I.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục mầm non là nấc thang khởi đầu cho hệ thống quốc dân, trong đó
những thói quen vệ sinh và hành vi tạo nên nhân cách con người của trẻ, là con
đường giúp trẻ lớn lên và phát triển toàn diện. Trong những năm vừa qua, bậc
học mầm non được sự quan tâm và đầu tư của nhà nước, hệ thống giáo dục
mầm non theo chương chương trình đổi mới được thực hiện phủ khắp từ thành
thị đến thôn quê vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa. Bên cạnh những biện pháp
giúp cho trẻ phát triển toàn diện, lĩnh hội nội dung chương trình thông qua các
môn học thì vấn đề làm tôi quan tâm nhất là “Rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và
hành vi văn minh”. Công tác rèn cho trẻ thói quen vệ sinh cá nhân là việc làm
thiết thực nhằm giúp trẻ có nề nếp, thói quen vệ sinh, phòng tránh bệnh tật, tăng
cường sức khỏe, hình thành kỹ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn
nhân lực có chất lượng trong tương lai. Bên cạnh đó, phát triển cho trẻ các lĩnh
vực thẫm mỹ, nhận thức, ngôn ngữ, thể chất, tình cảm xã hội, thì vấn quan
trọng cần được quan tâm thường xuyên là làm sao cho trẻ phát triển hướng đến
hành vi văn minh của nhân loại, vấn đề hình thành thói quen vệ sinh của mỗi cá
thể trong cộng đồng. Vì trẻ em là nguồn nhân lực của đất nước, là người kế tục
của cha anh, là người gánh vác nhiệm vụ bảo vệ và phát triển đất nước nên
ngay từ nền móng ban đầu, trẻ phải được hưởng nền giáo dục phù hợp, hiện
đại và toàn diện về mọi mặt.
Đơn vị nơi tôi đang công tác là vùng đặc thù dân tộc thiểu số người đồng bào
êđê chiếm 94,1%, đa số phụ huynh của các cháu làm nghề nông và ở trong vùng
kinh tế khó khăn, ít tiếp xúc với cuộc sống bên ngoài và còn mang đậm tính địa
phương, phong tục tập quán nên rất ít cháu nhỏ được bố mẹ để ý đến vấn đề
rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
Đây chính là lí do thúc đẩy tôi chọn để tài để tìm ra “ Một số biện pháp rèn
cho trẻ 45 tuổi thói quen vệ sinh và hành vi văn minh tại trường Mầm non Bình
Minh Buôn Tuôr A Xã Dray Sap Huyện Krông Ana Tỉnh Đăklăk” giúp cho trẻ
1
có sự mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp của cuộc sống .
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
* Mục tiêu của đề tài.
Tìm ra phương phương pháp và biện pháp thích hợp để rèn cho trẻ thói quen
vệ sinh và hành vi văn minh, hình thành thói quen vệ sinh cá nhân, vệ sinh cộng
đồng và nếp sống văn minh có văn hóa.
Trẻ có hành vi văn minh lịch sự có văn hóa có thói quen vệ sinh tốt giúp cho
trẻ tự tin trong giao tiếp hằng ngày với những người xung quanh trẻ, đó chính là
tiền đề hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ trong tương lai.
* Nhiệm vụ của đề tài.
Nghiên cứu một số biện pháp và các hình thức tổ chức rèn thói quen vệ sinh
và hành vi văn minh cho trẻ, nhằm tạo điều kiên tốt nhất cho trẻ thông qua các
hoạt động trong một ngày ở trường của trẻ và mọi lúc mọi nơi, sau khi vận
dụng đề tài sẽ góp phần giúp cho trẻ nhận biết được những thói quen vệ sinh
đúng nơi quy định và những hành vi văn minh để hình thành nhân cách cho trẻ
giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp rèn cho trẻ 45 tuổi thói quen vệ sinh và hành vi văn minh
tại trường Mầm non Bình Minh Buôn Tuôr A Xã Dray Sap Huyện Krông Ana
Tỉnh Đăklăk.
4. Giới hạn của đề tài:
Trẻ 45 tuổi tại trường Mầm non Bình Minh Buôn Tuôr A Xã Đray Sáp
Huyện Krông Ana Tỉnh Đăklăk.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu tài liệu giáo dục học mầm non, tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm
non để hiểu đặc điểm phát triển từng giai đoạn của trẻ, từ đó đưa ra những
phương pháp phù hợp để rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ
45 tuổi.
Phương pháp thực nghiệm:
+ Giáo dục mọi lúc mọi nơi
2
+ Lồng ghép trong từng tiết học
+ Trong hoạt động vui chơi
Phương pháp đàm thoại quan sát thực hành
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Từ lúc lọt lòng đến 6 tuổi sự phát triển của trẻ chưa phải lĩnh hội tri thức
bằng con đường truyền thụ theo phương pháp nhà trường, mà trẻ tiếp nhận văn
hóa theo con đường cảm nhận qua sự chắt lọc ngấm dần tự nhiên từ chất người
trong cuộc sống hằng ngày. Những gì mà trẻ tiếp nhận là tình yêu thương giữa
con người với con người thông qua cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của trẻ theo
truyền thống gia đình.
