MỤC LỤC
TT
Nội dung
I
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
2
1 Lý do chọn đề tài
2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
2
3 Đối tượng nghiên cứu
4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
3
5 Phương pháp nghiên cứu
3
II
3
PHẦN NỘI DUNG
3
3
1 Cơ sở lí luận
3
2 Thực trạng
5
2.1 Thuận lợi khó khăn.
2.2 Thành công hạn chế
5
2.3 Mặt mạnh mặt yếu
2.4 Nguyên nhân, các yếu tố tác động
7
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
8
5
3 Giải pháp, biện pháp
7
9
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp biện pháp
9
3.3 Điêu kiên th
̀
̣
ực hiên giai phap, biên phap
̣
̉
́
̣
́
23
3.4 Môi quan hê gi
́
̣ ưa cac giai phap, biên phap
̃ ́
̉
́
̣
́
24
3.5 Kêt qua khao nghiêm, gia tri khoa hoc cua vân đê nghiên c
́
̉
̉
̣
́ ̣
̣
̉
́ ̀
ứu.
24
4
Kết quả thu được qua khao nghiêm, gia tri khoa hoc cua vân
̉
̣
́ ̣
̣
̉
́
đê nghiên c
̀
ưu.
́
III PHẦN KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
9
24
25
1 Kết luận
25
2 Kiến nghị
26
1. Lý do chọn đề tài
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1
Môn toán ở tiểu học có một tầm quan trọng đặc biệt. Thông qua môn
toán trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về toán học, rèn cho học
sinh kỹ năng tính, giải toán. Đồng thời qua dạy toán giáo viên hình thành cho
học sinh phương pháp học tập; khả năng phân tích tổng hợp, óc quan sát, trí
tưởng tượng tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo, tư duy độc lập.
Đối với mạch kiến thức: “Giải toán có lời văn” là một trong 5 mạch
kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải
toán có lời văn, các em phát huy được trí tuệ, rèn luyện kỹ năng tổng hợp:
đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức
tổng hợp của các mạch kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ
được giải các bài toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và
đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời
sống, giữa toán học với các môn học khác.
Dạy học môn Toán ở lớp Một nhằm giúp học sinh:
+ Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép
đếm, về các số tự nhiên trong phạm vi 100, về độ dài và đo độ dài trong
phạm vi 20, về tuần lễ và ngày trong tuần, về giờ đúng trên mặt đồng hồ; về
một số hình học (Đoạn thẳng, điểm, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về
bài toán có lời văn.
+ Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành đọc, viết, đếm, so sánh
các số trong phạm vi 100; cộng, trừ không nhớ trong phạm vi 100; đo và ước
lượng độ dài đoạn thẳng (với các số đo là số tự nhiên trong phạm vi 20 cm).
Nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ điểm,
vẽ đoạn thẳng). Giải một số dạng bài toán đơn về cộng trừ bước đầu biết
biểu đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài
thực hành, tập so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá
trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của
học sinh.
+ Chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và học sinh có hứng thú học
toán.
Những năm gần đây đã có nhiều đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường
miệt mài với đề tài nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn cho học sinh lớp
1” mang lại kết quả khả quan nhưng kết quả đó bao hàm với mọi đối tượng
học sinh. Dựa trên hoàn cảnh thực tế tại đơn vị tôi với tỉ lệ trên 75% là học
sinh đồng bào dân tộc thiểu số thì tôi rất trăn trở và suy nghĩ làm thế nào để
học sinh đồng bào dân tộc thiểu số lớp Một làm được các phép tính cộng, trừ
đã khó việc giải toán có lời văn thì càng khó hơn. Vì vậy tôi đã nghiên cứu đề
tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng Giải toán có lời văn cho học
sinh lớp 1 dân tộc thiểu số”
2
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu:
+ Áp dụng một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn.
+ Góp phần nâng cao chất lượng dạy học Toán nói chung và dạy giải
toán có lời văn nói riêng.
Nhiệm vụ: Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn nhằm giúp học sinh:
+ Nhận biết thế nào là một bài toán có lời văn.
+ Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn bằng một phép tính
cộng hoặc một phép tính trừ.
+ Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán và khả
năng diễn đạt đúng.
3. Đối tượng nghiên cứu,
Biện pháp nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn” trong chương trình
lớp 1 ở Tiểu học.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Một số biện pháp nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn” trong
chương trình toán 1.
5 . Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện nội dung của đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp
cơ bản sau:
Tổng hợp lý luận thông qua các tài liệu, sách giáo khoa và thực tiễn dạy
học của lớp 1C khối I Trường Tiểu học Ea Bông.
Đánh giá quá trình dạy toán. Loại bài giải toán có lời văn từ những năm
gần đây.
Tiến hành khảo sát chất lượng học sinh.
