I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Tiểu học là bậc học nền tảng trong nền giáo dục quốc dân. Người ta
ví bậc Tiểu học như những “viên gạch” đầu tiên đặt nền móng cho “ngôi
nhà tri thức”, “móng" có chắc thì “nhà” mới vững. Việc hình thành ở học
sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đức, trí,
thể, mĩ và các kĩ năng cơ bản khác để học tiếp các bậc học trên hoặc để đi
sâu vào cuộc sống lao động là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá
trình dạy và học.
Các môn học trong chương trình Tiểu học có vai trò hết sức quan
trọng, nó cung cấp những kiến thức, kĩ năng phù hợp với học sinh. Trong
đó môn Toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, rất cần thiết để học tốt
các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc
Trung học. Môn Toán lớp 5 gồm năm chương, trong đó tuyến kiến về “
Chuyển động đều” nằm ở chương Bốn, được dạy học ở học kì II. Nói
chung toán chuyển động đều là kiến thức mới và tương đối khó với học
sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số, học sinh khó khăn về học tập.
Nó không chỉ dừng lại ở một số dạng bài đơn giản mà còn có những dạng
bài phức tạp cần sự suy luận. Do đó, với những em tiếp thu bài nhanh sẽ
học tốt hơn, ngược lại những em có khả năng tư duy chậm hơn thì rất ngại
học dẫn đến tình trạng học không tốt môn Toán cũng như các môn học
khác.
Qua nhiều năm dạy học, tôi thấy học sinh ở trường chủ yếu là người
dân tộc thiểu số, khả năng tiếp thu bài còn chậm, nhất là toán chuyển động
đều, điều này làm ảnh hưởng tới chất lượng học môn Toán cũng như các
môn học khác, nó còn là trở ngại khi các em bước vào bậc học trên. Để
1
khắc phục được những hạn chế đó, giáo viên phải tìm ra phương pháp,
hình thức dạy học phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. Vì vậy tôi
chọn đề tài “ Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 giải toán
chuyển động đều”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Nghiên cứu, lựa chọn một số biện pháp phù hợp với học sinh để
nâng cao chất lượng.
Thông qua việc nghiên cứu, khảo sát thực trạng, lựa chọn nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh nắm vững
kiến thức về số đo thời gian, biết cách tính quãng đường, vận tốc, thời gian
trong chuyển động; vận dụng để giải bài toán chuyển động dạng đặc biệt.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng việc dạy và học môn Toán lớp 5 nói chung
cũng như giải toán chuyển động đều nói riêng ở trường Tiểu học Y Ngông;
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kĩ năng giải toán chuyển động
đều cho học sinh.
4. Giới hạm phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 5 trường Tiểu học Y Ngông, xã Dur Kmăn, huyện
Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk
Nội dung chương trình, chuẩn kiến thức kĩ năng và tuyến kiến thức
về toán chuyển động đều trong môn Toán lớp 5.
5. Phương pháp ngiên cứu
Nghiên cứu tài liệu
Phương pháp điều tra, thực nghiệm
2
Phương pháp kiểm tra, đánh giá
Phương pháp đối chiếu, so sánh, tổng kết kinh nghiệm
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lí luận
Mục tiêu dạy học môn toán tiểu học nhằm giúp học sinh có những
kiến thức cơ bản ban đầu về số học, các số tự nhiên, phân số, số thập
phân; các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê đơn
giản. Hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có
nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống. Góp phần bước đầu phát triển
năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt chúng, cách phát hiện
và cách giải quyết những vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích
thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần hình thành bước
đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh
hoạt, sáng tạo.
Nội dung về toán chuyển động đều giữ vị trí quan trọng trong môn
Toán lớp 5. Nó giúp học sinh có năng lực nhận biết các sự vật, hiện tượng
một cách nhanh chóng, lôgíc và khoa học. Đồng thời toán chuyển động
đều còn gắn bó mật thiết với các kiến thức khác như số học, đại số, ...tạo
thành môn Toán có cấu trúc hoàn chỉnh và phù hợp với học sinh tiểu học.
