Ví dụ 3  : 

  Có  :             
                                   
        Có tất cả :.....con thỏ?

        Thêm   :           

 

14


                 Với các cách tóm tắt trên sẽ  làm cho học sinh d ễ  hi ểu và dễ  sử 
dụng.
         V ới cách viết thẳng theo c ột nh ư:     14 quyển        và     26 quả
                                                                 12 quy ển        33 qu ả
                                                                 ... quy ển ?       ... qu ả?

          Ki ểu tóm tắt như  thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có 
tác dụng gợi ý cho học sinh lựa ch ọn phép tính giải.
         Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học  
sinh dựa vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là mộ t quá trình  
không nên  vội  vàng  yêu cầu  các  em phải  đọc  thông thạo  đề  toán,  viết 
đượ c các câu lời giải, phép tính và đáp số  để  có một bài chuẩn mực ngay 
từ  tuần 23, 24. Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng b ước, mi ễn  
sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35) h ọc sinh đọc và giải đượ c bài toán là  
đạt yêu cầu. 
        Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề  toán để  xác định rõ cái đã cho và  
cái phải tìm.
        Chẳng h ạn:  Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An 
có tất cả mấy con gà?
        ­ Bài toán cho bi ết gì? (Nhà An có 5 con gà)
        ­ M ẹ mua thêm bao nhiêu con gà nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
        ­ Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
       Giáo viên nêu tiếp: "Muốn bi ết nhà An có tất cả  mấy con gà em làm 
phép tính gì? (tính cộng) Bao nhiêu cộng bao nhiêu? (5 + 4); 5 + 4 b ằng 
bao nhiêu? (5 + 4 = 9); ho ặc: " Muốn biết nhà An có tất cả  mấy con gà em 
tính thế  nào? (5 + 4  = 9); ho ặc: "Nhà An có tất cả  mấy con gà ?" (9) Em  
tính thế nào để đượ c 9 ? (5 + 4 = 9).
         Tới đây giáo viên gợi ý để  học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên  
ta viết "con gà" vào trong d ấu ngo ặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).      
   Sau khi h ọc sinh đã xác định đượ c phép tính, nhiều khi vi ệc h ướ ng d ẫn  
học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp  
số. Với học sinh lớp 1, l ần đầu tiên đượ c làm quen với cách giải loại toán 
này nên các em rất lúng túng. Có thể dùng một trong các cách sau:
           Cách 1  :  Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ  bớt từ  đầ u  (Hỏi)  và 
cuối (mấy con gà ?) để  có câu lời giải:"Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ 
"là" để có câu lời giải:  Nhà An có tất cả... là: 

               Cách 2  :  Đưa từ  "con gà"  ở  cuối câu hỏi lên đầu thay thế  cho từ 
"Hỏi" và thêm từ  Số (ở  đầu câu), là ở  cuối câu để  có: "Số  con gà nhà An 
có tất cả là:"
        Cách 3  : Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ  khoá" của  
câu lời giải r ồi thêm thắt chút ít. 
15


        Ví dụ: Từ  dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: ... con gà ?". Học sinh 
viết câu lời giải: " Nhà An có tất cả là:"
        Cách 4  : Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con  
gà?" để học sinh tr ả l ời mi ệng: "Nhà An có tất cả  9 con gà" rồi chèn phép 
tính vào để có cả bướ c giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Nhà An có tất cả số con gà là:
5   +   4   =   9 (con gà)
         Cách 5  : Sau khi h ọc sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ 
vào 9 và hỏi: "9 con gà  ở  đây là số  gà của nhà ai?" (là số  gà nhà An có tất  
cả). Từ  câu trả  lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời 
giải: "Số gà nhà An có tất cả là" v.v...
               Giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự  nêu nhiều câu lời giải  
khác nhau, sau   đó  bàn bạc  để  chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt 
buộc học sinh nh ất nh ất ph ải vi ết theo m ột ki ểu.
         Có thể  coi vi ệc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư 
duy. Thực tế hi ện nay các em học sinh l ớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn 
chế, kể  cả  học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh n ề  n ếp và thói quen 
trình bày bài giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy 
nháp, bảng lớp, bảng con hay v ở, gi ấy ki ểm tra. C ần trình bày bài giải  
một bài toán có lời văn như sau:
Bài giải
Số gà nhà An có tất cả là:

  5   +   4   =   9 (con gà)
    Đáp số : 9 con gà 
         N ếu l ời gi ải ghi: "S ố gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 
9 (con)”. (L ời gi ải đã có sẵn danh t ừ "gà").
          Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao t ừ  "con gà" lại đượ c đặt trong  
dấu ngoặc đơn?  “Con gà” là giá trị  của đơn vị  chung cho cả  ba ch ữ  s ố 
trong một phép tính. Đúng ra thì 5 + 4 chỉ  bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) ch ứ 5 + 4 
không thể  bằng 9 con gà đượ c. Do đó, nếu viết:"5 + 4 = 9 con gà" là sai. 
Nói cách khác, nếu vẫn mu ốn đượ c kết quả  là 9 con gà thì ta phải viết  
như  sau mới đúng: "5 con gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép  
tính với các đơn vị  đầy đủ  như  vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó 
khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1. Ngoài ra học sinh cũng 
hay viết thi ếu và sai như sau: 
5 con gà + 4 = 9 con gà 
5 + 4 con gà = 9 con gà 
5 con gà + 4 con gà = 9
         Về m ặt toán học thì ta phải dừng lại  ở 9, nghĩa là chỉ  đượ c viết 5 + 
4 = 9 thôi.
16


          Song vì các đơn vị  cũng đóng vai trò rất quan tr ọng trong các phép  
tính giải nên vẫn phải tìm cách để  đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới  
ghi thêm đơn vị  "con gà"  ở  trong dấu ngo ặc đơ n để  chú thích cho số  9 đó. 
Có thể hiểu rằng ch ữ "con gà” viết trong dấu ngoặc đơ n ở  đây chỉ  có mộ t 
sự  ràng buộc về mặt ng ữ  nghĩa với số  9, chứ  không có sự  ràng buộc chặt 
chẽ  về  toán học  với số  9. Như  vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một 
cách viết phù hợp. 
         Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thườ ng có thói quen 
khi làm bài xong không hay xem, ki ểm tra l ại bài đã làm. Giáo viên cần 

giúp học sinh xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra v ề  lời gi ải,  
về phép tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.  
         Khi giải bài toán có lời văn giáo viên lưu ý cho học sinh hiểu rõ những 
điều đã cho, yêu cầu phải tìm, biết chuyển dịch ngôn ngữ thông thường thành 
ngôn ngữ toán học, đó là phép tính thích hợp.
          Ví dụ, có một số quả cam, khi được cho thêm hoặc mua thêm nghĩa là 
thêm vào, phải làm tính cộng; nếu đem cho hay đem bán thì phải làm tính 
trừ,...
         Giáo viên hãy cho học sinh tập ra đề toán phù hợp với một phép tính đã 
cho, để các em tập tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến 
thức vào các tình huống thực tiễn.
        Ví dụ, với phép tính 3 + 2 = 5.Có thể có các bài toán sau:
          ­ Bạn Hà có 3 chiếc kẹo, chị  An cho Hà 2 chiếc nữa. Hỏi bạn Hà có  
mấy chiếc kẹo?
         ­ Nhà Nam có 3 con gà mẹ Nam mua thêm 2 con gà. Hỏi nhà Nam có tất  
cả mấy con gà?
         Có nhiều đề  bài toán học sinh có thể  nêu được từ  một phép tính. Biết 
nêu đề bài toán từ một phép tính đã cho, học sinh sẽ hiểu vấn đề sâu sắc hơn,  
chắc chắn hơn, tư duy và ngôn ngữ của học sinh sẽ phát triển hơn.
       * Tìm ra điểm yếu của học sinh: 
 Học sinh biết giải toán có lời văn nhưng kết quả chưa cao.
 Số học sinh  viết đúng câu lời giải đạt tỷ lệ thấp. 
 Lời giải của bài toán chưa sát với câu hỏi của bài toán.
        * Quá trình nghiên cứu và thực nghiệm:
Trong phạm vi 27 tiết dạy từ tiết 81 đến tiết 108 tôi đặc biệt chú ý vào 1 số 
tiết chính sau đây:
         Tiết 81:   Bài toán có lời văn (trang 115)