Đúc rút kinh nghiệm qua quá trình nghiên cứu.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự thách thức
trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đòi hỏi phải đổi mới giáo dục,
trong đó có sự đổi mới cơ bản về phương pháp dạy học. Những phương pháp
dạy học kích thích sự tìm tòi, sự tư duy của học sinh. Mục tiêu giáo dục của
Đảng đã chỉ rõ: “… Đào tạo có chất lượng tốt những người lao động mới có
ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá phổ thông và hiểu
biết kỹ thuật, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khoẻ
tốt…”. Muốn đạt được mục tiêu này thì dạy và học Toán trong trường phổ
thông là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng cũng nói về vị trí vai trò của bộ môn Toán: “ Trong các môn khoa học và
kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với kỹ thuật,
3
với sản xuất và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta
nhiều trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận,
phương pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn
luyện trí thông minh sáng tạo. Hội nghị Ban Chấp hành trung ương khoá VIII
lần thứ 2 đã chỉ rõ: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, phương pháp hiện đại vào
quá trình dạy học”. Trong luật Giáo dục, Khoản 2, điều 24 đã ghi: “Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng
tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”. Đổi mới cách thực hiện phương pháp dạy học là vấn đề then chốt của
chính sách đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới cách
thực hiện phương pháp dạy học sẽ làm thay đổi tận gốc nếp nghĩ, nếp làm
của các thế hệ học trò chủ nhân tương lai của đất nước. Như vậy, đổi mới
phương pháp dạy học sẽ tác động vào mọi thành tố của quá trình giáo dục và
đào tạo. Nó tạo ra sự hiện đại hoá của quá trình này. Đổi mới phương pháp
dạy học thực chất không phải là sự thay thế các phương pháp dạy học cũ
bằng một loạt các phương pháp dạy học mới. Về mặt bản chất, đổi mới
phương pháp dạy học là đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới
phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để
ưu điểm các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới
nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Mục
đích của đổi mới phương pháp dạy học chính là làm thế nào để học sinh phải
thực sự tích cực, chủ động, tự giác, luôn trăn trở tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo
trong quá trình lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có được tri thức ấy
nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Mặt khác môn toán thiết
thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học theo đặc trưng và khả
năng của môn Toán, cụ thể là chuẩn bị cho học sinh những tri thức, kỹ năng
toán học cơ bản cần thiết cho việc học tập hoặc bước vào cuộc sống lao
động. Đối với môn Toán lớp Một, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là
điểm xuất phát của cả một bộ môn khoa học. Môn Toán mở đường cho các
em đi vào thế giới kỳ diệu của toán học. Rồi mai đây, các em lớn lên, nhiều
em trở thành vĩ nhân, trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ…
trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời
sống, trên tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi… nhưng không
bao giờ các em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập
viết 1, 2, 3 … học các phép tính cộng, trừ… Các em không quên được vì đó là
kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời người và hơn thế nữa, những con số, những
4
phép tính ấy cần thiết cho suốt cả cuộc đời. Đối với mạch kiến thức : “Giải
toán có lời văn”, là một trong năm mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương
trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải toán có lời văn, các em được phát
triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày,
tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức
toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các
yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc
cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học
khác.
2. Thực trạng
2.1. Thuận lợi và khó khăn
a. Thuận lợi
Toán có lời văn có những thuận lợi nhất định: Những bài toán có lời văn
là những bài toán lấy từ thực tế cuộc sống. Nội dung bài toán được thông qua
những câu văn nói về những quan hệ tương quan và phụ thuộc, có liên quan
đến sự việc xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn
là: phải biết lược bỏ những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học
của bài toán, hay nói cách khác là chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố
toán học chứa đựng trong bài toán và nêu ra cách giải thích hợp để từ đó tìm
được phép tính đúng và có đáp số đúng của bài toán. Bên cạnh đó cái khó từ
phía học sinh là: ít em chịu khó đọc kỹ đề, phần lớn các em chưa biết dựa vào
dữ kiện bài toán để phân tích và suy ngẫm hoặc phân tích không đúng hướng,
không lôgic.
b. Khó khăn
Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học Ea Bông, kể từ khi về trường tới
nay tôi luôn được phân công dạy học sinh dân tộc thiểu số. Vì vậy, qua thời
gian giảng dạy tôi nhận thấy các em phát âm đa số là số là thiếu dấu, viết sai
lỗi chính tả. Đặc biệt học sinh lớp Một và hầu hết giáo viên đều phàn nàn khi
dạy đến phần giải toán có lời văn ở lớp Một. Học sinh rất lúng túng khi nêu
câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số.
Những tiết đầu tiên của giải toán có lời văn mỗi lớp chỉ có khoảng 20% số
học sinh biết nêu lời giải, viết đúng phép tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ
hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các
em lại rất lúng túng, làm sai, một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại không
biết để trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách
giải bài toán có lời văn. Giáo viên phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến
phần này.
2.2. Những thành công và hạn chế
a. Những thành công
5
Trong những năm học qua, đã có một vài đồng nghiệp cũng trăn trở về
các biện pháp “giải toán có lời văn” và bên cạnh đó nhà trường đã tổ chức các
cuộc thi và giao lưu giữa các lớp trong tổ khối nhằm phát hiện học sinh năng
khiếu môn Toán và đạt kết quả như sau.
Kết quả điều tra năm học 2013 – 2014
TT
Lớ
p
sĩ
số
1
2
3
1A
1B
1C
20
26
22
HS viết
đúng câu
lời giải
8
40%
12 46,2%
10 38,5%
HS viết
HS viết
HS giải đúng
đúng phép
đúng đáp số
cả 3 bước
tính
10
50%
10
50%
8
40%
18 69,2% 14 53,8% 12
46,2%
13 49,9% 19 73,1% 10
38,5%
Kết quả điều tra năm học 2014 2015
TT
Lớ
p
sĩ
số
HS viết
đúng câu
lời giải
10 71.4%
15 75%
14 70%
HS viết
HS viết
HS giải đúng
đúng phép
đúng đáp số
cả 3 bước
tính
12 85,7% 12 85,7% 10
71,4%
17
85%
17
85%
15
75%
16
80%
16
80%
14
70%
1
1A 14
2
1B 20
3
1C 20
Qua cuộc khảo sát trong bài kiểm tra của học sinh cho thấy chất lượng
giải toán có lời văn được nâng lên rõ rệt. Lỗi của học sinh trong bài khảo sát
Tỷ lệ Giỏi 9,10 đạt 29/54 trình bày còn bẩn. Khá 7,8 đạt 39/54 em trình bày
còn bẩn, câu lời giải chưa chuẩn. Trung bình 5,6 đạt 45/54 em chỉ làm đúng
phép tính và đáp số, sai tên đơn vị, sai câu lời giải. Yếu dưới 5 đạt 9 em
không biết làm bài.
Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn, kết quả của bài toán
đúng. Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn Toán nói chung và “Giải
toán cơ lời văn” nói riêng. Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời
văn vào thực tế.
b. Những hạn chế
Về học sinh: Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu
học thì tuyến kiến thức “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn
nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một dân tộc
thiểu số. Bởi vì đối với lớp Một vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu,
khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay
nói chung là học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực.
Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính
6
của bài nhưng không thể trả lời hoặc lí giải là tại sao các em lại có được
phép tính đúng như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy các em thực sự lúng túng
khi giải bài toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết
phân tích đề toán để tìm ra lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải,
diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng
trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp
học toán và giải toán một cách máy móc rập khuôn, bắt chước.
Trình bày bài làm còn chưa sạch đẹp, một số học sinh chưa biết cách
đặt câu lời giải phù hợp hoặc không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn
đến không làm được bài.
Về giáo viên: Một số giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, ngại
tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm đường lối giải và giải toán còn
khó hiểu.
Về đồ dùng dạy học: Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để
học sinh học tốt “giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ
dùng thiết bị dạy học để minh họa. Trong những năm qua, các trường Tiểu
học đã được cung cấp khá nhiều trang thiết bị về đồ dùng dạy học đồng bộ
để dạy cho cả cấp học để dạy theo lớp nhưng thống kê theo danh mục thì số
lượng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu dạy “giải toán có lời văn”.
Về cha mẹ học sinh: Một số phụ huynh chỉ quan tâm dấu hiệu bên ngoài
của việc học tập đó là chỉ cần biết tính toán là được. Bên cạnh đó phần đa
hoàn cảnh gia đình các em còn khó khăn do đó cha mẹ hầu như chỉ chăm lo
làm kinh tế mà chưa thực sự quan tâm tới việc học tập và giúp đỡ các em tháo
gỡ kịp thời những khúc mắc, khó khăn trong học tập khiến các em bỡ ngỡ khi
làm bài, đặc biệt là giải toán có lời văn dẫn đến sự chán nản, thiếu tự tin, từ
đó tạo nên những lỗ hổng kiến thức trong học tập của các em.
Bên cạnh những thành công mà đồng nghiệp tôi đã thực hiện được thì
không ít mặt hạn chế và tồn tại cần được khắc phục. Chính vì vậy tôi đã xây
dựng sáng kiến riêng cho bản thân mình nhằm sử dụng các biện pháp để nâng
cao chất lượng “giải toán có lời văn”.
2.3. Những mặt mạnh, mặt yếu
a. Mặt mạnh
Khi thực hiện đề tài này được sự ủng hộ và động viên của Lãnh đạo
nhà trường, cha mẹ học sinh và đa số giáo viên trong tổ khối I nhằm mang
đến cho cả giáo viên và học sinh kết quả cao nhất.
b. Mặt yếu
Thời gian thực hiện đề tài còn hạn chế.
Tài liệu phục vụ cho đề tài chưa đáp ứng được yêu cầu đạt ra.
2.4. Nguyên nhân, các yếu tố tác động
7
+ Nguyên nhân từ phía HS:
Về học sinh: Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu
học thì tuyến kiến thức “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn
nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì
học sinh lớp Một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy
lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay nói chung học
sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với
một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng
không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy.
Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời
văn, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ
năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học.
+ Nguyên nhân từ phía giáo viên:
Về giáo viên: Vẫn còn một số giáo viên chuyển đổi phương pháp giảng
dạy còn lúng túng, chưa phát huy được tích cực chủ động của học sinh,
phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào tư duy vào lề lối dạy học
hàng ngày. Một số giáo viên dạy theo cách thông báo kiến thức sẵn có, dạy
theo phương pháp thuyết trình có kết hợp với đàm thoại, thực chất vẫn là
“thầy truyền thụ, trò tiếp nhận ghi nhớ”.
+ Những sai lầm và khó khăn thường gặp của giáo viên và học sinh khi
dạy và học tuyến kiến thức : “Giải toán có lời văn” ở lớp Một: Về mặt nhận
thức giáo viên còn coi việc dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một
là đơn giản, dễ dàng nên chưa tìm tòi nghiên cứu để có phương pháp giảng
dạy hiệu quả, đôi khi giáo viên giảng cho học sinh lớp Một đã diễn đạt như
với các lớp trên làm học sinh khó hiểu và không thể tiếp thu được kiến thức
trong việc giải các bài toán có lời văn. Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều
phương pháp để dạy tuyến kiến thức: “Giải toán có lời văn” ở lớp Một còn
thiếu linh hoạt. Giáo viên còn lúng túng khi tạo các tình huống sư phạm để
nêu vấn đề. Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các
nhóm cũng như các đối tượng học sinh trong quá trình học. Khả năng kiên trì
của học sinh lớp Một trong quá trình học nói chung cũng như học “Giải toán
có lời văn” nói riêng còn chưa cao.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt
ra
Vấn đề nâng cao chất lượng “giải toán có lời văn” ở lớp Một hiện nay
là một vấn đề nan giải mà đa số giáo viên và nhà trường quan tâm. Để nâng
cao chất lượng giải toán có lời văn phải có kế hoạch cụ thể cho đội ngũ giáo
viên thông qua việc nâng cao trình độ chuyên môn và tiếp tục đổi mới phương
pháp giáo dục theo hướng tích cực, sáng tạo của học sinh nhiệm vụ đặt ra
chúng ta phải đưa ra phương pháp dạy hiệu quả nhất.