Với toán chuyển động đều, ta thấy đây là loại toán khó, rất phức
tạp, đa dạng và có rất nhiều kiến thức áp dụng vào thực tế cuộc sống.
Việc hình thành, rèn luyện, củng cố các kỹ năng giải toán chuyển động
đều chiếm thời lượng rất ít nên các em không thể tránh khỏi những khó
khăn, sai lầm khi giải loại toán này. Vì thế người giáo viên đóng vai trò
quan trọng là cầu nối học sinh với những kiến thức mới của bài học, giúp
họ c sinh học tốt, n ắm v ững ki ến th ức và biế t cách giải các bài toán
3
chuyển động đều. Qua đó cũng nhằm bồi dưỡng nâng cao khả năng tư
duy và óc sáng tạo của học sinh.
2. Thực trạng vấn đề
2.1 Thuận lợi khó khăn
* Thuận lợi
Được sự quan tâm của Lãnh đạo nhà trường, của tổ chuyên môn
cũng như sự giúp đỡ của giáo viên trong trường; thường xuyên tham gia các
hoạt động như chuyên đề, thao giảng, hội giảng, qua đó trao đổi và rút ra
được nhiều kinh nghiệm.
Bản thân đã nhiều năm dạy lớp 5 nên cũng đã có một số kinh nghiệm
trong giảng dạy. Hơn nữa, học sinh ngoan ngoãn, chăm chỉ cũng là mặt
thuận lợi không nhỏ.
* Khó khăn
Trường Tiểu học Y Ngông đóng trên địa bàn khăn của huyện Krông
Ana, cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn.
Hầu hết gia đình các em thuộc diện khó khăn, trình độ dân trí còn
thấp nên chưa nhận thức đúng về việc học tập của con em mình.
2.2 Thàng công hạn chế
* Thành công
Chất lượng dạy học trong những năm gần đây cũng đã có sự tiến bộ
nhờ sự đổi mới trong phương pháp, hình thức dạy học. Giáo viên đã không
ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, đáp ứng với sự đổi mới trong
giáo dục.
Khả năng tư duy, tinh thần tự học, tính chủ động, tích cực trong học
tập được phát huy.
4
* Hạn chế
Chất lượng học sinh nói chung còn hạn chế, một số em đi học chưa
chuyên cần nên việc tiếp thu bài gặp nhiều khó khăn.
Một số giáo viên vẫn chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp, chưa
sáng tạo trong trong giảng dạy.
2.3 Mặt mạnh mặt yếu
* Mặt mạnh
Giáo viên đã nắm vững tuyến kiến thức về toán chuyển động đều,
lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp; biết cách dạy
khơi dậy sự sáng tạo, sự tự học của học sinh.
Được sự giúp đỡ của giáo viên trong khối cũng như toàn trường,
thường xuyên trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy.
* Mặt yếu
Học sinh của trường chủ yếu là người dân tộc thiểu, khả năng tiếp
thu cũng có phần hạn chế, một số nội dung của bài học tương đối khó so
với nhận thức của các em. Bên cạnh đó, một số giáo viên cũng còn những
hạn chế nhất định về năng lực dạy học.
2.4 Các nguyên nhân các yếu tố tác động
Nhà trường tạo cơ sở vật chất đảm bảo cho quá trình dạy học. Tổ
chuyên môn cũng thường xuyên tạo điều kiện để tham gia các buổi tập
huấn, chuyên đề nâng cao trình độ chuyên môn.
Bản thân là giáo viên giảng dạy lớp 5 nhiều năm nên có kinh nghiệm
trong việc lựa chọn các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với đối
tượng học sinh.
5
Học sinh chủ yếu là người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh gia đình các
em còn gặp rất nhiều khó khăn, nhận thức còn nhiều hạn chế. Điều này
ảnh hưởng không nhỏ tới việc phối hợp với gia đình trong việc giáo dục
các em.