Gia đình là môi trường văn hóa đầu tiên. Người mẹ đóng vai trò trung tâm và
quan trọng nhất. Bởi vậy trong môi trường mầm non cần tổ chức sao cho gần
giống với môi trường gia đình, ở đây cô là mẹ, các cháu là con. Nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề và nhiệm vụ của một giáo viên mầm non trong thực
trạng của trẻ hiện nay nên tôi đã chọn đề tài này để trình bày thực tế để tìm
biện pháp thực hiện và giáo dục cho trẻ.
Đới với trẻ mầm non, việc giáo dục ý thức vệ sinh cá nhân nhằm giúp cho
trẻ khỏe mạnh, có thói quen hành vi văn minh và phòng chống bệnh tật. Việc
làm này cần có sự kiên trì, tỉ mỉ của giáo viên, sự phối hợp rèn luyện thói quen
của trẻ, của gia đình, nhà trường, sự đầu tư trang thiết bị chăm sóc vệ sinh và
các điều kiện thuận tiện cho hoạt động vệ sinh của trẻ hàng ngày.
Tuy nhiên, để giáo dục cho trẻ các kỹ năng và thao tác vệ sinh cá nhân, giúp
trẻ nhớ hết các thao tác rửa tay, rửa mặt, chải răng… không phải là việc đơn
giản. Công việc này mất tương đối thời gian cho mỗi ngày. Nếu như không khéo
léo có thể sẽ làm ảnh hưởng đến các hoạt động khác. Đây là một hoạt động rất
quan trọng trong việc giữ gìn sức khỏe, phong tránh bệnh tật cho trẻ. Do đó, cần
nhắc nhở và giáo dục trẻ thực hiện thường xuyên và đều đặn.
Thói quen hành vi văn minh lịch sự là nền tảng đạo đức của mỗi con người,
là hành vi văn hóa. Ngay từ nhỏ trẻ phải được uống nắn từ cử chỉ lời nói ,hành
động văn minh thì lớn lên trẻ mới trở thành người có ích với chính bản thân, gia
đình và xã hội, trẻ phải biết tu dưỡng, rèn luyện từng ngày theo hướng tốt, nói
3
lời hay, ý đẹp, đi đứng nhẹ nhàng, cư xử với mọi người hòa nhã, niềm nở, lịch
sự. Biết chấp hành một số nội quy vệ sinh công cộng, với vệ sinh cá nhân thể
hiện được vẻ đẹp của một thế hệ thân thiện với môi trường, bảo vệ hành tinh
xanh.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
* Thực trạng trước khi nghiên cứu đề tài
Tình hình lớp chồi: Tổng số trẻ trong lớp: 34 trẻ; Dân tộc: 32; Nữ: 22; Nữ
dân tộc: 22.
Trong quá trình giảng dạy và tiếp xúc hằng ngày với trẻ lớp tôi. Tôi nhận
thấy trẻ lớp tôi thói quen vệ sinh tốt chưa được hình thành, hành vi ứng xử văn
minh có văn hóa với mọi người xung quanh còn nhiều hạn chế. Vì vậy mà tôi
luôn quan tâm và có kế hoạch giáo dục hình thành thói quen vệ sinh và hành vi
văn minh cho trẻ đơn giản và cơ bản nhất cho trẻ.
Trong thực tế khi thực hiện đề tài này tôi cũng gặp phải một số ưu điểm và
hạn chế sau:
* Ưu điểm:
Được sự quan tâm của của Phòng Giáo dục Đào tạo thường xuyên tạo điều
kiện cho giáo viên được trao dồi kiến thức tăng thêm sự hiểu biết và cập nhật
thông tin mới cũng như các vấn đề khác xoay quanh vấn đề chương trình chăm
sóc giáo dục trẻ mầm non. Ban giám hiệu nhà trường đã đầu tư về cơ sở vật
chất tương đối đầy đủ, đồ dùng đồ chơi sạch sẽ, đảm bảo an toàn cho trẻ.
Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, được sự tín nhiệm của quý
phụ huynh đã tin cậy gửi gắm con em mình đến trường, lớp.
Được sự trợ giúp của đồng nghiệp đặc biệt là những đồng nghiệp có kinh
nghiêm lâu năm trong công tác giảng dạy.
Trẻ được ăn ở bán trú tại trường nên cô có cơ hội tiếp xúc với mọi hoạt
động của trẻ để định hướng cho trẻ.
Bản thân yêu nghề, nhiệt tình trong công tác, trình độ đạt chuẩn và đang
theo học trình độ chuyên môn trên chuẩn để thuận lợi và năng cao chất lượng
giảng dạy.
Có khả năng định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động rèn cho trẻ thói
quen vệ sinh hành vi văn minh phù hợp với lứa tuổi trẻ.
* Hạn chế:
4
+ 94,1% trẻ trong lớp là con em người đồng bào dân tộc thiểu số, đến lớp
chưa thường xuyên
+ Đa số phụ huynh làm nghề nông nên chưa quan tâm đến việc đưa trẻ đến
trường thường xuyên.
+ Gia đình còn mang đậm tính phong tục tập quán của cộng đồng, vùng miền,
nên công tác hình thành cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cũng gặp
không ít khó khăn.
+ Một số phụ huynh lo làm ăn kinh tế nên chưa thực sự quan tâm đến việc
phối hợp cùng nhà trường, cùng cô giáo để phối hợp giáo dục trẻ.
+ Lối giáo dục sai phương pháp của phụ huynh: dùng bạo lực, áp đặt, cứng
nhắc…làm cho trẻ thụ động, không làm chủ bản thân.