8
Một trong những yếu tố không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng
“giải toán có lời văn” ở lớp Một là việc tăng cường động viên các em học
sinh luyện tập thực hành giải toán có lời văn mọi lúc mọi nơi. Kiên trì, bền bỉ
là yếu tố góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy của
đội ngũ giáo viên từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Để nâng cao chất lượng giảng dạy thì việc Tăng cường sử dụng
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy tính tích cực của học sinh
càng không thể thiếu trong mỗi bài dạy, tiết dạy học toán.
Thường xuyên đánh giá để có biện pháp giúp đỡ học sinh kịp thời đây là
yếu tố vô cùng quan trọng góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng
giải toán có lời văn nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Việc thường
xuyên đánh giá nhằm phát huy năng lực của từng học sinh, và kịp thời động
viện khích lệ tinh thần học tập của các em.
Đồng thời việc kết hợp giữa Gia đình – Nhà trường Xã hội cũng là vấn
đề lớn để nâng cao chất lượng giảng dạy.
3. Giải pháp, biện pháp.
3.1. Mục tiêu của giải pháp:
Chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh lớp Một trong hai năm
qua đã có những chuyển biến đi lên đáng kể, tuy nhiên vẫn chưa đạt được
mức chất lượng tối thiểu theo quy định của trường, ngành Giáo dục đề ra. Để
tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh lớp Một
trường Tiểu học Ea Bông trong giai đoạn hiện nay nhằm đạt chất lượng tối
thiểu, mục tiêu chính của tôi như sau:
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện các giải pháp, biện pháp
Nắm bắt nội dung chương trình Để dạy tốt môn Toán lớp Một nói
chung, “Giải bài toán có lời văn” nói riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải
nắm thật chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa. Nhiều người nghĩ rằng
Toán tiểu học, và đặc biệt là toán lớp Một thì ai mà chả dạy được. Đôi khi
chính giáo viên đang trực tiếp dạy cũng rất chủ quan và cũng có những suy
nghĩ tương tự như vậy. Qua dự giờ một số đồng chí giáo viên tôi nhận thấy
giáo viên dạy bài nào chỉ cốt khai thác kiến thức của bài ấy, còn các kiến thức
cũ có liên quan giáo viên nắm không thật chắc. Người ta thường nói “Biết 10
dạy 1” chứ không thể “Biết 1 dạy 1” vì kết quả thu được sẽ không còn là 1
nữa.
Dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp Một theo từng mức độ.
Mức độ 1: Ngay từ đầu học kỳ I các bài toán được giới thiệu ở mức độ
nhìn hình vẽ viết phép tính. Mục đích cho học sinh hiểu bài toán qua hình
vẽ, suy nghĩ chọn phép tính thích hợp.
9
Thông thường sau mỗi phép tính ở phần luyện tập có một hình vẽ gồm 5
ô vuông cho học sinh chọn ghi phép tính và kết quả phù hợp với hình vẽ. Ban
đầu để giúp học sinh dễ thực hiện sách giáo khoa ghi sẵn các số và kết quả :
Ví dụ: Bài 5 trang 46
a)
1
2
=
3
Chỉ yêu cầu học sinh viết dấu cộng vào ô trống để có : 1 + 2 = 3
b) Đến câu này nâng dần mức độ học sinh nhìn vào hình vẽ để hình dung số
quả bóng và phải đặt được các số để thành phép tính và kết quả
+
=
Kết quả đạt được là:
1
+
2
=
3
Và yêu cầu tăng dần, học sinh có thể nhìn từ một tranh vẽ bài 4 trang 77
diễn đạt theo 2 cách .
Cách 1: Có 8 hộp thêm 1 hộp, tất cả là 9 hộp.
8
+
1
=
9
Cách 2: Có 1 hộp đưa vào chỗ 8 hộp, tất cả là 9 hộp.
10
1
+
8
=
9
Tương tự câu b : Có 7 bạn và 2 bạn đang đi tới. Tất cả là 9 bạn.
Cách 1:
7
+
2
=
9
Cách 2:
2
+
7
=
9
Giáo viên hướng dẫn để các em biết được hướng đi của hình mũi tên thì
học
sinh phải làm phép tính gì?
Đến bài 3 trang 85
Học sinh quan sát và cần hiểu được:
Lúc đầu trên cành có 10 quả. Sau đó rụng 2 quả . Còn lại trên cành 8 quả.
10
2
=
8
Ở đây giáo viên cần động viên các em diễn đạt trình bày miệng ghi đúng
phép tính. Tư duy toán học được hình thành trên cơ sở tư duy ngôn ngữ của
học sinh. Khi dạy bài này cần hướng dẫn học sinh diễn đạt trình bày động
viên các em viết được nhiều phép tính để tăng cường khả năng diễn đạt cho
học sinh.
11
Mức độ 2: Đến cuối học kì I học sinh đã được làm quen với tóm tắt
bằng lời:
Bài 3 trang 87
B, Có : 10 quả bóng
Cho : 3 quả bóng
Còn :.... quả bóng?
