Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo tại trường mầm non Hoa Cúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.95 KB, 21 trang )

MỤC LỤC 
I. PHẦN MỞ ĐẦU:..........................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài :........................................................................................2
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:..................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu:.................................................................................3
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:....................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu:...........................................................................4
II. PHẦN NỘI DUNG:.....................................................................................4
1. Cơ sở lý luận:................................................................................................4
2.Thực trạng:....................................................................................................5
2.1 Thuận lợi­ khó khăn:....................................................................................6
2.2 Thành công­ hạn chế:...................................................................................7
2.3 Mặt mạnh­ mặt yếu:....................................................................................7
2.4Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: …………………………………….7
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra:.............8
3. Giải pháp, biện pháp:..................................................................................9
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:.............................................................9
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:.............................10
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:.................................................15
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:...............................................16
3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:..............16
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên 
cứu:.....................................................................................................................17
III. Phần kết luận, kiến nghị:........................................................................17
1. Kết luận:.......................................................................................................17
1


2. Kiến nghị:......................................................................................................19

 I. PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của  
giáo dục mầm non. Ngôn ngữ  là công cụ  để  trẻ  giao tiếp, học tập và vui chơi.  
Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn 
ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển 
về đạo đức, tư  duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá. Phát triển ngôn  
ngữ cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác giáo dục toàn diện cho trẻ. 
Ở lứa tuổi Mầm non, văn học là một môn nghệ  thuật, văn học xây dựng nên 
những tác phẩm phản ánh cuộc sống và những tình cảm hết sức đa dạng, phong 
phú của con người. Văn học là phương tiện hiệu quả  góp phần phát triển nhân  
cách trẻ một cách toàn diện. Văn học được giáo viên Mầm non sử dụng một cách 
có mục đích, phù hợp, sáng tạo sẽ  giúp trẻ  thu nhận kinh nghiệm tích cực và tạo 
cảm giác hưng phấn, vui tươi. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp  
dẫn trẻ. Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học là con đường phát 
triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất.
Văn học là một môn học độc lập của trẻ  trước tuổi. Nó giúp trẻ  nắm được  
một số  khái niệm sơ  đẳng về  hình tượng các nhân vật. Nếu cảm nhận các tác 
phẩm văn học tốt sẽ  giúp trẻ cảm thụ, thể hiện tác phẩm văn học hiệu quả  hơn.  
Ngoài ra giáo viên mầm non sử  dụng các thể  loại truyện kể  để   ổn định lớp, vào 
bài, chuyển tiếp tác phẩm, trong giờ học hoặc chuyển từ hoạt động này sang hoạt  
động khác tạo sự hứng thú, thư giãn, gây sự chú ý cho trẻ.
Đối với trẻ  mầm non nói chung và trẻ  5 ­ 6 tuổi nói riêng, trẻ  rất nhạy cảm  
với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng dao, ca dao, 
dân ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt 
hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy cho trẻ  tiếp xúc với văn học và đặc biệt là hoạt động 
dạy trẻ  kể  chuyện sáng tạo là con đường phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  tốt nhất, 
hiệu quả  nhất.  Ở  giai đoạn này, cảm nhận thẩm mĩ đã có một bước phát triển  
2



trong tiếp nhận văn học. Sự tiếp nhận tác phẩm đầy đủ hoàn thiện hơn, biểu hiện 
trước tiên là sự  hiểu biết những câu chuyện cổ tích, bài thơ, những đoạn văn xuôi 
hay và sự làm giàu tình cảm qua quá trình tích lũy hình tượng nghệ thuật.
Đối với trẻ  mẫu giáo lớn thì sự  quan tâm tới tác phẩm văn học sẽ  giúp trẻ 
hiểu được nội dung tác phẩm, các nhân vật trong tác phẩm trở nên gần gũi dễ hiểu  
hơn. Sự  cảm thông với nhân vật, sự  lo lắng cho số  phận của nhân vật của trẻ  đã 
mang đặc điểm cá tính hơn. Sự hồi hộp, lo lắng này của trẻ  em đã nếm trải ngay 
cả trong sự kiện đời sống hàng ngày.
Thông qua việc trẻ kể chuyện sáng tạo giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc 
tưởng tượng sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện,  
ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ 
biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể  về  một sự  vật hay sự  kiện nào đó bằng chính  
ngôn ngữ của trẻ.
Là giáo viên dạy trẻ  mầm non 5 ­ 6 tuổi tôi đã nhận thức rõ được tầm quan  
trọng của việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ. Đặc biệt là thông qua hoạt động kể 
chuyện sáng tạo. Từ đó tôi đã đi sâu nghiên cứu và tìm ra " Một số biện pháp phát  
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non 5 ­ 6 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện 
sáng tạo tại trường mầm non Hoa Cúc". Hy vọng với đề tài nghiên cứu này tôi sẽ 
tìm ra giải pháp tốt nhất trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng  
tạo nhằm giúp trẻ  tích lũy và mở  rộng vốn từ  phong phú, đa dạng, giúp trẻ  diễn 
đạt rõ ràng, mạch lạc, là điều kiện tốt để trẻ học đọc sau này.
Trẻ  mạnh dạn, tự  tin trong giao tiếp thích trò chuyện với những người xung  
quanh, thích đưa ra những câu hỏi và trả lời rõ ràng, mạch lạc
Giáo viên có kinh nghiệm hơn trong việc tổ chức dạy trẻ kể chuyện sáng tạo
3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp sư phạm nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
3