Giáo viên vì không phải người bản địa nên không hiểu được hết tâm tư tình
cảm nguyện vọng của trẻ, do trẻ còn giao tiếp bằng ngôn ngữ địa phương
nhiều.
* Khảo Sát thực trạng ban đầu 34 trẻ trong lớp
Nội dung khảo sát
+ Số trẻ có hành vi ứng sử văn minh
Trước khi thực hiện
11/34 trẻ = 32,3%
( biết chào hỏi, cảm ơn, biết xin lỗi khi làm
điều sai, biết giúp đỡ bạn bè, thực hiện
nghiêm túc quy định giờ giấc của lớp….)
+ Số trẻ chưa hình thành được hành vi
12/34 trẻ = 35,3%
ứng xử văn minh
+ Số trẻ đã có được thói quen vệ sinh cơ
14/34 trẻ = 41,1%
bản( Tự Đánh răng, đi vệ sinh đúng nơi quy
định, cầm được thìa ăn cơm, tự mặc quần
áo, bỏ rác đúng nơi quy định, biết rữa tay
trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh…)
+ Số trẻ chưa có kỹ năng vệ sinh
15/34trẻ = 44,1%
* Các nguyên nhân chủ quan và khách quan.
+ Nguyên nhân chủ quan:
Đôi khi vẫn còn một số trẻ nhanh chán với việc tham gia vào các hình thức
tổ chức rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh, vốn tiếng việt của trẻ
5
còn hạn chế nên cũng gặp trở ngại
Những hành động đúng của trẻ trong giao tiếp hằng ngày cô chưa kịp thời
khen thưởng và tuyên dương trước lớp, chưa phân tích được vì sao đúng cho trẻ
hiểu được tính chất của sự việc
Trẻ còn nhút nhát trong các hoạt động, tiếp xúc với cô chưa thật sự gần gũi
với cô, một số trẻ còn cô lập với bạn với các trò chơi trong lớp.
Chưa nhận được sự đồng tình giúp đở, hợp tác từ phía phụ huynh.
Chính những tập tục, thói quen của sinh hoạt gia đình làm ảnh hưởng đến
quá trình thực hiện hình thành thói quen vệ sinh và hành vi văn minh của trẻ.
+ Nguyên nhân khách quan:
94,1% học sinh là con em người đồng bào dân tộc thiểu số, có đến 20% các
em mới đến trường, 60% trẻ nói tiếng mẹ đẻ, phát âm chưa chuẩn tiếng việt
40%, ngôn ngữ là khoảng cách khó khăn nhất trong giáo tiếp giữa cô với trẻ, có
một số vấn đề cô truyền đạt nhưng trẻ không hiểu hết ý nên chưa thục hiện
đúng yêu cầu.
Phụ huynh học sinh là cộng sự đắc lực nhất trong con đường giáo cho trẻ
nhưng đa số phụ huynh là lao động nghèo nên chưa quan tâm đến việc phối hợp
cùng nhà trường chăm sóc giáo dục trẻ.
Còn mang đậm tính tự do hoang dã của cộng đồng nên chưa có khái niệm
hình thành thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
3. Giải pháp và biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Thông qua các giải pháp, biện pháp để “Rèn thói quen vệ sinh hành vi văn
minh cho trẻ” góp phần hình thành cho trẻ một nhân cách tốt có những hành vi
đúng, từ đó trẻ sẽ trở thành một công dân tốt của xã hội, biết tránh nhiệm,
quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân Việt Nam. Là tiền đề để trẻ tự
khẳng định chính bản thân mình trong cuộc sống.
6
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
Biện pháp rèn thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ, để trẻ tích cực
hoạt động và nổ lực với những tác động của cô giáo đến trẻ. Để đạt được kết
quả cao nhất chúng ta cần phối hợp sử dụng các giải pháp, biện pháp sau:
* Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch và tạo môi trường để giáo dục thói
quen vệ sinh hành vi văn minh cho trẻ.
Muốn giáo dục trẻ có thói quen vệ sinh, hành vi văn minh không thể ngày
một ngày hai là hình thành được, việc tập cho trẻ thói quen đi vệ sinh đúng nơi
quy định không chỉ rèn cho trẻ tự lập, làm chủ hành vi của mình cũng như tập
cho trẻ tự phục vụ bản thân có nếp sống văn minh ngay từ nhỏ thì người giáo
viên cần phải lên kế hoạch cụ thể cho từng hoat động để hướng dẫn cho trẻ.
Trước tiên, giáo viên cần phải nắm được yêu cầu rèn luyện thói quen vệ
sinh và hành vi văn minh cho trẻ. Trẻ phải tự phục vụ bản thân, tự làm, tự học
hỏi lẫn nhau.
+ Sáng đến lớp trẻ phải biết chào hỏi cô giáo, bố mẹ cũng như anh chị lớn
tuổi hơn mình.
+ Trước khi vào lớp thì giày dép, mũ nón, cặp thì để ở nơi quy định.
+ Khi đi vệ sinh thì trẻ phải biết xin phép và đi đúng nơi quy định. Đi vệ sinh
ở đâu, đi xong thì cần phải làm gì?
Ví dụ: Khi trẻ đi vệ sinh xong trẻ phải biết bấm nút để xả cho sạch bồn vệ
sinh, sau khi đi vệ sinh xong thì lấy xà bông để rửa tay cho sạch, tránh vi khuẩn
còn bám ở tay.
+ Ra ngoài dạo chơi thì cần phải mang dép, đội mũ nón và không được chửi
thề cũng như đánh bạn hay các em nhỏ tuổi hơn mình.