10
3
=
7
Học sinh từng bước làm quen với lời thay cho hình vẽ, học sinh dần dần
thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học
sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán
bằng lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết lời giải.
Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh, nhưng có
thể động viên học sinh khá giỏi làm nhiều cách, có nhiều cách diễn đạt từ
một hình vẽ hay một tình huống sách giáo khoa.
Mức độ 3: Giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách cho học sinh tiếp
cận với một đề bài toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn
thiện (tiết 81 bài toán có lời văn). Tư duy học sinh từ hình ảnh phát triển
thành ngôn ngữ, thành chữ viết. Giải toán có lời văn ban đầu được thực hiện
bằng phép tính cộng là phù hợp với tư duy của học sinh.
Cấu trúc một đề toán gồm 2 phần: phần cho biết và phần hỏi, phần cho
biết gồm có 2 yếu tố.
Mức độ 4: Để hình thành cách giải bài toán có lời văn, sách giáo khoa
đã nêu một bài toán, phần tóm tắt đề toán và giải bài toán hoàn chỉnh để học
sinh làm quen.( Bài toán trang 117)
Giáo viên cần cho học sinh nắm vững đề toán, thông qua việc tóm tắt
đề toán. Biết tóm tắt đề toán là yêu cầu đầu tiên để giải bài toán có lời văn.
Bài giải gồm 3 phần : câu lời giải, phép tính và đáp số.
Chú ý rằng tóm tắt không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng phần
tóm tắt cần được luyện kỹ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ, chính xác.
Câu lời giải trong bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải theo mẫu như
nhau, tạo diều kiện cho học sinh diễn đạt câu trả lời theo ý hiểu của mình.
Quy ước viết đơn vị của phép tính trong bài giải học sinh cần nhớ để thực
hiện khi trình bày bài giải.
Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành
thạo giải ài toán có lời văn bằng phép tính cộng. Giáo viên chỉ hướng dẫn
cách làm tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán.
12
Ở lớp Một, học sinh chỉ giải toán về thêm, bớt với một phép tính cộng
hoặc trừ, mọi học sinh bình thường đều có thể hoàn thành nhiệm vụ học tập
một cách nhẹ nhàng nếu được giáo viên hướng dẫn cụ thể.
GV dạy cho học sinh giải bài toán có lời văn cần thực hiện tốt các bước
sau:
+ Đọc và tìm hiểu đề bài.
+Tìm đườ ng lối giải bài toán.
+ Trình bày bài giải
+ Ki ểm tra l ại bài giải.
Mu ốn h ọc sinh hi ểu và có thể giải đượ c bài toán thì điều quan
trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu đượ c nội dung bài toán.
Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ mộ t số từ khoá
quan tr ọng nh ư " thêm, và, tất cả, ... " ho ặc "b ớt, bay đi, ăn mất, còn
lại, ..." (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để họ c sinh dễ hiểu
đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Một số
giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc g ạch chân các từ chưa
sát với nội dung c ần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho
dễ nhìn.
Trong giai đoạn đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán
bằng cách đàm thoại " Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?" và dựa vào
câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm
tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để giúp học sinh ngầm phân tích
đề toán.
N ếu h ọc sinh g ặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên
cho các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi.
Ví dụ : Bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi:
13
+ Em thấy d ưới ao có mấy con vịt? (Dướ i ao có 5 con vịt)
+ Trên bờ có mấy con v ịt? (Trên bờ có 4 con vịt)
+ Trên bờ và dướ i ao có tất cả mấy con v ịt? (Có tất cả 9 con vịt)
Trong tr ườ ng h ợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có
thể gắn mẫu vật (gà, vịt, ...) lên bảng từ để thay cho tranh; ho ặc dùng tóm
tắt bằng lời ho ặc s ơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọ c đề toán.
Thông thườ ng có 3 cách tóm tắt đề toán:
Cách 1: Tóm tắt bằng l ời:
Ví dụ 1 : Lan có : 3 quy ển v ở
Vy có : 2 quy ển v ở
C ả hai b ạn có: ... quy ển v ở?
Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ví dụ 2 : Bài 2 trang 123
A 5 cm B 3 cm C
? cm
Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật:
Ví dụ 3 :
Có :
Có tất cả :.....con thỏ?
Thêm :
14
Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh d ễ hi ểu và dễ sử
dụng.
V ới cách viết thẳng theo c ột nh ư: 14 quyển và 26 quả
12 quy ển 33 qu ả
... quy ển ? ... qu ả?
Ki ểu tóm tắt như thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có
tác dụng gợi ý cho học sinh lựa ch ọn phép tính giải.
Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học
sinh dựa vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là mộ t quá trình
không nên vội vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết
đượ c các câu lời giải, phép tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay
từ tuần 23, 24. Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng b ước, mi ễn
sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35) h ọc sinh đọc và giải đượ c bài toán là
đạt yêu cầu.
Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và
cái phải tìm.
Chẳng h ạn: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An
có tất cả mấy con gà?