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã
đặt ra
Trường Tiểu học Y Ngông đóng trên địa bàn khăn của huyện Krông
Ana. Tỉ lệ học sinh dân tộc thiểu số chiếm đa số, nhận thức của các em
còn hạn chế. Hầu hết gia đình các em thuộc diện có hoàn cảnh khó khăn,
các em thường nghỉ học để phụ giúp gia đình lao động. Đi học không
chuyên cần dẫn đến các em bị hổng kiến thức các môn học nói chung và
môn Toán nói riêng. Hơn nữa, gia đình chưa thật sự quan tâm đến việc học
tập của các em, khả năng tư duy của các em còn hạn chế. Đây cũng chính
là nguyên nhân khiến các em gặp khó khăn trong việc tiếp thu bài.
Bên cạnh những khó khăn đó thì còn có những mặt thuận lợi nhất
định như được sự quan tâm, chỉ đạo, hướng dẫn sát sao của nhà trường,
chuyên môn, được sự góp ý rút kinh nghiệm của bạn bè đồng nghiệp qua
các hoạt động chuyên môn như thao giảng, hội giảng, chuyên đề; học sinh
trong lớp đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học bài.
Xuất phát từ vấn đề và thực trạng đó đòi hỏi người giáo viên phải
làm gì để nâng cao chất lượng giáo dục các môn học nói chung cũng như
môn Toán nói riêng là việc làm cần thiết và thường xuyên.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Vận dụng và lựa chọn các giải pháp, biện pháp dạy học phù hợp với
tuyến kiến thức toán chuyển động đều nhằm phát huy tính tích cực, chủ
6
động của học sinh. Thông qua đó, giúp học sinh nắm vững kĩ năng giải toán
chuyển động đều, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán.
Tạo được không khí vui tươi, khích lệ học sinh tích cực, chủ động
trong học tập.
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
3.2.1 Hướng dẫn nắm vững về đơn vị đo
Thông thường, bài toán chuyển động đều có công thức và quy tắc để
giải. Tuy nhiên học sinh không chú ý tới các đơn vị đo của các đại lượng
nên dẫn đến tình trạng sai lầm trong khi làm bài. Do đó tôi đã tiến hành
khảo sát thực trạng giải toán chuyển động đều nhằm phát hiện những khó
khăn, những sai lầm mà học sinh mắc phải khi làm bài, thông qua việc làm
này, tôi thấy học sinh thường học sinh hay nhầm lẫn các đơn vị đo. Vì vậy,
giáo viên cần hướng dẫn và giúp đỡ học sinh khắc sâu kiến thức cơ bản
trước khi làm một bài tập cụ thể nào đó. Từ các công thức tính vận tốc,
quãng đường, học sinh cần xác định được các đơn vị đi kèm : Thời gian là
giờ, quãng đường là kilômét thì vận tốc là km/giờ; Thời gian là phút,
quãng đường là mét thì vận tốc là m/phút. .....
Tuy nhiên không phải lúc nào học sinh cũng dễ dàng chuyển đổi
được đơn vị đo cho phù hợp, lí do là các em đã quen cách đổi số đo thời
gian về số tự nhiên hay về số thập phân, do đó các em thường gặp khó
khăn trong những bài toán đơn giản.
Ví dụ : Một người đi xe máy trong 1 giờ 40 phút với vận tốc 35
km/giờ. Tính quang đường người đi xe máy đã đi.
Đối với dạng toán này, học sinh sẽ đổi phút thành giờ ( 40 phút =
....giờ) bằng cách lấy 40: 60(kết quả là phép chia có dư). Vì quen cách đổi
về số tự nhiên hoặc số thập phân mà quên không đổi về phân số nên các
7
em đã mắc phải một số sai lầm không đáng có. Trong trường hợp này, giáo
viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo gợi ý sau :
Chuyển phép chia 40 : 60 thành = . Đổi 1giờ 40 phút ra giờ. Nếu
phép chia có dư thì kết quả để ở dạng phân số. Với cách hướng dẫn, gợi ý,
học sinh sẽ giải được bài toán như sau :
Đổi : 1 giờ 40 phút = 1 giờ = giờ
Quãng đường người đi xe máy đã đi là :
35 x = (km)
Đáp số : (km)
Với dạng toán này, yêu cầu của bài đặt ra là tìm một trong các đại
lượng vận tốc, quãng đường, thời gian. Trong đó có những đại lượng
muốn tìm phải dựa vào dữ liệu đã cho.