Ví dụ: Khi phát hiện ra bạn hay nói tục chửi thề, cô liền gọi bạn nhỏ đó lại,
giáo dục trẻ cách nói chuyện như vậy là không tốt, không ngoan, chỉ những bạn
7
nhỏ hư mới như vậy thôi, nếu muốn được mọi người yêu mến thì mình phải là
đứa trẻ ngoan thì mới được cô cũng như các bạn quý mến.
+ Nên tập cho trẻ đi vệ sinh theo nhóm hoặc tổ, để dễ dàng quan sát và
hướng dẫn cách đi vệ sinh đúng nơi quy định.
Ví dụ : Khi cô cho cả lớp đi vệ sinh, đông trẻ quá cô sẽ không bao quát được
hết trẻ trong lớp đã thực hiện đúng hay chưa, có nhiều cháu không đi vệ sinh
đúng nơi quy định thì cô gọi riêng từng cháu lại và hướng dẫn cho cháu đi vệ
sinh đúng nơi quy định. Vì thế, cô giáo cần cho trẻ đi vệ sinh theo nhóm hoặc tổ
để đảm bảo trẻ đã đi đúng nơi quy định.
+ Trước khi đến giờ ăn, cô sẽ tập trung trẻ lại, cho trẻ xếp hàng và lần lượt
cho trẻ rửa tay dưới vòi nước sạch theo đúng 6 bước rửa tay trước khi vào phòng
ăn, khi trẻ rửa tay cô vừa hướng dẫn vừa giải thích cho trẻ nguyên nhân và tác
hại khi không giữ sạch cơ thể cũng như chân tay khi vào ăn cơm.
+ Trong giờ ăn tập cho trẻ ăn không được nói chuyện, không vứt đồ ăn xuống
dưới đất, không làm rơi vãi cơm hoặc múc cơm sang cho bạn bên cạnh. trước
khi ăn cơm phải biết mời người lớn cũng như anh chị và bạn bè.
+ Sau khi ăn cơm xong thì giúp cô cất ghế vào đúng nơi quy định cho gọn
gàng.
Không chỉ lên kế hoạch hướng dẫn cho trẻ mà còn phải thường xuyên cho
trẻ xem tranh ảnh, vì từ góc nhìn của trẻ về những hình ảnh xung quanh, trẻ
không chỉ có thể nhìn vào để học hỏi, mà trẻ còn muốn khám phá giống theo
hình ảnh của bức tranh đó.
+ Ví dụ: Trong lớp cô có treo 1 bức tranh về cách hướng dẫn rủa mặt theo 4
bước, trẻ tò mò thì trẻ sẽ hỏi lại cô, cô sẽ hướng dẫn từng thao tác giống như
trong bức tranh và cho trẻ thực hành.
* Biện pháp 2: Biện pháp cung cấp đầy đủ vật chất trang thiết bị và
phương tiện cần thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những
8
quy định về vệ sinh:
Muốn thực hiện được nội quy vệ sinh đúng quy định thì cần phải có đầy đủ
cơ sở vật chất và phương tiện để trẻ thực hiện.
Nhà trường cung cấp đầy đủ đồ dùng, dụng cụ cá nhân cho trẻ, yêu cầu đồ
dùng của trẻ đều phải có kí hiệu riêng để trẻ nhận biết và lấy đồ dùng đúng với
cá nhân của mình.
+ Ví dụ: Ly hoặc khăn rửa mặt của mỗi trẻ đều có kí hiệu như nhau, khi
uống nước hoặc lau mặt thì trẻ sẽ sử dụng đúng đồ dùng của mình mà không bị
nhầm lẫn đồ dùng của nhau.
Muốn trẻ đi vệ sinh đúng nơi quy định thì nhà vệ sinh cần phải có những
bồn vệ sinh cũng như bồn rửa tay rửa mặt đúng với tầm của trẻ.
+ Ví dụ: Cô giáo hướng dẫn trẻ rửa tay đúng quy trình theo đúng 6 bước cơ
bản thì phải có đủ vòi nước sạch cho trẻ, có xà phòng rửa tay, giáo dục trẻ phải
rữa tay bằng xà phòng thì trong nhà vệ sinh. Yêu cầu trẻ muốn đi vệ sinh phải
xin phép cô và đi vệ sinh đúng nơi quy định.
Cung cấp đầy đủ đồ dùng đồ chơi để cho trẻ được trải nghiệm và thực
hành, trẻ học qua những lý thuyết mà giáo viên hướng dẫn, thì với trẻ việc trẻ
thực hành là điều tất yếu nhất, chính vì thế không những đồ dùng về vệ sinh cho
trẻ mà còn đồ dùng cho trẻ được trực tiếp tiếp xúc qua những hành vi của mình,
để từ đó cô sữa sai cho trẻ.
+ Ví dụ: Cô cho trẻ chơi ở các góc, mỗi góc có mỗi đồ dùng đồ chơi khác
nhau, nhiều trẻ từ góc này mà qua góc kia tranh đồ chơi của bạn và lấy đồ chơi
của bạn mang về góc chơi của mình, trong khi tranh giành đồ chơi trẻ sẽ có thể
gây xô xát với nhau hoặc nói ra những câu chửi thề, chính những lúc này cô giáo
có thể sửa sai cho trẻ và giáo dục trẻ, nếu muốn chơi những đồ chơi của bạn thì
phải sang thỏa thuận nhẹ nhàng với bạn để hai bạn cùng nhau đổi vị trí và góc
chơi cho nhau.