Bài toán cho bi ết gì? (Nhà An có 5 con gà)
M ẹ mua thêm bao nhiêu con gà nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
Giáo viên nêu tiếp: "Muốn bi ết nhà An có tất cả mấy con gà em làm
phép tính gì? (tính cộng) Bao nhiêu cộng bao nhiêu? (5 + 4); 5 + 4 b ằng
bao nhiêu? (5 + 4 = 9); ho ặc: " Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em
tính thế nào? (5 + 4 = 9); ho ặc: "Nhà An có tất cả mấy con gà ?" (9) Em
tính thế nào để đượ c 9 ? (5 + 4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên
ta viết "con gà" vào trong d ấu ngo ặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
Sau khi h ọc sinh đã xác định đượ c phép tính, nhiều khi vi ệc h ướ ng d ẫn
học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp
số. Với học sinh lớp 1, l ần đầu tiên đượ c làm quen với cách giải loại toán
này nên các em rất lúng túng. Có thể dùng một trong các cách sau:
Cách 1 : Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầ u (Hỏi) và
cuối (mấy con gà ?) để có câu lời giải:"Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ
"là" để có câu lời giải: Nhà An có tất cả... là:
Cách 2 : Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ
"Hỏi" và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An
có tất cả là:"
Cách 3 : Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của
câu lời giải r ồi thêm thắt chút ít.
15
Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: ... con gà ?". Học sinh
viết câu lời giải: " Nhà An có tất cả là:"
Cách 4 : Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con
gà?" để học sinh tr ả l ời mi ệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi chèn phép
tính vào để có cả bướ c giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Nhà An có tất cả số con gà là:
5 + 4 = 9 (con gà)
Cách 5 : Sau khi h ọc sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ
vào 9 và hỏi: "9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?" (là số gà nhà An có tất
cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời
giải: "Số gà nhà An có tất cả là" v.v...
Giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải
khác nhau, sau đó bàn bạc để chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt
buộc học sinh nh ất nh ất ph ải vi ết theo m ột ki ểu.
Có thể coi vi ệc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư
duy. Thực tế hi ện nay các em học sinh l ớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn
chế, kể cả học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh n ề n ếp và thói quen
trình bày bài giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy
nháp, bảng lớp, bảng con hay v ở, gi ấy ki ểm tra. C ần trình bày bài giải
một bài toán có lời văn như sau:
Bài giải
Số gà nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 (con gà)
Đáp số : 9 con gà
N ếu l ời gi ải ghi: "S ố gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 =
9 (con)”. (L ời gi ải đã có sẵn danh t ừ "gà").
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao t ừ "con gà" lại đượ c đặt trong
dấu ngoặc đơn? “Con gà” là giá trị của đơn vị chung cho cả ba ch ữ s ố
trong một phép tính. Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) ch ứ 5 + 4
không thể bằng 9 con gà đượ c. Do đó, nếu viết:"5 + 4 = 9 con gà" là sai.
Nói cách khác, nếu vẫn mu ốn đượ c kết quả là 9 con gà thì ta phải viết
như sau mới đúng: "5 con gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép
tính với các đơn vị đầy đủ như vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó
khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1. Ngoài ra học sinh cũng
hay viết thi ếu và sai như sau:
5 con gà + 4 = 9 con gà
5 + 4 con gà = 9 con gà
5 con gà + 4 con gà = 9
Về m ặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ đượ c viết 5 +
4 = 9 thôi.
16
Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan tr ọng trong các phép
tính giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới
ghi thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngo ặc đơ n để chú thích cho số 9 đó.
Có thể hiểu rằng ch ữ "con gà” viết trong dấu ngoặc đơ n ở đây chỉ có mộ t
sự ràng buộc về mặt ng ữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt
chẽ về toán học với số 9. Như vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một
cách viết phù hợp.
Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thườ ng có thói quen
khi làm bài xong không hay xem, ki ểm tra l ại bài đã làm. Giáo viên cần
giúp học sinh xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra v ề lời gi ải,
về phép tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.
Khi giải bài toán có lời văn giáo viên lưu ý cho học sinh hiểu rõ những
điều đã cho, yêu cầu phải tìm, biết chuyển dịch ngôn ngữ thông thường thành
ngôn ngữ toán học, đó là phép tính thích hợp.
Ví dụ, có một số quả cam, khi được cho thêm hoặc mua thêm nghĩa là
thêm vào, phải làm tính cộng; nếu đem cho hay đem bán thì phải làm tính
trừ,...
Giáo viên hãy cho học sinh tập ra đề toán phù hợp với một phép tính đã
cho, để các em tập tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến
thức vào các tình huống thực tiễn.
Ví dụ, với phép tính 3 + 2 = 5.Có thể có các bài toán sau:
Bạn Hà có 3 chiếc kẹo, chị An cho Hà 2 chiếc nữa. Hỏi bạn Hà có
mấy chiếc kẹo?
Nhà Nam có 3 con gà mẹ Nam mua thêm 2 con gà. Hỏi nhà Nam có tất
cả mấy con gà?
Có nhiều đề bài toán học sinh có thể nêu được từ một phép tính. Biết
nêu đề bài toán từ một phép tính đã cho, học sinh sẽ hiểu vấn đề sâu sắc hơn,
chắc chắn hơn, tư duy và ngôn ngữ của học sinh sẽ phát triển hơn.
* Tìm ra điểm yếu của học sinh:
Học sinh biết giải toán có lời văn nhưng kết quả chưa cao.
Số học sinh viết đúng câu lời giải đạt tỷ lệ thấp.
Lời giải của bài toán chưa sát với câu hỏi của bài toán.
* Quá trình nghiên cứu và thực nghiệm:
Trong phạm vi 27 tiết dạy từ tiết 81 đến tiết 108 tôi đặc biệt chú ý vào 1 số
tiết chính sau đây:
Tiết 81: Bài toán có lời văn (trang 115)
17
Có ...bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn?
HS quan sát tranh và trả lời câu hỏi
Điền vào chỗ chấm số 1 và số 3.
Qua tìm hiểu bài toán giúp cho học sinh xác định được bài có lời văn gồm
2 phần:
Thông tin đã biết gồm 2 yếu tố.