17



        Có ...bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn?
        HS quan sát tranh và trả lời câu hỏi 
        Điền vào chỗ chấm số 1 và số 3. 
        Qua tìm hiểu bài toán giúp cho học sinh xác định được bài có lời văn gồm 
2 phần:
        ­ Thông tin đã biết gồm 2 yếu tố.
   ­ Câu hỏi ( thông tin cần tìm )
        Từ đó học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập ở trang116:
   Có 1 con gà mẹ và 7con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà?
   Kết hợp giữa việc quan sát  tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên, 
học
sinh hoàn thành bài toán 4 trang 116:
 Có 4 con chim đậu trên cành, có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi có tất cả 
bao nhiêu con chim? 
       Tiết 82:  Giải toán có lời văn. ( trang 117)
  Giáo viên nêu bài toán .                        Học sinh đọc bài toán
  ­ Đây là bài toán gì?
    
Bài toán có lời văn.
  ­ Thông tin cho biết là gì ?
    
Có 5 con gà, mua thêm 4 con gà.
  ­ Câu hỏi là gì ?                                    Hỏi   nhà   An   có   tất   cả   mấy   con 
gà ?    
  Dựa vào tranh vẽ và tóm tắt mẫu 

18



Tóm tắt
    Có          : 5 con gà
   Thêm      : 4 con gà
      Có tất cả : ... con gà?
       GV đưa ra cách giải bài toán mẫu: 
Bài giải
         Nhà An có tất cả số con gà là:
               5 + 4 = 9 (con gà )
                      Đáp số: 9 con gà
  Bài 1 trang 117:    Học sinh đọc bài toán­ phân tích đề bài­ điền vào tóm 
tắt
và giải bài toán.
                 Tóm tắt:                                                                          
An có     :  4 quả bóng
Bình có  :  3 quả bóng
Cả hai bạn có :....quả bóng?
                                                 Bài giải 
                        Cả hai b ạn có số quả bóng là hoặc Số quả bóng hai bạn có  
là:
                                                   4 + 3 = 7 (quả bóng)
                                                        Đáp số: 7 quả bóng 
Bài 2 trang 118
       
19


Tóm tắt:
Có              :  6 bạn 
Thêm         :  3 bạn 
Có tất cả   :... bạn? 

                                             Bài  giải 
                                         Có tất cả số bạn là :
                                              6 + 3 = 9( bạn )
                                                  Đáp số: 9 bạn
   Qua 2 bài toán trên tôi rút ra cách viết câu lời giải như sau: Lấy dòng thứ 

của phần tóm tắt, thêm chữ là:   
  Ví dụ :  ­ Cả hai bạn có là:
               ­  Có tất cả là: 
  Tiết 85    Luyện tập 
       Bài 1 trang 122  HS đọc đề toán – phân tích bài toán ( như trên )
                             Điền số vào tóm tắt 
                              Vài ba học sinh nêu câu lời giải khác nhau
                             GV chốt lại một cách trả lời mẫu:
        ­ Số quả bóng của An có tất cả là:
        => Vậy qua bài tập trên học sinh đã mở rộng được nhiều cách viết câu 
lời giải khác nhau, song giáo viên chốt lại cách viết lời giải như sau:
          Thêm chữ   Số  + đơn vị tính của bài toán trước cụm từ  có tất cả là 
như ở tiết 82 đã làm.
           Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài (cm) cần thêm chữ 
dài vào trước chữ là
20


    
Ví dụ 
                           Tóm tắt 
              Đoạn thẳng AB      :  5cm
              Đoạn thẳng BC      :  3cm
              Cả hai đoạn thẳng  : ... cm?

Bài giải
Cả hai đoạn thẳng dài là:
5+ 3 = 8 ( cm)
Đáp số : 8 cm
        Tiết 86                   Tiết 104
        Hầu hết đều có bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán được cung 
cấp theo phân phối chương trình. Tuy nhiên, việc phân tích đề ­ tóm tắt ­ giải 
bài toán phải luôn luôn được củng cố  duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ 
bản vẫn là các mẫu lời giải cho các bài toán thêm là:
       ­ Có tất cả là:
       ­ Số ( đơn vị tính ) + có tất cả là:    
       ­ Vị trí ( trong, ngoài, trên, dưới, ...) + có tất cả là: 
       ­ ... đoạn thẳng....+ dài là:
       Tiết 105: Giải toán có lời văn(tiếp theo)
       Bài toán: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại 
mấy con gà?
      HS đọc – phân tích bài toán :
      +Thông tin cho biết là gì?                   Có 9 con gà. Bán 3 con gà. 
      +Câu hỏi là gì ?                                    Còn lại mấy con gà?
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tóm tắt, làm bài giải mẫu.  Giáo viên giúp 
học sinh nhận thấy câu lời giải  ở  loại toán bớt này cũng như  cách viết của 
loại toán thêm đã nêu  ở  trên chỉ  khác  ở  chỗ  cụm từ  có tất cả được thay thế 
bằng cụm từ còn lại mà thôi.Cụ thể là :    
                                              Bài giải                                       
                                        Số gà còn lại là:
                                           9 – 3 = 6 (con gà) 
                                                Đáp số: 6 con gà.

