Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

sáng kiến kinh nghiệm MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN TRẺ MẪU GIÁO LỚN 5-6 TUỔI ĐÓNG KỊCH TRUYỆN KỂ VĂN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.25 KB, 10 trang )

Một số biện pháp hớng dẫn trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi
đóng kịch truyện kể văn học
I - Lý do chọn đề tài:
Văn học là một loại hình nghệ thuật mà trẻ thơ đợc tiếp xúc rất sớm ngay
từ tuổi ấu thơ trẻ đã đợc làm quen với các giai điệu nhẹ nhàng - tha thiết qua
những lời hát ru, đợc nghe những câu chuyện cổ tích ly kỳ - hấp hẫn đầy tình
thơng yêu và lòng nhân ái.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi cha biết đọc nên trẻ cha tự mình tiếp xúc trực tiếp
với tác phẩm văn học, nên việc nắm bắt tác phẩm ở trẻ dờng nh phụ thuộc vào
cô giáo. Cô giáo dẫn dắt trẻ LQTPVH không chỉ dừng lại ở việc đọc, kể mà còn
bao gồm cả việc dạy cho trẻ kể lại chuyện một cách diễn cảm, sáng tạo và đóng
vai các nhân vật trong chuyện (đóng kịch).
Dạy trẻ đóng kịch dựa vào cac câu chuyện đã đợc chuyển thể thành kịch
bản là một hình thức cho trẻ LQTPVH mang tính chất trò chơi. Đây là một hình
thức học tập tạo đợc nhiều sự hứng thú và sáng tạo ở trẻ. Thông qua việc thể
hiện các vai trong truyện sẽ giúp cho trẻ hiểu sâu sắc hơn nội dung câu chuyện
và tính cách của từng nhân vật trong chuyện. Từ đó sẽ giúp cho trẻ thể hiện vai
diễn của mình thật nhuần nhuyễn qua từng lời nói, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nụ
cời Sự liên kết các câu, các từ, các vai diễn sẽ củng cố trí nhớ tăng cờng khả
năng ghi nhớ có chủ đích phát triển ngôn ngữ mạch lạc ở trẻ. Giúp cho ngời
xem hiểu đợc đầy đủ ý nghĩa, nội dung, tính cách của nhân vật trong kịch bản.
Qua quá trình thử nghiệm trên trẻ - nghiên cứu tài liệu, bản thân tôi đã
tìm ra một số biện pháp cơ bản để dạy trẻ LQTPVH qua hình thức đóng kịch.
II - Nhận thức cũ - tình trạng cũ:
Qua 3 năm thực hiện chuyên đề cho trẻ LQTPVH - chữ viết, giáo viên đã
thực sự có nhiều đầu t vào việc nâng cao các phơng pháp - hình thức cho trẻ
LQTPVH đã chú trọng nhiều đến việc đọc, kể diễn cảm và dạy trẻ kể lại truyện,
kể chuyện sáng tạo dới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Song việc dạy trẻ
đóng kịch còn có nhiều hạn chế.
1
- Cha có sáng tạo trong việc chuyển thể từ chuyện kể sang kịch bản sân


khấu, không tạo ra đợc tính kịch - sự kiện - sự biến, lời thoại còn dài dòng khó
hiểu, giáo viên còn nặng nề trong việc dẫn chuyện làm cho kịch bản trở nên rời
rạc - kém hấp dẫn
- Hầu hết các vở kịch còn thiếu các yếu tố phụ trợ: Âm thanh, cảnh trí,
trang phục làm cho hoạt động đóng kịch không thu hút đợc sự chú ý của trẻ.
- Giáo viên cha chủ động linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động đóng
kịch cho trẻ - nếu có thì chủ yếu là trong tiết học. Còn trong các giờ chơi, các
buổi sinh hoạt thì hấu nh cha có.
III - Biện pháp mới:
Trong quá trình triển khai thực hiện chuyên đề LQVH và chữ viết tôi đã
thấy đợc tầm quan trọng của việc dạy trẻ đóng kịch kể chuyện TPVH nhằm
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ - giúp trẻ phát huy đợc tính tích cực cá
nhân - tự tin - độc lập - sáng tạo - hình thành t duy - khả năng ghi nhớ có chủ
đích, những tình cảm đạo đức tốt đẹp, tạo cơ hội cho trẻ có khả năng hoạt động
nghệ thuật, sáng tạo và nó là phơng tiện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Sau đây
là một số biện pháp cụ thể:
1/ Lựa chọn - chuyển thể kịch bản:
a Lựa chọn tác phẩm
- Trẻ tuổi mầm non cha thể đọc đợc truyện và quá trình cho trẻ
LQTPVH cần phải đa dạng, sinh động nên một trong những yêu cầu khi lựa
chọn tác phẩm văn học cho trẻ là nên có những tác phẩm phù hợp độ tuổi có
thể chuyển từ ngôn ngữ viết sang ngôn ngữ kể lại chuyển thể từ truyện kể
sang kịch bản.
- Đối với tác phẩm chuyển từ truyện kể sang kịch bản đòi hỏi truyện phải
có tính kịch, có mâu thuẫn, xung đột giữa các nhân vật và không nên có quá
nhiều nhân vật.
- Các tác phẩm đợc lựa chọn phải đáp ứng đợc yêu cầu giáo dục: giáo dục
tỉnh yêu quê hơng đất nớc, tình cảm gia đình, cách đối nhân xử thế tính cách
của các nhân vật phải đợc thể hiện rõ ràng, phù hợp.
2