9
* Biện pháp 3: Biện pháp hướng dẫn ( làm mẫu) và làm gương cho trẻ
noi theo đúng trình tự trong quá trình hình thành thói quen vệ sinh và hành vi
văn minh cho trẻ .
Cô giáo cần phải hướng dẫn cho trẻ biết những yêu cầu cần thiết của từng
thói quen vệ sinh tốt và tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu. Vì khả
năng tiếp thu của trẻ còn hạn chế, khả năng quan sát ghi nhớ có chủ đích đã
hình thành nhưng chưa duy trì bền vững nên lời hướng dẫn của cô phải: rõ ràng,
chính xác, dễ hiểu.
Đối với những việc có thể làm mẫu được thì cô nên làm mẫu thực tế cho
trẻ quan sát hoặc cô có thể tập trước cho 1 trẻ thành thạo động tác rồi làm mẫu
cho các bạn khác.
+ Ví dụ: Cô cho trẻ đi rửa tay thì cô phải thực hiện thao tác rửa tay theo 6
bước, khi rửa thì vừa làm vừa nói các bước rửa tay và yêu cầu trẻ làm theo.
Cô nhắc nhở các cháu làm thường xuyên vì muốn hình thành một thói quen
nào đó ngoài việc cho trẻ hiểu được ý nghĩa, có kỹ năng cần phải cho trẻ thực
hiện thường xuyên, có như vậy mới ăn sâu vào nếp sống của trẻ và hành động
sẽ trở thành thói quen khi nhu cầu xuất phát từ bên trong của đứa trẻ
+ Ví dụ: Trẻ cảm thấy xấu hổ khi phải mặc quần áo bẩn đến trường.
Các cháu ở lớp mẫu giáo bán trú có cả một thời gian dài ở lớp, nếu cô sắp
xếp gọn gàng, sạch sẽ mọi đồ vật cảnh trí của lớp làm cho lớp học có không khí
vui tươi, đầm ấm dễ chịu, gần gủi yêu thương. Tất cả những điều này để lại
dấu ấn và ảnh hưởng rất lớn đến trẻ sau này. Dần dần hình thành cho trẻ thói
quen xuất phát từ ý thức bên trong như: trẻ không nỡ đi dép vào lớp khi cô vừ lau
xong sàn nhà, không làm lộn xộn tủ đồ khi cô vừa sắp xếp ngăn nắp. Nếu hằng
ngày cô thực hiện nghiên túc thời gian biểu thì cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào
việc đó. Những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ hình thành thói
quen tốt.
10
Sự gương mẫu của mọi người xung quanh đặc biệt là người mẹ và cô giáo
là 2 người ở vị trí trung tâm vì tiếp xúc với trẻ nhiều nhất, với bản chất của trẻ
là thích bắt chước, thích làm người lớn nên trẻ sẽ học theo những cái đúng, đều
tôt, Tất nhiên là cả những hành động không đúng và xấu xa. Nên là những người
lớn xung quanh trẻ đạc biệt là mẹ và cô giáo cần phải tự rèn bản thân và tuân
thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triêt để lời nói phải đi đôi
với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo
* Biện pháp 4: Biện pháp rèn luyện kỹ năng các thao tác thực hành cho
trẻ thông qua các hoạt động trong ngày ( mọi lúc mọi nơi)
* Ngoài những thói quen của bản thân thì cô cần rèn cho trẻ có những kỹ năng
về thói quen cơ bản sau:
Trẻ tự rửa mặt, đánh răng sau khi ngủ dậy, rửa tay sau khi đi vệ sinh và
trước khi vào bữa ăn
Ví dụ: Khi trẻ đi vệ sinh xong, cô hướng dẫn trẻ rửa tay, trong những tiết học
hoặc hoạt động ngoài trời cô trò chuyện:
+ “ Trước khi đi ngủ thì chúng ta cần phải làm gì để cho răng miệng sạch
nhỉ?”
+ “Vậy buổi sáng thức dậy chúng ta phải làm gì rồi mới ăn sáng để đến
trường”
Giáo viên lặp đi lặp lại nhiều lần nhắc nhở trẻ và thực hiện ngay tại lớp
những nhu cầu mà trẻ cần đến như: rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.
Có ý thức giữ vệ nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không nhổ bậy,
không vứt rác ra lớp học cũng như nơi công cộng,biết sử dụng nước sạch, tiết
kiệm nhiên vật liệu….
Trẻ tự biết tự mặc quần áo, yêu cầu người lớn phải măt cho mình trang
phục sạch sẽ gọn gàng.
11
Biết giúp cô gấp, trải nệm, biết cất giọn đồ chơi cùng cô và các bạn sau khi
đã hết giờ chơi hoặc xếp lại giá đồ chơi ngăn nắp trong giờ hoạt động chiều.
Biết đội mũ khi ra trời nắng, mặc áo mưa khi đi trời mưa. Mùa lạnh thì mặc
áo ấm…..
* Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc những quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp
sống văn minh, các kỹ năng cần rèn cho trẻ:
Biết giúp cô lau bàn sau khi ăn xong,biết giúp cô phơi khăn, nhặc rác rơi vãi
trên sàn nhà
Biết lấy tay che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi….