21



Bài 1 trang148

Tóm tắt
Có       : 8 con chim
Bay đi  : 2 con chim
Còn lại   :... con chim?
Bài giải
Số  chim còn lại là:
                   8 ­ 2 = 6 (con chim)
                               Đáp số : 6 con chim.
Bài 3 trang 149
Tóm tắt
Đàn vịt có : 8 con
ở dưới ao  : 5 con
    Trên bờ    : ... con?
Bài giải
Trên bờ có số con vịt là:
            8 – 5 = 3 (con vịt)
                         Đáp số:  3 con vịt .
        * Nhưng bài 4 trang 150 và bài 4 trang151 thì lời giải dựa vào dòng thứ 3 
của phần tóm tắt bài toán:
                         Bài giải 
                  Bài giải
22


Số hình tam giác không tô màu là :            Số hình tròn không tô màu là:
                 8  ­  4 = 4( hình )                                      15 ­  4 = 11( hình ) 
                  Đáp số: 4 hình tam giác                            Đáp số: 11 hình tròn.

        *  Bài 3 trang 151  Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng 
        Một sợi dây dài 13 cm, đã cắt đi 2 cm. Hỏi sợi dây còn lại dài bao nhiêu 
xăng­ti­mét?
                                                       ? cm                                       2cm
                   
                                                                   13cm
                                              
Bài giải
Sợi dây còn lại dài số xăng­ti­mét là:
13 – 2 = 11( cm)
                            Đáp số : 11cm
   Tiết  108      Luyện tập chung
    Đây là phần tổng hợp chốt kiến thức của cả 2 dạng toán đơn  thêm và 
bớt ở
lớp 1
   Bài 1 trang 152
      A/   Bài   toán:   Trong   bến   có   .....ô   tô,     có   thêm....ô   tô   vào   bến  
. Hỏi................................................................?
   HS quan sát tranh và hoàn thiện bài toán thêm rồi giải bài toán với câu lời 
giải có cụm từ có tất cả 
   B/ Bài toán: Lúc đầu trên cành có 6 con chim, có ....con bay đi.     
       Hỏi .............................................? 
  HS quan sát tranh rồi hoàn thiện bài toán bớt và giải bài toán với câu lời 
giải 
có cụm từ còn lại
  Lúc này HS đã quá quen với giải bài toán có lời văn nên hướng dẫn cho  
học 
sinh chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó là:
  ­  Đọc kĩ câu hỏi.
  ­ Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.

  ­ Thay chữ bao nhiêu bằng chữ  số. 
  ­ Thêm vào cuối câu chữ  là và dấu hai chấm 
  Cụ thể Bài 1 trang 152

23


  A, Câu hỏi là:       Hỏi có tất cả bao nhiêu ô tô?
     Câu lời giải là:        Có tất cả     số          ô tô là : 
  B, Câu hỏi là:     Hỏi trên cành còn lại bao nhiêu con chim?
     Câu lời giải là:       Trên cành còn lại     số          con chim là :
     VD khác:
          Câu hỏi là: Hỏi hai lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây ?
          Câu lời giải là:       Hai lớp trồng được tất cả số cây là:
          Câu hỏi là: Hỏi con sên bò được tất cả bao nhiêu xăng­ti­mét?
          Câu lời giải là:        Con sên bò được tất cả     số         xăng­ti­mét là?
          Câu hỏi là: Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết quyển 
sách?
          Câu lời giải là:  Lan còn phải đọc số trang nữa là:
          Trên đây là 2 mẫu toán đơn điển hình của phần giải toán có lời văn ở 
lớp Một. Tôi đã đưa ra phương pháp dạy từ  dễ  đến khó để  học sinh có thể 
giải toán mà không gặp khó khăn ở bước viết câu lời giải. Tối thiểu học sinh  
có lực học trung bình yếu cũng có thể chọn cho mình một cách viết đơn giản 
nhất bằng cụm từ:  
                     Có tất cả là:
                                        Hoặc :   Còn lại là:
         Còn học sinh khá giỏi các em có thể chọn cho mình được nhiều câu lời  
giải khác nhau nâng dần độ khó thì lời giải càng hay và sát với câu hỏi hơn.
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
         Điều kiện để  thực hiện các biện pháp trên có các công văn 4119 /BGD  