- Tính cách của các nhân vật tự bộc lộ qua hành động và ngôn ngữ (đối
thoại, độc thoại). Khi chuyển thể phải tập trung vào ngôn ngữ đối thoại để gây
đợc ấn tợng cho ngời nghe.
Ví dụ: Truyện kể: Dê đen dũng cảm là câu chuyện có tính kịch cao.
Truyện gồm 3 nhân vật: Dê đen, dê trắng, chó sói. Qua ngôn ngữ độc thoại của
dê đen, dê trắng, ngôn ngữ đối thoại của 2 con dê với chó đã bộc lộ tính cách
yếu đuối nhút nhát của dê trắng đối lập hoàn toàn với sự dũng cảm của dê đen.
b/ Chuyện thể kịch bản:
Là quá trình chuyển thể tác phẩm từ chuyện kể kịch bản - đây là công
việc hết sức quan trọng, đòi hỏi ngời giáo viên phải thực sự hiểu sâu sắc tác
phẩm - tính cách của từng nhân vật trong tác phẩm. Chủ động trong việc sáng
tạo hay bổ sung thêm những tình tiết, sự kiện vào trong kịch bản để tạo nên sự
hấp dẫn, lôi cuốn mà không làm thay đổi nội dung cốt truyện. Tuy nhiên để xây
dựng đợc một kịch bản đáp ứng đầy đủ yêu cầu về nội dung và nghệ thuật, giáo
viên đảm bảo tuân thủ các yêu cầu sau đầy:
- Xác định nhân vật: Giáo viên phải xác định rõ số lợng nhân vật trong
một tác phẩm- quá trình phát triển tâm lý - tính cách rõ nét của mỗi nhân vật
sao cho phù hợp và làm nổi bật đợc nội dung tác phẩm.
Ví dụ: Câu chuyện Quả bầu tiên có 3 nhân vật chính
Tính cách nhân vật: Cậu bé hiền lành - tốt bụng, yêu quý chăm sóc bảo
vệ các loài vật.
Lão địa chủ: Tham lam, độc ác.
- Trong các vở kịch tính cách của các nhân vật đợc bộc lộ qua hành động và
ngôn ngữ trong đó bao gồm cả ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ đối thoại.
+ Ngôn ngữ độc thoại trong kịch bản thờng là những lời giới thiệu, lời
dẫn truyện trong truyện kể, đòi hỏi giáo viên phải khéo léo đa những lời giới
thiệu, lời dẫn đó trở thành lời nói của nhân vật cùng với thái độ - cử chỉ - hành
động để giúp cho ngời nghe, ngời xem có thể hiểu đợc diễn biến của vở kịch -
kịch bản.
3