Câu hỏi ( thông tin cần tìm )
Từ đó học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập ở trang116:
Có 1 con gà mẹ và 7con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà?
Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên,
học
sinh hoàn thành bài toán 4 trang 116:
Có 4 con chim đậu trên cành, có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi có tất cả
bao nhiêu con chim?
Tiết 82: Giải toán có lời văn. ( trang 117)
Giáo viên nêu bài toán . Học sinh đọc bài toán
Đây là bài toán gì?
Bài toán có lời văn.
Thông tin cho biết là gì ?
Có 5 con gà, mua thêm 4 con gà.
Câu hỏi là gì ? Hỏi nhà An có tất cả mấy con
gà ?
Dựa vào tranh vẽ và tóm tắt mẫu
18
Tóm tắt
Có : 5 con gà
Thêm : 4 con gà
Có tất cả : ... con gà?
GV đưa ra cách giải bài toán mẫu:
Bài giải
Nhà An có tất cả số con gà là:
5 + 4 = 9 (con gà )
Đáp số: 9 con gà
Bài 1 trang 117: Học sinh đọc bài toán phân tích đề bài điền vào tóm
tắt
và giải bài toán.
Tóm tắt:
An có : 4 quả bóng
Bình có : 3 quả bóng
Cả hai bạn có :....quả bóng?
Bài giải
Cả hai b ạn có số quả bóng là hoặc Số quả bóng hai bạn có
là:
4 + 3 = 7 (quả bóng)
Đáp số: 7 quả bóng
Bài 2 trang 118
19
Tóm tắt:
Có : 6 bạn
Thêm : 3 bạn
Có tất cả :... bạn?
Bài giải
Có tất cả số bạn là :
6 + 3 = 9( bạn )
Đáp số: 9 bạn
Qua 2 bài toán trên tôi rút ra cách viết câu lời giải như sau: Lấy dòng thứ
3
của phần tóm tắt, thêm chữ là:
Ví dụ : Cả hai bạn có là:
Có tất cả là:
Tiết 85 Luyện tập
Bài 1 trang 122 HS đọc đề toán – phân tích bài toán ( như trên )
Điền số vào tóm tắt
Vài ba học sinh nêu câu lời giải khác nhau
GV chốt lại một cách trả lời mẫu:
Số quả bóng của An có tất cả là:
=> Vậy qua bài tập trên học sinh đã mở rộng được nhiều cách viết câu
lời giải khác nhau, song giáo viên chốt lại cách viết lời giải như sau:
Thêm chữ Số + đơn vị tính của bài toán trước cụm từ có tất cả là
như ở tiết 82 đã làm.
Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài (cm) cần thêm chữ
dài vào trước chữ là
20
Ví dụ
Tóm tắt
Đoạn thẳng AB : 5cm
Đoạn thẳng BC : 3cm
Cả hai đoạn thẳng : ... cm?
Bài giải
Cả hai đoạn thẳng dài là:
5+ 3 = 8 ( cm)
Đáp số : 8 cm
Tiết 86 Tiết 104
Hầu hết đều có bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán được cung
cấp theo phân phối chương trình. Tuy nhiên, việc phân tích đề tóm tắt giải
bài toán phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ
bản vẫn là các mẫu lời giải cho các bài toán thêm là:
Có tất cả là:
Số ( đơn vị tính ) + có tất cả là:
Vị trí ( trong, ngoài, trên, dưới, ...) + có tất cả là:
... đoạn thẳng....+ dài là:
Tiết 105: Giải toán có lời văn(tiếp theo)
Bài toán: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại
mấy con gà?
HS đọc – phân tích bài toán :
+Thông tin cho biết là gì? Có 9 con gà. Bán 3 con gà.
+Câu hỏi là gì ? Còn lại mấy con gà?
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tóm tắt, làm bài giải mẫu. Giáo viên giúp
học sinh nhận thấy câu lời giải ở loại toán bớt này cũng như cách viết của
loại toán thêm đã nêu ở trên chỉ khác ở chỗ cụm từ có tất cả được thay thế
bằng cụm từ còn lại mà thôi.Cụ thể là :
Bài giải
Số gà còn lại là:
9 – 3 = 6 (con gà)
Đáp số: 6 con gà.
21
Bài 1 trang148
Tóm tắt
Có : 8 con chim
Bay đi : 2 con chim
Còn lại :... con chim?
Bài giải
Số chim còn lại là:
8 2 = 6 (con chim)
Đáp số : 6 con chim.
Bài 3 trang 149
Tóm tắt
Đàn vịt có : 8 con
ở dưới ao : 5 con
Trên bờ : ... con?
Bài giải
Trên bờ có số con vịt là:
8 – 5 = 3 (con vịt)
Đáp số: 3 con vịt .
* Nhưng bài 4 trang 150 và bài 4 trang151 thì lời giải dựa vào dòng thứ 3
của phần tóm tắt bài toán:
Bài giải
Bài giải
22
Số hình tam giác không tô màu là : Số hình tròn không tô màu là:
8 4 = 4( hình ) 15 4 = 11( hình )
Đáp số: 4 hình tam giác Đáp số: 11 hình tròn.
* Bài 3 trang 151 Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng
Một sợi dây dài 13 cm, đã cắt đi 2 cm. Hỏi sợi dây còn lại dài bao nhiêu
xăngtimét?