Cô hướng dẫn cho trẻ biết cách chào hỏi cô khi đến lớp và chào mẹ để mẹ
ra về, hướng dẫn trẻ bỏ dép lên giá dép, móc mủ lên giá, mang dép đúng chân
của mình và biết chào hỏi các thầy cô giáo trong nhà trường.
+ Ví dụ: Khi đón trẻ cô nhắc trẻ chào cô, chào mẹ, khi có khách đến lớp cô
mời lớp đứng dậy chào bất kì cô nào vào lớp.
Trong giờ ăn: Dạy trẻ rữa tay sạch trước khi ăn, đánh răng sau khi ăn song
để đi ngủ, mời người lớn trước khi ăn, cầm thìa bằng tay phải, ăn phải nhai từ
tốn, không nói chuyện phun cơm mất vệ sinh chung, không ngậm cơm, nhặt
cơm rơi bỏ vào đĩa riêng
+ Ví dụ: Khi chia cơm cho trẻ xong cô nói “ Lớp chúng mình cùng mời các
cô, các sơr ăn cơm”. Khi trẻ làm rơi cơm ra ngoài cô đến nhắc nhở và yêu cầu
trẻ nhặc cơm bỏ vào đĩa riêng
Khi xếp hàng đi vệ sinh thì phải biết tuân thủ quy tắc bạn nào đến trước thì
đi trước bạn nào đến sau thì đi sau không chen lấn nhau.
+ Ví dụ: khi trẻ đi vệ sinh cô đi theo hướng dẫn và nói cho trẻ biết “ bạn nào
đứng đầu thì đi vào nhà vệ sinh trước đến bạn tiếp theo đi từ từ không chen lấn
nhau làm bạn ngã.
12
Với bạn bè thì nhường nhịn bạn khi chơi cùng nhau không đánh nhau cãi vả,
bắt nạt bạn nhỏ hơn yếu đuối
+ Ví dụ : khi trẻ tham gia chơi hoạt động góc cô đến góc chơi gợi ý cho trẻ
thỏa thuận chọn vai chơi mà mình thích nếu 2 3 bạn cùng thích vào vai tài xế thì
các con phải chơi theo thứ tự bạn này chơi xong đến bạn khi không cãi nhau,
nếu bạn nào tranh dành đồ chơi thì cô sẽ không thưởng hoa bé ngoan cuối tuần
Với thiên nhiên môi trường: Biết yêu quý bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên,
không hái hoa, ngắt lá, bẻ cành của cây hoa ở trường, chăm nhổ cỏ, tưới hoa
+ Ví dụ: Khi cô cho trẻ cùng tưới hoa với cô vào buổi sáng cô trò chuyện “ đố
các bạn cô tưới cây, tưới hoa để làm gì??( để cây ra hoa, cây cho bóng mát) vậy
khi cây ra hoa chúng ta có hái hoa không( dạ ! không hái ), Vậy khi ra chơi chúng
ta có bẻ cành cây xanh trong vườn không? Vì sao?( Không nên, vì cây cho ta bóng
mát)
Trong hoạt động góc: Dạy trẻ biết rữa chén, dọn dẹp nhà cửa ở trò chơi gia
đình, mời chào khách niềm nở với khách đến gian hàng mua đồ.
+ Ví dụ: Cô đến góc gia đình hỏi trẻ “gia đình mình ăn cơm chưa vậy ? ăn
xong rồi thì cần phải làm gì để có chén bát sạch cho buổi chiều nhỉ? Mẹ hãy rửa
chén và úp chén cho ráo nước đi nào!”
Trong giờ tạo hình: Dạy trẻ ngồi đúng vị trí, đúng tư thế, không gây ồn ào,
Sắp xếp lại hộp bút màu võ tạo hình cho ngăn nắp vào góc học tập
Giờ trả trẻ: Cô trao đổi với phụ huynh về tình hình trẻ được rèn thói quen
vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ ở nhà.
* Biện pháp 5: Biện pháp lồng ghép thơ ca, câu chuyện, bài hát, trò chơi
để giáo dục thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
Do đặc điểm của trẻ chóng nhớ nhưng rất mau quên, bên cạnh đó còn phải
hình thành cho trẻ nhớ lâu và nhớ chính xác. Do vậy cần đỏi hỏi cô giáo không
những phải thực hiện đầy đủ, đúng quy định mà con biết kết hợp dạy trẻ trong
13
các hoạt động khác.
+ Ví dụ: Khi trẻ vui chơi và nghịch bẩn, giờ ăn đến rồi, tay sẽ không còn
sạch nữa, vi khuẩn rất nhiều ở tay, nên phải làm gì để tay và cơ thể luôn được
sạch sẽ và được mọi người yêu quý, ăn cơm sẽ có cảm giác ngon hơn thì trẻ
được cô giáo cho đọc bài thơ “ bé ơi nhớ nhé” hoặc câu chuyện nói về cách hành
xử văn minh của trẻ nhỏ, từ đó giáo dục trẻ biết cách cư xử đúng mực, biết lễ
phép, ngoan ngoãn để những người xung quanh yêu thương và khen ngợi.
Thông qua những trò chơi từ vận động đến dân gian, lồng ghép giáo dục trẻ
biết cách cư xử về hành vi của bản thân đối với bạn bè và những người xung
quanh.
+ Ví dụ: Trò chơi con muỗi, con muỗi bay vo ve, muỗi chít cái miệng hay nói
chuyện, chít cái tay hay đánh bạn, chít cái chân hay la cà… khi cho trẻ chơi xong
kết hợp giáo dục về những hành vi không tốt của bản thân hoặc của bạn bè và
hướng trẻ đến những hành vi văn minh lịch sự hơn.