ĐT –GDTH ngày 06 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Công văn 
số 1043/SGD ĐT­GDTH ngày 28 tháng 08 năm 2014 của Sở Giáo dục Đào tạo 
Đăk Lăk. Căn cứ  Công văn số  1012 /PGD ĐT – GDTH ngày 17 tháng 9 năm  
2014 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Krông Ana.
24


        Điều lệ trường tiểu học (Ban hành kèm theo Thông tư số 41/ 20010/TT­
BGD ĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)  
Thông tư 32/2009/TT­BGDĐT ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ 
Giáo dục và Đào tạo. Thông tư  39/2009/TT­ BGD ĐT ngày 29 tháng 12 năm 
2009. Thông tư 30/2014/TT­BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014.
Luật   Giáo   dục   năm   2005.   Công   văn   số   5842/BGDDT­VP,   ngày 
01/9/2011 của Bộ  Giáo dục và Đào tạo về  việc hướng dẫn điều chỉnh nội 
dung dạy học giáo dục phổ thông.
         3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp: 
          Các biện pháp thực hiện có mối quan hệ mật thiết  với nhau biện pháp 
này là tiền đề  cho biện pháp khác.  Đầu tiên chúng ta nâng cao và trình  độ 
chuyên môn cho từng giáo viên. Từ  đó người giáo viên có được những kiến 
thức cơ  bản về  chuyên môn để  đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng 
tích cực, sáng tạo. 
         Để học sinh thích học, giáo viên yêu trường yêu lớp một trong vấn đề 
không thể  thiếu là tạo cảnh quan môi trường Sư  phạm Xanh, sạch, đẹp, an 
toàn và thân thiện từ đó giáo viên học sinh thích đến trường thích tham gia vào 
các hoạt động của trường, lớp.
        Bên cạnh các giải pháp trên công tác vận động, khuyến khích học sinh  
chăm học là một yếu tố góp phần  lớn trong nâng cao chất lượng giảng dạy 
môn   Toán   nói   riêng   và   chất   lượng   Giáo   dục   nói   chung.   Việc   vận   động,  
khuyến khích học sinh là biện pháp tổng thể  để  đưa chất lượng Giáo dục 
ngày càng đi nên đáp  ứng đòi hỏi của toàn xã hội đưa nước ta thành nước 

công nghiệp hóa, hiện đại hóa: “ Sánh vai với các cường quốc năm châu”.
3.5. Kết quả thu được qua khao nghiêm, gia tri khoa hoc cua vân đê
̉
̣
́ ̣
̣
̉
́
̀ 
nghiên cưu
́.
         Sau một năm triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng giải toán có  
lời văn. Chất lượng giảng dạy, giải toán có lời văn của trường được nâng lên 
rõ rệt, ý thức giáo dục của giáo viên được nâng lên, tỷ lệ học sinh hoàn thành 
nhiệm vụ môn học tăng, tỷ lệ học sinh hoàn thành nhiệm vụ môn học giảm. 
Đặc biệt học sinh  có ý thức cao hơn trong việc học Toán cũng như các môn 
học khác.
        4. Kết quả đạt được
          Kết quả  kiểm tra mức độ  học môn Toán của học sinh năm học 2014­
2015 cho thấy tỉ lệ học sinh hoàn thành các bước giải bài toán có lời văn còn  
hạn chế.
Các lần 
khảo sát

Lớ
p

sĩ 
số


HS viết 
đúng câu 
lời giải

HS viết 
đúng phép 
tính

HS viết 
đúng đáp 
số

HSviết 
đúng cả 3 
bước trên
25


×