? cm 2cm
13cm
Bài giải
Sợi dây còn lại dài số xăngtimét là:
13 – 2 = 11( cm)
Đáp số : 11cm
Tiết 108 Luyện tập chung
Đây là phần tổng hợp chốt kiến thức của cả 2 dạng toán đơn thêm và
bớt ở
lớp 1
Bài 1 trang 152
A/ Bài toán: Trong bến có .....ô tô, có thêm....ô tô vào bến
. Hỏi................................................................?
HS quan sát tranh và hoàn thiện bài toán thêm rồi giải bài toán với câu lời
giải có cụm từ có tất cả
B/ Bài toán: Lúc đầu trên cành có 6 con chim, có ....con bay đi.
Hỏi .............................................?
HS quan sát tranh rồi hoàn thiện bài toán bớt và giải bài toán với câu lời
giải
có cụm từ còn lại
Lúc này HS đã quá quen với giải bài toán có lời văn nên hướng dẫn cho
học
sinh chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó là:
Đọc kĩ câu hỏi.
Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.
Thay chữ bao nhiêu bằng chữ số.
Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm
Cụ thể Bài 1 trang 152
23
A, Câu hỏi là: Hỏi có tất cả bao nhiêu ô tô?
Câu lời giải là: Có tất cả số ô tô là :
B, Câu hỏi là: Hỏi trên cành còn lại bao nhiêu con chim?
Câu lời giải là: Trên cành còn lại số con chim là :
VD khác:
Câu hỏi là: Hỏi hai lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây ?
Câu lời giải là: Hai lớp trồng được tất cả số cây là:
Câu hỏi là: Hỏi con sên bò được tất cả bao nhiêu xăngtimét?
Câu lời giải là: Con sên bò được tất cả số xăngtimét là?
Câu hỏi là: Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết quyển
sách?
Câu lời giải là: Lan còn phải đọc số trang nữa là:
Trên đây là 2 mẫu toán đơn điển hình của phần giải toán có lời văn ở
lớp Một. Tôi đã đưa ra phương pháp dạy từ dễ đến khó để học sinh có thể
giải toán mà không gặp khó khăn ở bước viết câu lời giải. Tối thiểu học sinh
có lực học trung bình yếu cũng có thể chọn cho mình một cách viết đơn giản
nhất bằng cụm từ:
Có tất cả là:
Hoặc : Còn lại là:
Còn học sinh khá giỏi các em có thể chọn cho mình được nhiều câu lời
giải khác nhau nâng dần độ khó thì lời giải càng hay và sát với câu hỏi hơn.
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Điều kiện để thực hiện các biện pháp trên có các công văn 4119 /BGD
ĐT –GDTH ngày 06 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Công văn
số 1043/SGD ĐTGDTH ngày 28 tháng 08 năm 2014 của Sở Giáo dục Đào tạo
Đăk Lăk. Căn cứ Công văn số 1012 /PGD ĐT – GDTH ngày 17 tháng 9 năm
2014 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Krông Ana.
24
Điều lệ trường tiểu học (Ban hành kèm theo Thông tư số 41/ 20010/TT
BGD ĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Thông tư 32/2009/TTBGDĐT ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Thông tư 39/2009/TT BGD ĐT ngày 29 tháng 12 năm
2009. Thông tư 30/2014/TTBGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014.
Luật Giáo dục năm 2005. Công văn số 5842/BGDDTVP, ngày
01/9/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn điều chỉnh nội
dung dạy học giáo dục phổ thông.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Các biện pháp thực hiện có mối quan hệ mật thiết với nhau biện pháp
này là tiền đề cho biện pháp khác. Đầu tiên chúng ta nâng cao và trình độ
chuyên môn cho từng giáo viên. Từ đó người giáo viên có được những kiến
thức cơ bản về chuyên môn để đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng
tích cực, sáng tạo.
Để học sinh thích học, giáo viên yêu trường yêu lớp một trong vấn đề
không thể thiếu là tạo cảnh quan môi trường Sư phạm Xanh, sạch, đẹp, an
toàn và thân thiện từ đó giáo viên học sinh thích đến trường thích tham gia vào
các hoạt động của trường, lớp.
Bên cạnh các giải pháp trên công tác vận động, khuyến khích học sinh
chăm học là một yếu tố góp phần lớn trong nâng cao chất lượng giảng dạy
môn Toán nói riêng và chất lượng Giáo dục nói chung. Việc vận động,
khuyến khích học sinh là biện pháp tổng thể để đưa chất lượng Giáo dục
ngày càng đi nên đáp ứng đòi hỏi của toàn xã hội đưa nước ta thành nước
công nghiệp hóa, hiện đại hóa: “ Sánh vai với các cường quốc năm châu”.
3.5. Kết quả thu được qua khao nghiêm, gia tri khoa hoc cua vân đê
̉
̣
́ ̣
̣
̉
́
̀
nghiên cưu
́.
Sau một năm triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn. Chất lượng giảng dạy, giải toán có lời văn của trường được nâng lên
rõ rệt, ý thức giáo dục của giáo viên được nâng lên, tỷ lệ học sinh hoàn thành
nhiệm vụ môn học tăng, tỷ lệ học sinh hoàn thành nhiệm vụ môn học giảm.
Đặc biệt học sinh có ý thức cao hơn trong việc học Toán cũng như các môn
học khác.
4. Kết quả đạt được
Kết quả kiểm tra mức độ học môn Toán của học sinh năm học 2014
2015 cho thấy tỉ lệ học sinh hoàn thành các bước giải bài toán có lời văn còn
hạn chế.
Các lần
khảo sát
Lớ
p
sĩ
số
HS viết
đúng câu
lời giải
HS viết
đúng phép
tính
HS viết
đúng đáp
số
HSviết
đúng cả 3
bước trên
25