* Biện pháp 6: Biện pháp phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với phụ
huynh.
Muốn giáo dục trẻ và hướng trẻ đi đúng theo phương hướng và mục đích của
đề tài đặt ra thì nhà trường và gia đình phải thống nhất yêu cầu giáo dục thói
quen vệ sinh và hành vi văn minh đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên phải thông
báo, yêu cầu, biện pháp giáo dục cho phụ huynh biết, yêu cầu sự giúp đỡ và cho
biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ, giáo
viên phải làm tốt công tác tuyên truyền để các bậc phụ huynh nhận thức đầy đủ
về ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc giữ vệ sinh cá nhân cũng như rèn cho trẻ
những đức tính tốt, hành vi cư xử cũng như ứng xử thân thiện, nhẹ nhàng, lẽ
phép.
+ Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về tình hình của cháu Kđôna về việc
cháu không biết đi vệ sinh đúng nơi quy định, cháu đau bụng không biết xin phép
14
cô để ra ngồi bô đi vệ sinh, cháu còn vệ sinh ra quần, nên cô giáo là người trực
tiếp trao đổi với phụ huynh về cách hướng dẫn cho trẻ khi buồn đi vệ sinh phải
xin phép người lớn và ra bô đi vệ sinh, khi đi vệ sinh xong hướng dẫn cho trẻ
cần giáy và lau chùi sạch sẽ, sau khi lau chùi xong thì trẻ sẽ rửa tay với xà bông
ở vòi nước sạch để giữ vệ sinh cá nhân luôn được sạch sẽ. Cô theo giỏi sự biểu
hiện của cháu ở lớp thì thấy cháu đã thực hiện tốt và trao đổi lại với phụ huynh
để tiếp tục phát huy cho cháu.
c. Mối liên hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Để rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh thì cần phối hợp nhiều
giải pháp, biện pháp với nhau. Những giải pháp, biện pháp được nêu trong đề tài
có mối quan hệ khăng khít và hỗ trợ cho nhau, có sự lôgic, xâu chuỗi với nhau.
Biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh trong các hoạt động
hằng ngày trên lớp của trẻ, biện pháp phối hợp giữa gia đình và nhà trường,
Biện pháp làm gương cho trể noi theo sẽ hỗ trợ cho các biện pháp khác. Các
biện pháp trên hỗ trợ qua lại chặt chẽ với nhau đã tạo nên những giải pháp tốt
nhằm làm cho trẻ có môi trường rèn thói quen vệ sinh hành vi văn minh cho trẻ
đạt hiệu quả cao hơn. Bởi lẽ khi thực hiện các biện pháp trên có nghĩa là phải
thực hiện xuyên suốt vào hệ thống hoạt động của 1 ngày của trẻ nên trẻ luôn
luôn được sống trong môi trường có sự giáo dục đinh hướng của giáo viên. Nên
các biện pháp luôn luôn có sự tương tác hỗ trợ và đang xen lẫn nhau.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
* Kết quả khảo nghiệm:
Qua thực tế trẻ lớp chồi 2 ở trường Mầm non Bình Minh thuộc Buôn Tuôr
A, xã DraySap, tôi đã áp dụng những kiến thức mà các thầy cô đã truyền đạt,
cộng với sự học hỏi khinh nghiệm của đồng nghiệp vào quá trình thực nghiệm “
Một số biện pháp rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ 45
tuổi lớp chồi 2 trường Mầm non Bình Minh Buôn Tuôr A Xã Dray Sáp Huyện
15
Krông Ana Tỉnh Đăklăk” đã thu được kết quả như sau:
Nội dung khảo sát
+ Số trẻ có hành vi ứng sử văn
minh ( biết chào hỏi, Cảm ơn,
biết xin lỗi khi làm điều sai, biết
giúp đỡ bạn bè, thực hiện nghiêm
túc quy định giờ giấc của lớp….)
+ Số trẻ chưa hình thành được
hành vi ứng xử văn minh
+ Số trẻ đã có được thói quen
vệ sinh cơ bản( Tự Đánh răng, đi
vệ sinh đúng nơi quy định, cầm
được thìa ăn cơm, tự mặc quần
áo, bỏ rác đúng nơi quy định, biết
rữa tay trước khi ăn và sau khi đi
vệ sinh…)
+ Số trẻ chưa có kỹ năng vệ
sinh
Trước khi
thực hiện
Sau khi
thực hiện
Tăng/ Giảm
15/34 trẻ =
28/34 trẻ =
82%
Tăng 37,9%
5/34 trẻ =
15%
Giảm 20,3%
30/34 trẻ =
88%
Tăng 35%
8/34 trẻ
=23,5%
Giảm 38%
44,1%
12/34 trẻ =
35,3%
18/34 trẻ =
53%
16/26 trẻ =
61.5%
Kết quả thu được từ kết quả khảo nghiệm đã có những giá trị khoa học
mang lại khi thực hiện đề tài hết sức quan trọng và khả quan đó là:
+ Có những hành vi văn minh, tác phong điềm tĩnh, cách ứng xử đẹp trong
đời sống hằng ngày của trẻ và hình thành những thói quen vệ sinh tốt cho trẻ
+ Qua thời gian rèn luyện đúng phương pháp, phương hướng, đã hình thành
được cho trẻ cách nghĩ cách làm đúng phù hợp theo lứa tuổi . Đó cũng là tiền đề
quan trọng cho việc phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
+ Phụ huynh biết kếp hợp cùng cô để rèn luyện thêm cho cháu ở nhà về các
khâu vệ sinh đúng nơi quy định cũng như các hành vi ứng xử văn minh của mình
ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt cũng như trong cuộc sống của trẻ để hình
thành thói quen cho trẻ được tốt hơn.