Ví dụ : Một con ngựa chạy đua trên quãng đường 15 km hết 20 phút.
Tính vận tốc của con ngựa đó với đơn vị đo là m/phút.
Đối với bài tập này, học sinh thường nhầm lẫn là có đủ dữ liệu, chỉ
cần thay vào công thức sẽ được kết quả ( vận tốc là 15 : 20 = 0,75m/phút).
Các em thường quên mất rằng đơn vị quãng đường đã cho chưa tương ứng
với đơn vị vận tốc cần tìm. Với dạng bài này, giáo viên hướng dẫn học
sinh tóm tắt bài toán như sau :
s = 15 km = .... m ?
t = 20 phút
v = .?.. m/phút
Thông qua việc tóm tắt bài toán, học sinh sẽ biết để có đơn vị đo vận
tốc là m/phút thì đơn vị quãng đường phải là mét. Từ đó học sinh sẽ đổi
đơn vị ki lômét thành đơn vị mét để giải bài toán.
8
Đổi : 15km = 15000 m
Vận tốc chạy của con ngựa là :
15000 : 20 = 750 (m/phút)
Đáp số : 750 m/phút
Để giúp học sinh khắc phục những nhầm lẫn khi giải các dạng bài
tập này, giáo viên cần khắc sâu kiến thức ngay trong bài học, củng cố lại
trong các bài tập, tạo cho học sinh có thói quen cẩn thận khi làm toán.
3.2.2 Đưa các bài toán chuyển động đều về từng dạng để giải
Đối với toán chuyển động đều, có những bài toán chuyển động cần
sự suy luận, phán đoán thì mới tìm ra hướng giải. Tuy nhiên sự suy luận
của các em còn hạn chế, hơn nữa, đây là loại toán khó nên các em rất khó
xác định và giải. Do đó giáo viên cần hướng dẫn, giúp các em đưa các bài
toán về từng dạng và có cách giải, theo đó có một số dạng toán chuyển
động cơ bản sau :
* Dạng toán chỉ có một chuyển động tham gia
Với dạng toán chuyển động chỉ có một chuyển động tham gia, khi
cho biết hai đại lượng, yêu cầu phải tìm một đại lượng còn lại, thường thì
phải giải bài toán phụ để tìm đại lượng còn lại.
Ví dụ : Một ô tô đi từ A lúc 7 giờ 30 phút và đến B lúc 12 gời 15 phút
với vận tốc 46km/giờ. Tính quãng đường AB.
Yêu cầu của bài này là tính quãng đường khi biết vận tốc và thời
gian, tuy nhiên học sinh lại nhầm lẫn và không biết cách tính thời gian ô tô
đi hết quãng đường. Do đó giáo viên gợi ý, hướng dẫn học sinh như sau :
Tìm thời gian ô tô đi hết quãng đường (Lấy thời gian đến nơi trừ đi
thời gian bắt đầu xuất phát). Đơn vị thời gian tương ứng với đơn vị vận
9
tốc km/giờ (là giờ ). Qua sự hướng dẫn, học sinh có cách giải bài này như
sau :
Thời gian ô tô đi hết quãng đường AB là :
12 giờ 15 phút 7 giờ 30 phút = 4 giờ 45 phút
Đổi : 4 giờ 45 phút = 4,75 (giờ)
Độ dài quãng đường AB là :
46 x 4,75 = 218,5 (km)
Đáp số : 218,5 km
Từ bài toán trên, các em sẽ rút ra được cách tính thời gian đối với
loại toán này như sau : Thời gian đi = thời gian đến nơi thời gian đầu xuất
phát. Từ đây giáo viên sẽ hướng dẫn giúp học sinh rút ra được một số công
thức :
Thời gian đi = thời gian đến thời gian xuất phát thời gian nghỉ.
Thời gian đến nơi = thời gian xuất phát + thời đi + thời gian nghỉ.