Ví dụ: Trong câu chuyện Chú Dê đen truyện kể mở đầu có đoạn Có
một chú Dê trắng đi vào từng để kiếm lá non ăn và nớc suối mát để uống
nhng khi chuyển thể sang kịch bản giáo viên có thể chuyển thành lời của
nhân vật.
Ôi mùa xuan thật là đẹp mình phải đi vào rừng để kiếm lá non ăn và nớc
suối mát để uống thôi.
Độc thoại trong kịch bản cũng có thể là những lời giao đãi giữa nhân vật
với khán giả.
Ví dụ: Trong câu chuyện Cây tre trăm đốt có đoạn anh nông dân nói
với khán giả.
Bà con ơi! Bà con làm chứng cho tôi nhé, lão nhà giàu đã hứa gả con gái
cho tôi rồi đấy Khi lời giai đãi đợc đa vào trong kịch bản thì cả diễn viên và
khán giả đều cảm thấy rất hào hứng, thích thú và bị cuốn hút vào diễn biến của
vở kịch.
+ Ngôn ngữ đối thoại: Đối thoại là quá trình giao tiếp của 2 hay nhiều
nhân vật với nhau đợc phối hợp với cử chỉ - hành động. Với trẻ mẫu giáo cha
phát triển đạt đến mức hoàn thiện nên khi chuyển thể kịch bản giáo viên cần
chú y đến ngôn ngữ nhân vật.
Lời thoại phải ngắn gọn - dễ hiểu để diễn đạt đủ câu, đủ ý. Giàu hình ảnh
- đảm bảo lời hay ý đẹp. Tránh những câu noi dài dòng, những câu hỏi ép mớm
- không phát huy đợc tính chủ động sáng tạo, kỹ năng phát triển ngôn ngữ mạch
lạc của trẻ.
- Trong khi chuyển thể thành kịch bản cho phép chúng ta có thể thêm
hoặc bớt tình tiết và nhân vật nhng vẫn đảm bảo nội dung trọng tâm của kịch
bản. Một vở kịch có thể có từ 3-4 nhân vật chính, nếu quá ít nhân vật thì tẻ nhạt
nhng quá trình nhiều thì vở kịch trở nên lộn xộn - không trọng tâm làm phân tán
sự chú ý của trẻ.
Ví dụ 1: Trong câu chuyện Chú Dê đen vì câu chuyện chỉ có 3 nhân
vật nên chúng ta có thê cho thêm nhân vật Thỏ trắng xuất hiện ở đầu câu
4

chuyện cùng Dê đen và Dê trắng đi kiếm ăn và ở cuối câu chuyện để cùng Dê
đen và Dê trắng đánh lại chó sói.
Ví dụ 2: Trong kịch bản Cây trẻ trăm đốt Ngoài Lão địa chủ, cô con
gái, anh nông dân chúng ta có thể xây dựng thêm nhân vật bà con hàng xóm vì
trong vở kịch các nhân vật độc thoại khá nhiều. Mục đích khi đa những nhân vật
này vào là làm cho vở kịch thêm phần sinh động hơn, vui hơn, tránh đợc sự đơn
điệu - tẻ nhạt.
Ví dụ 3: Trong câu chuyện Tấm Cám có những chi tiết thể hiện sự độc
ác của mẹ con cám: - Trút bớt tôm tép
- Giết cá bống
- Trộn gạo vào thóc
Vì câu chuyện rất dài nên khi xây dựng kịch bản chúng ta có thể bỏ đi
một số chi tiết. Điều đó cũng không ảnh hởng đến diễn biến - nội dung của kịch
bản. Bỏ 1 trong 3 chi tiết thì mẹ con Cám vẫn độc ác và Tấm vẫn là Tấm chăm
chỉ đến nhẫn nhục.
Trong quá trình xây dựng kịch bản giáo viên cần chú ý đến tính kịch -
Nếu vở kịch không có tính kịch thì không hấp dẫn đối với ngời xem, nhng đối
với truyện kể dành cho trẻ mầm non không phải câu chuyện nào cũng có tính
kịch. Vì vậy giáo viên cần phải sử dụng hình thức cài kịch giữ kịch để vở diễn
thêm phần sinh động và lôi cuốn hơn.
Ví dụ 1: Trong câu chuyện Chú Dê đen chúng ta dàn dựng để Dê Đen
và Nai Con đến cứu bạn và cài kịch 3 bạn đánh cho Chó sói một trận tơi bời.
Ví dụ 2: Trong kịch bản Ba chú heo con. Đoạn chó sói chui vào ống
khói - 3 chú heo con đang đun nớc sôi - hun khói để lừa giết chó sói không nên
để Chó sói rơi liền xuống nồi nớc sôi mà để Chó sói chạy ngợc lên ống khói rồi
lại rơi xuống - kêu la - rảy rụa - van xin. Mục đích là để cuốn hút sự chú ý của
trẻ. Tạo nên niềm hng phấn - sự thích thú - thoả mãn khi Chó sói độc ác, ranh
mãnh bị trừng phạt.
5
- Đối với phần kết sau những diễn biến - những sự kiện xẩy ra thì tất cả