+ Giáo viên ngày càng rút ra nhiều bài học kinh nghiệm cho chính bản thân khi
thực hiện đề tài.
16
Chọn được những phương pháp phù hợp với lứa tuổi, phù hợp với chủ
điểm chủ đề. Nội dung mang tính vừa sức với nhận thức của trẻ mẫu giáo nhỡ
người dân tộc thiểu số. Không nên chọn hoạt động đưa ra yêu cầu quá cao,
phương pháp rèn luyện cho trẻ phải sáng tạo ngày càng phát triển để thu hút trẻ
tham gia.
Cần phải học hỏi, sáng tạo trong các hoạt động dạy. Thường xuyên học hỏi
bạn bè, đồng nghiệp để nâng cao chuyên môn trong giảng dạy.
Lựa chọn vật liệu để tạo ra một số đồ dùng đồ chơi cho trẻ đẹp mắt, có
sáng tạo, có độ bền phù hợp với hoạt động dạy cho trẻ.
Cô giáo gần gũi, yêu thương, lắng nghe giải bày của trẻ là phương tiện hữu
hiệu nhất trong đề tài này trên thực tế đã chứng minh được điều đó
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận :
Bậc giáo dục mầm non là một bậc học đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp
đào tạo là cơ sở hình thành và phát triển con người. Chính vì vậy là một giáo
viên mầm non luôn cần có phẩm chất đạo đức, lối sống, tư tưởng, lập trường
vững vàng luôn luôn “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí minh”.
Luôn bồi dưỡng trao dồi kiến thức để tìm ra những biện pháp,giải pháp rèn cho
trẻ có thói quen vệ sinh và hành vi văn minh. Với tôi trẻ đến trường không
những chỉ để học những kiến thức mà các môn học mang lại bên cạnh đó còn
học kỹ năng sống, học cách làm người tốt cho xã hội, cho chính bản thân mình
Rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh là quá trình tổng hợp giáo
dục các hoạt động từ vui chơi giải trí, học tập, sinh hoạt tập thể, sinh hoạt cá
nhân. Nhằm làm cho trẻ luôn có tự tin mạnh dạn khi tham gia vào các hoạt động
sống sau này của trẻ vì trẻ đã có một nền tảng vững chắc về hình thành nhân
cách cho trẻ.
Việc rèn cho trẻ thói quen vệ sinh – hành vi văn minh đối với trẻ mầm non
17
vùng dân tộc tiểu số như một cánh của mở ra hướng đến sự văn minh chung của
xã hội. Nên mỗi giáo viên không chỉ rèn cho trẻ tốt qua các tiết học, các hoạt
động của trẻ mà bên cạnh đó phải rèn luyện bản thân để có trình độ chuyên môn
dạy tốt, mang tri thức thắp sáng thế hệ mầm non, phấn đấu tất cả vì tương lai
cho trẻ thơ
2. Kiến nghị :
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi thấy còn có một số vấn đề gây trở ngại.
Do vậy, bản thân tôi có một số kiến nghị như sau:
+ Cần tăng cường cơ sở vật chất, ngoài ra cần đầu tư trang thiết bị dạy học
như: Máy tính, máy chiếu giảng dạy trẻ để giáo viên thực hiện tốt phương pháp
đổi mới trong công tác giảng dạy, gây sự hứng thú của trẻ, hiệu quả học tập
cũng như đều kiện vui chơi thích nghi cho trẻ tốt đạt chất lượng.
+ Nhà trường kết hợp cùng chuyên môn tạo điều kiện tổ chức cho giáo viên
được tham gia các lớp tập huấn ngoại khóa về vấn để rèn thói quen vệ sinh và
hành vi văn minh cho trẻ
Trên đây là một số kiến nghị cần cho một quá trình hình thành nh ững thói
quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ. Tôi rất mong được sự ủng hộ của các
đồng nghiệp và của các cấp lãnh đạo.
Dray Sap, Ngày 22 tháng 2 năm 2018
Người viết
Phạm Thị Ngọc Hân
18
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình giáo dục mầm non – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
2. Giáo trình giáo dục học mâm non (Nguyễn Thị Hòa).
3. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non
4. Một số tài liệu trang internet “Mầm non.com.vn”
5. Một số tài liệu của đồng nghiệp
6. Những sáng kiến chọn lọc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
20
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trang 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Trang 2
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giới hạn của đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu
Trang 2
Trang 2
Trang 2
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Trang 3
2. Thực trạng
Trang 4
a. Ưu điểm , hạn chế
b. Các nguyên nhân , các yếu tố tác động. Trang 6
3. Các giải pháp , biện pháp Trang 7
a. Mục tiêu của giải pháp ,biện pháp
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp , biện pháp
c. Mối quan hệ giữa giải pháp , biện pháp
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề,
phạm vi và hiệu quả ứng dụng. Trang 17
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
III. 1. Kết luận Trang 18
III.2. Kiến nghị
Trang 19
21
22