Thời gian khởi hành = thời gian đến nơi (thời gian đi + thời gian
nghỉ)
Ví dụ: Một ô tô đi từ Hà Nội lúc 6 giờ 15 phút và đến Hải phòng lúc
8 giờ 56 phút. Vận tốc của ô tô là 45 km/giờ. Giữa đường ô tô nghỉ 25 phút.
Tính quãng đường từ Hà Nội đến Hải phòng.
Với bài này, yêu cầu học sinh tính quãng đường khi biết vận tốc, còn
muốn tìm thời gian thì phải giải bài toán phụ. Giáo viên hướng dẫn, gợi ý
bằng tóm tắt sau :
Quãng đường = vận tốc x thời gian đi thực tế
= 45 x ?
10
Nhìn vào sơ đồ và cách tính thời gian nêu trên, học sinh sẽ giải được
bài toán như sau :
Thời gian thực tế ô tô đi từ Hà Nội đến Hải Phòng là :
8 giờ 56 phút (6 giờ 15 phút +25 phút) = (giờ)
Quãng đường từ Hà Nội đến Hải Phòng là :
45 x = 102 (km)
Đáp số : 102 km
* Dạng toán có từ hai chuyển động
Trong toán chuyển động đều thì đây là dạng khó và phức tạp nhất,
bởỉ vì muốn tìm đại lượng chưa biết trong dạng toán này, học sinh phải
suy luận và có thể phải đặt giả thiết khi giải. Một điều khó khăn là dạng
toán này các em được học rất ít nên không có điều kiện luyện tập. Dạng
toán này có rất nhiều loại như : Chuyển động cùng chiều, chuyển động
ngược chiều, chuyển động trên dòng nước, .....
Để học sinh nắm được cách giải, giáo viên sẽ lựa chọn, hướng dẫn
học sinh tìm và đưa các bài toán đó về từng loại cụ thể để giải.
Ví dụ : Một xe máy đi từ A lúc 8 giờ 37 phút với vận tốc là 36
km/giờ. Đến 11 giờ 7 phút một ô tô cũng đi từ A đuổi theo xe máy với vận
tốc 54 km/giờ. Hỏi ô tô đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ.
Giáo viên hướng dẫn học sinh bằng hệ thống câu hỏi gợi ý sau :
+ Đây là loại toán nào ? (Loại toán chuyển động cùng chiều, không
cùng lúc, cách nhau một khoảng cách cho trước, tìm thời điểm gặp nhau)
+ Khi xe ô tô bắt đầu đi thì cách xe máy bao nhiêu km ? (Xe máy xuất
phát trước ô tô bao nhiêu thời gian, vận tốc xe máy là bao nhiêu ?
+ Sau mỗi giờ, ô tô gần xe máy bao nhiêu km ?
11
+ Sau bao lâu ô tô đuổi kịp xe máy ?
+ Ô tô đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ ? ( giờ khởi hành cộng với thời
gian ô tô đi để đuổi kịp xe máy)
Từ gợi ý, hướng dẫn học sinh giải như sau :
Thời gian xe máy đi trước ô tô là :
11 giờ 7 phút 8giờ 30 phút = 2 giờ 30 phút ( 2,5 giờ)
Đến 11giờ 7 phút xe máy đã đi được quãng đường là :
36 x 2,5 = 90 (km)
( Bài toán đưa về loại chuyển động cùng chiều, đuổi nhau)
Ô tô xe máy Nơi gặp nhau
A 90 km B C
Sau mỗi giờ, ô tô gần xe máy là :
54 36 = 18 (km)
Thời gian ô tô đuổi kịp xe máy là :
90 : 18 = 5 (giờ)
Ô tô đuổi kịp xe máy lúc :
11 giờ 7 phút + 5 giờ = 16 giờ 7 phút
Đáp số : 16 giờ 7 phút
Từ bài toán trên cho thấy, khoảng cách cho trước chính là quãng
đường mà xe máy đã đi trước khi ô tô xuất phát. Thời gian để ô tô đuổi kịp
xe máy chính là khoảng cách giữa hai xe chia cho hiệu vận tốc. Bài toán
đưa về loại chuyển động cùng chiều, đuổi nhau, tìm thời điểm (lúc) gặp
nhau. Qua đó ta có công thức cho loại toán này như sau :
12
Thời gian đuổi kịp là :
t = s : (v1 v2 ) với v1 > v2 , s là khoảng cách 2 chuyển động
Với loại chuyển động ngược chiều thì thì
Thời gian đuổi kịp là :
t = s : (v1 + v2 ) s là khoảng cách 2 chuyển động
Ngoài chuyển động cùng chiều, ngược chiều thì trong chương trình
còn có loại toán đặc biệt, đó là loại chuyển động trên mặt nước, loại toán
tương đối khó nên giáo viên cần giúp các em hiểu bản chất của lạoi toán
này.