cuối cùng đều đợc giải quyết theo luật nhân quả: ở hiền gặp lành, chính nhân sẽ
thắng, báo ân trả oán.
Ví dụ: Lão địa chủ trong câu chuyện Quả bầu tiên sẽ không chết mà đ-
ợc cứu sống và tỏ ra ân hận và lấy của cải chia hết cho ngời nghèo. Dê trắng
không bị Chó sói ăn thịt mà đợc Dê đen cứu thoát (ĐDĐC). Cô Cả và Cô Hai
sau khi biến thành màng nhện tỏ ra ân hận, hối cãi, đợc trở lại thành ngời biết
yêu thơng - chăm sóc mẹ già (Bâ cô gái).
2/ Rèn luyện kỹ năng thể hiện ngôn ngữ và hành động của nhân vật:
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn đã có thể nắm đợc các cấu trúc với những từ
mới, từ khó trong tác phẩm một cách rõ ràng. Tuy vậy chúng ta không thể đòi
hỏi cao ở khả năng diễn xuất ở trẻ mà chỉ dừng lại ở mức độ giúp trẻ thể hiện
hợp lý giữa ngôn ngữ và cử chỉ điệu bộ - biết phối hợp lời nói, cử chỉ của cá
nhân với lời nói cử chỉ của các nhân vật khác một cách chủ động, đúng lúc,
đúng chỗ.
- Muốn giúp trẻ nắm đợc vai diễn của mình cô giáo cần tạo điều kiện cho
cháu hiểu về tác phẩm, hiểu về vai mình đóng, đồng thời cho trẻ luyện tập vai
diễn của mình, khi diễn trớc tập thể.
- Đối với những đoạn nhân vật thể hiện ngôn ngữ độc thoại hay đối thoại
thì tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của nhân vật mà giáo viên giúp trẻ thể hiện
sao cho phù hợp với diễn biến của vở kịch và tính cách cua nhân vật, ngôn ngữ
của nhân vật phải ngắn gọn - đủ ý - dễ hiểu, truyền tải đầy đủ nội dung cần thể
thể hiện - Câu đối thoại phải có đầy đủ chủ ngữ - vị ngữ - rõ ràng mạch lạc, cần
loại bỏ những từ: Mày - tao - mi thay vào đó những câu phù hợp mà không
làm thay đổi ngữ điều giọng và tính cách nhân vật.
Ví dụ: Trong câu chuyện chú Dê Đen có đoạn đối thoại giữa Dê Trắng,
Chó soi, Dê đen - Chó sói.
Dê kia mày đi đâu? Chuyển thành: Dê kia - Đi đâu
Dê: Tôi đi tìm lá non để ăn và nớc suối mát để uống
Chó sói: Ha ha vậy à
6

Trên đầu mày có gì? -> Trên đầu ngơi có gì
+ Cần chú ý sửa sai cho những trẻ nói nhanh - nói lắp - nói ngọng, tiếng
địa phơng Trong quá trình các nhân vật đối thoại với nhau mà mắc những lỗi
này sẽ làm cho ngời xem không hiểu đợc nội dung đoạn hội thoại làm cho vở
kịch nên kém hấp dẫn.
+ Trong khi hớng dẫn trẻ đóng kịch giáo viên cần chú ý luyện cho trẻ
cách thể hiện ngữ điệu, giọng của nhân vật. Xác định rõ đặc điểm - tính cách
của từng nhân vật mà giúp trẻ thể hiện sao cho phù hợp.
Giọng bà già: Chậm rãi, yếu ớt, khi ốm thì ho - rên
Giọng Dê trắng: Run rẩy, sợ sệt
Giọng Dê đen: To - dứy khoát - rõ ràng
Giọng Thỏ mẹ: Ân cần - dịu dàng - ấm áp
Giọng Thỏ em: Nhanh - nhí nhảnh - hồn nhiên
Giọng Thỏ anh: Chậm - Khoan thai
+ Ngoài ra giáo viên cần chú ý đến những từ cần nhấn mạnh trong các
câu nói của nhân vật.
Ví dụ: Câu nói của lão địa chủ trong câu chuyện Quả bầu tiên trong
đoạn thả én con lên trời.
Bay đi én con - mau kiếm hạt bầu tiên về đây cho ta (thể hiện sự độc ác
tham lam của lão địa chủ)
Câu nói của Chó soi trong câu chuyện Chú Dê đen.
à ta nhớ ra rồi - ha ha - ở đoạn đờng này họ hàng nhà Dê th ờng hay
qua lại
- Đi liền với ngôn ngữ là cử chỉ - điệu bộ - nét mặt nó đóng vai trò hết
sức quan trọng làm nổi bật tính cách nhân vật tạo nên sự sinh động - hấp dẫn
của vở kịch.
Ví dụ 1: Đoạn Dê đen di tìm Dê trắng: Mặt lo âu, hốt hoảng - điệu bộ
vừa đi vừa chạy - ngó nghiêng tìm kiếm - giọng nói to - nhanh thẻ hiện sự lo
lắng: Dê trắng ơi! bạn ở đâu - các bạn ơi, các bạn co thấy bạn Dê trắng của
tôi không?