Ví dụ : Một thuyền máy đi xuôi dòng từ bến A đến bến B. Vận tốc
của thuyền khi nước lặng là 22,6km/giờ và vận tốc dòng nước là
2,2km/giờ. Sau 1 giờ 15 phút thì thuyền máy đến B. Tính độ dài quãng sông
AB.
Bài toán này có yếu tố vận tốc của dòng nước nên làm thay đổi vận
tốc thuyền máy khi đi xuôi dòng và ngược dòng. Nếu không để ý yếu tố
này thì học sinh tìm quãng đường bằng cách lấy vận tốc thuyền nhân với
thời gian. Để học sinh giải bài toán này, giáo viên cần hướng dẫn, gợi mở
để các em tìm ra cách giải.
Nếu khi nước chảy thì vận tốc thuyền xuôi dòng tính như thế nào ?
(vận tốc thuyền cộng vận tốc dòng nước)
Vậy độ dài quãng sông AB là bao nhiêu ?
Bài giải như sau :
Đổi 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ
Vận tốc thuyền máy khi xuôi dòng là :
22,6 + 2,2 + 24,8 (km/giờ)
13
Độ dài quãng sông AB là :
24,8 x 1,25 = 31 (km)
Đáp số : 31 km
Với bài toán minh họa trên, giáo viên tiếp tục lựa chọn một số bài
toán điển hình khác để hướng dẫn và giúp các em hiểu, nắm bắt và giải
được, đồng thời rút ra kết luận : Nếu vật chuyển động ngược dòng thì có
lực cản của dòng nước. Từ đó có các công thức cho loại toán này như sau :
+ Vận tốc xuôi dòng = vận tốc vật + vận tốc dòng nước.
+ Vận tốc ngược dòng = vận tốc vật vận tốc dòng nước.
+ Vận tốc dòng nước = (vận tốc xuôi dòng vận tốc ngược dòng) :
2
+ Vận tốc vật = (vận tốc xuôi dòng + vận tốc ngược dòng) : 2
+ Vận tốc xuôi dòng vận tốc ngược dòng = vận tốc dòng nước x 2
Như vậy, với loại toán chuyển động đều có từ hai chuyển động là
loại toán khó, do đó giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ, gợi mở để học sinh tìm
ra hướng giải, từ đó các em mới có thể nhớ và khác sâu kiến thức hơn.
3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
Giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, Chuẩn Kiến thức,
kỹ năng của môn học và từng bài học cụ thể. Thực hiện tốt dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học.
Linh hoạt lựa chọn các hình thức giảng dạy sao cho phù hợp với đối
tượng học sinh, bảo đảm tất cả học sinh đều có cơ hội tham gia và tiếp thu
được nội dung cơ bản của bài học.
Giáo viên không ngừng học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ.
14
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp được nêu trong đề tài có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, có sự thống nhất và có mục tiêu là hướng học sinh vào quá
trình học tập.
Giải pháp thứ nhất là tiền đề, là cơ sở giúp giáo viên thực hiện tốt
giải pháp thứ hai và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Giáo viên cần linh hoạt khi thực hiện các giải pháp, biện pháp nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học và tạo hứng thú
trong học tập.
3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu
Thực hiện đề tài này đã mang lại những hiệu quả nhất định như học
sinh nắm vững kiến thức về số đo thời gian, biết cách tính quãng đường,
vận tốc, thời gian trong chuyển động; vận dụng để giải một số bài toán
chuyển động dạng đặc biệt. Không những thế, các em còn rất hứng thú,
tích cực và chủ động trong học tập.
Năm học 2014 2015, kết quả khảo nghiệm lớp chưa áp dụng đề tài
so với lớp đã áp dụng đề tài đều như sau :
Nắm vững công thức và đơn
Vận dụng giải các dạng
vị đo
toán
Đạt
Chưa đạt
Đạt
Chưa đạt
10
9
8
11
Tỉ lệ %
52,6
47,4
42
58
Lớp đã áp
18
6
15
9
Lớp chưa
áp dụng
15
dụng
Tỉ lệ %
75
25
62,5
31,8
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn
đề nghiên cứu.
Thông qua kết quả khảo nghiệm, giáo viên nắm chắc được các
phương pháp dạy học toán chuyển động đều cũng như các phương pháp
khác và các kiến thức về toán chuyển động đều trong chương trình môn
Toán lớp 5.
Chuẩn bị, nghiên cứu tài liệu, phương tiện dạy học góp phần vào
việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó giáo viên đóng vai trò là
người hướng dẫn, còn học sinh là người chủ động, tích cực trong quá trình
học tập để tìm ra kiến thức, kĩ năng.
Các giải pháp, biện pháp đề tài nghiên cứu đã có tác động tích cực
đến đội ngũ giáo viên trong trường; tạo được môi trường học tập vui tươi
giữa thầy và trò, khích lệ và khơi dậy được sự tích cực, chủ động để tất
cả học sinh tham gia vào quá trình học tập, nắm vững và khắc sâu các kiến
thức về toán chuyển động đều, biết vận dụng để làm bài tập, áp dụng vào
giải các bài toán chuyển động đều liên quan đến thực tế đời sống.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Môn Toán lớp 5 chiếm một thời lượng lớn trong chương trình và
đóng vai trò quan trọng, nó cung cấp những kiến thức cơ bản về số học,
các yếu tố hình học, đo đại lượng, giải toán. Trong đó toán chuyển động
đều là tuyến kiến thức khó cần khả năng suy luận, giải quyết vấn đề có
căn cứ khoa học, chính xác. Nó còn giúp học sinh phát triển trí thông minh,
16
tư duy độc lập sáng tạo, kích thích óc tò mò, tự khám phá và rèn luyện một
phong cách làm việc khoa học.
Đối với giáo viên, muốn nâng cao hiệu quả dạy học toán chuyển
động đều lớp 5 thì phải thực hiện đổi mới đồng phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh. Vì vậy giáo viên phải tìm
hiểu, nắm chắc nội dung, chương trình và tuyến kiến thức về toán chuyển
động đều, phải thực sự tâm huyết yêu nghề, mến trẻ, không ngừng học
hỏi, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân, đưa chất lượng dạy học
ngày càng có kết quả cao.
Bên cạnh đó, việc học sinh chủ động, tích cực trong việc chiếm lĩnh
tri thức là yếu tố quan trọng cho sự thành công. Vì vậy giáo viên phải
hướng dẫn, gợi mở để các em tìm ra kiến thức mới; tạo không khí vui tươi,
lành mạnh, khích lệ, động viên các em học tập tốt hơn.
2. Kiến nghị
Đối với nhà trường và giáo viên : Cần làm tốt công tác vận động học
sinh đi học chuyên cần, nếu học sinh đi học không chuyên cần sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng học tập. Đây là một trong những nhiệm vụ
quan trọng và thường xuyên.
Giáo viên Tiểu học trước hết phải tâm huyết với nghề, phải phân
loại học sinh ngay từ đầu năm học để có kế hoạch giảng dạy. Ngoài ra còn
phải chuẩn bị bài, tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, sử dụng phương tiện, đồ
dùng dạy học có hiệu quả.
Trên đây là “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 giải toán
chuyển động đều” mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy . Do thời
gian có hạn, đề tài cũng còn những hạn chế nhất định. Rất mong sự góp ý
17
của đồng chí, đồng nghiệp để những kinh nghiệm trên được đầy đủ và
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Người viết
Nguyễn Văn Quyết
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)
18