7
Ví dụ2: Đoạn Lão địa chủ trong câu chuyện: Cây tre trăm đốt bị dính
vào cây tre: Mặt méo xệch, thở hổn hển, 2 tay chắp vái - chân quỳ đầu gối -
giọng hốt hoảng van xin
- Đối với cách di chuyển của các nhân vật trên sân khấu, giáo viên cũng
cần chú ý để hớng dẫn trẻ - Các nhân vật khi xuất hiện thì không nên đứng lâu
một chỗ mà phải di chuyển phối hợp với ngôn ngữ - cử chỉ điệu bộ sao cho hợp
lý; các nhân vật khi giao tiếp với nhau thì luôn vận động - đổi chỗ cho nhau
hoặc chuyển vị trí này sang vị trí khác. Khi giao tiếp phải nhìn vào mặt nhau.
Có ngời nói ngời nghe - không cớp lời của nhau - thờng xuyên giao lu với khán
giả.
3/ Sử dụng triệt để và có hiệu quả một số yếu tố phụ trợ:
Sau khi đã xây dựng hoàn thiện kịch bản - tổ chức cho trẻ tiếp xúc với
kịch bản và tiến hành luyện tập thì giáo viên phải chuẩn bị một số yếu tố cần
thiết để giúp cho vở kịch hay hơn - sinh động hơn và đạt tới đỉnh cao của sự
hoàn thiện đó là;
- Hoá trang: Có thể dùng bút, son, phấn để hoá trang khuôn mặt trẻ cho
thích hợp với vai trẻ đóng, nổi bật đặc điểm bên ngoài và tính cách của nhân vật
- Trang phục: Giáo viên cần chuẩn bị trang phục sao cho phù hợp với đặc
điểm tính cách của từng nhân vật. Tuy nhiên không nên quá cầu kỳ hoặc chú
trọng quá vào trang phục. Đối với những vở kịch biểu diễn trong tiết học - trong
các hoạt động góc - sinh hoạt chiều thì giáo viên chỉ cần chuẩn bị những
trang phục đơn giản: nh múa hoặc những đồ dùng mang tính chất tợng trng. Chỉ
khi biểu diễn trong các cuộc thi - các ngày lễ hội thì giáo viên cần chuẩn bị
trang phục đầy đủ, phù hợp với từng nhân vật: Mũ múa - mặt nạ, hình nộm
- Cảnh trí: Không nên trang trí quá loè loẹt, rờm rà. Cũng nh trang phục
chỉ trong các hoạt động lớn thì cảnh trí mới cần giống nh thật: Cây, núi, nhà
còn trong giờ học và các hoạt động khác thì chỉ cần miếng xốp cũng đã là tảng
đá, bảng đứng củng có thể là ngôi nhà - Chỉ cần trẻ yêu và ham thích hoạt động
đóng kịch thì tất cả trong trí tởng tợng của trẻ đều giống thật.

- Âm thanh: Âm thanh đợc sử dụng trong quá trình trẻ diễn kịch cũng
đem lại sự sinh động - cuốn hút đối với diễn viên cũng nh khán giả: Nhạc đệm
8
cho một bài hát, tiếng gà gáy - tiếng nớc chảy róc rách tất cả đều thật là hấp
dẫn khi đợc sử dụng trong quá trình trẻ diễn xuất.
Ngoài ra giáo viên cần chú ý cán bộ những đồ dùng cần thiết cho các vở
kịch: Cuốc, hái, đao. làm bằng bìa cứng để thuận lợi cho trẻ hoạt động.
- Tổ chức cho từng nhóm trẻ biểu diễn, mỗi lần nên cho 1 nhóm biểu diễn
có thể vào các thời điểm: Các cuộc thi, các ngày lễ hội, giờ vui chơi, giờ
LQTPVH, giờ chuẩn bị trả trẻ Cô giáo có thể chuẩn bị hoa tặng phẩm để tặng
cho các cháu sau mỗi lần biểu diễn. Động viên các cháu vỗ tay, khen ngợi các
bạn đợc biểu diễn tham gia các hoạt động đóng kịch.
Đây là biện pháp mang tính hỗ trợ nhng nếu thiếu nó thì vở kịch dù có
hay thế nào đi chăng nữa thì cũng thiếu sức hấp dẫn. Không gây đợc hứng thú
đói với trẻ. Có thể chúng ta phải chuẩn bị công phu - đẩy đủ cho các vở kịch
biểu diễn trong các ngày hội, các cuộc thi còn trong các hoạt động khác mặc dù
không nên quá chú trọng nhng cũng phải đảm bảo một số yêu cầu cơ bản để
gây hứng thú cho trẻ và giúp trẻ luôn luôn yêu thích và tự tin tham gia đóng
kich TPVH.
Trên đây là một số biện pháp mà trong quá trình một năm trãi nghiệm tôi
nhận thấy thực sự có hiệu quả - trẻ hứng thú - tự tin - ham thích và mong muốn
đợc tham gia đóng kịch, biết thể hiện ngôn ngữ mạch lạc, truyền cảm biết thể
hiện tính cách của các nhân vật thông qua cử chỉ, thái độ, điệu bộ, ánh mắt - nét
mặt Nói chung khi các biện pháp này đợc thực hiện trên trẻ thì đã giúp cho trẻ
hoàn thiện hơn về việc phát triển ngôn ngữ mạch kạc - trẻ tự tin hpn và thực sự
mong muốn đợc tham gia đóng kịch.
IV. kết quả sau khi áp dụng:
Qua 1 năm thực hiện trên trẻ 5 - 6 tuổi. Bản thân tôi đã nhận thấy trẻ đã
có những tiến bộ rõ rệt. Dạy trẻ đóng kịch đã giúp cho trẻ tự tin hơn, ngôn ngữ
trở nên trong sáng mạch lạc hơn rất nhiều, trẻ chủ động trong giao tiếp và trong

mọi hoạt động vui chơi và học tập.
Kết quả Số trẻ Kết quả
Cha thực nghiệm 36 40%
Đã thực nghiệm 36 80%
9
V - Bài học kinh nghiệm:
- Để hoạt động đóng kịch truyện kể TPVH đạt hiệu quả cao nhất, trớc hết
giáo viên phải cung cấp cho trẻ một lợng kiến thức nhất định: Tên chuyện, cốt
chuyện, tính cách các nhân vật.
- Chú trọng đầu t vào việc lựa chọn chuyển thể kịch bản, lựa chọn đợc tác
phẩm hay phù hợp với lứa tuổi - đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Chuyển thể khéo
léo - không làm thay đổi nội dung câu chuyện và tính cách nhân vật.
- Đầu t vào việc rèn luyện kỹ năng thể hiện ngôn ngữ và hành động - Giúp trẻ
tự tin trong việc thể hiện tính cách của các nhân vật - nhuần nhuyễn trong việc thể
hiện các thao tác - cử chỉ - điệu bộ - gây hứng thú đối với ngời xem.
- Động viên - khuyến khích trẻ kịp thời để trẻ hứng thú tham gia đóng kịch
- Cô phải có năng lực s phạm - yêu nghề - mến trẻ luôn chủ động - tìm tòi
- học hỏi - tìm ra những câu chuyện hay - những vở kịch hấp dẫn để thu hút sự
tham gia, hứng thu của trẻ để hoạt động đóng kịch thực sự lôi cuốn và hấp dẫn
đối với trẻ./.
Diễn Châu, ngày tháng năm 2007
ngời viết
Trần Thị Thuỷ
10

×