Khuôn khổ nghiên cứu: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ.
Đối tượng khảo sát: Học sinh mầm non 5­6 tuổi lớp lá 2, trường mầm non  
Hoa Cúc Thị trấn Buôn Trấp, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk.
Thời gian nghiên cứu: Năm học 2015­ 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp khảo sát
Qua khảo sát thực tế tại lớp tôi chủ nhiệm ở lớp Lá 2 với số lượng là 34 trẻ.  
Tôi đã khảo sát trên trẻ  các mặt như: kể  diễn cảm, phát triển ngôn ngữ, diễn đạt 
tốt, phát âm rõ ràng mạch lạc, tích cực tham gia vào hoạt động môn làm quen văn 
học, hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo, biết thể hiện ngôn ngữ hoàn cảnh (kể 
chuyện sáng tạo), khả năng diễn xuất hoạt cảnh, đóng kịch.
Kết quả cụ thể như sau:
Khi chưa áp dụng 
hình thức đổi mới

Tỉ lệ

Kể diễn cảm

15/34

44,1 %

Phát triển ngôn ngữ, diễn đạt tốt

18/34

52,9 %


Phát âm rõ ràng mạch lạc

23/34

67,6 %

Tích cực tham gia vào hoạt động môn 
làm quen văn học

24/34

70,6 %

Hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo

13/34

38,2 %

Biết thể  hiện ngôn ngữ  hoàn cảnh (kể 
chuyện sáng tạo)

9/34

26,5 %

Khả   năng   diễn   xuất   hoạt   cảnh,   đóng 
kịch


10/34

29,4 %

Nội dung

b. Phương pháp quan sát, đàm thoại
Tôi đã dùng phương pháp quan sát và đàm thoại với trẻ  một số  câu hỏi xem 
trẻ trả lời như thế nào, đặc điểm phát triển ngôn ngữ trẻ như thế nào.
4


Ví dụ: Con có thích câu chuyện cáo, thỏ và gà trống không? Tại sao? Con thích 
nhất nhân vật nào? Con có thể  kể  tóm tắt câu chuyện cho cô nghe được không? 
Hoặc trong giờ hoạt động góc trẻ chơi góc bác sĩ, trẻ  bế  búp bê giả  vờ  khám cho 
búp bê, cô có thể đến bên cạnh trẻ hỏi trẻ đang làm gì, và kể cho cô nghe búp bê bị 
bệnh gì, hoặc đang khám bệnh cho cô giáo....Cô lắng nghe và hướng dẫn trẻ  kể 
câu chuyện trẻ muốn kể một cách sáng tạo giúp kích thích sự sáng tạo và trí tưởng  
tượng của trẻ.
c. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Trước tiên tôi lập thư mục thống kê các sách báo, tài liệu liên quan đến đề tài 
nghiên cứu về  sự  phát triển ngôn ngữ  trẻ  mẫu giáo 5­6 tuổi thông qua hoạt động  
dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Trẻ 5­ 6 tuổi sử dụng lượng lớn ngôn ngữ và vận dụng linh hoạt vào giao tiếp  
và vận dụng từ ngữ chính xác hơn. Trẻ sử dụng ngữ pháp phức tạp hơn, chính xác  
hơn. Trẻ  thể  hiện bản thân với tông giọng khác nhau. Khả  năng nói trình bày ý 
nghĩa, hiểu ngôn ngữ hoàn cảnh của trẻ cũng đã phát triển hơn.
Các nhân vật trong những câu chuyện mở  ra cho trẻ  một tầm nhìn về  cuộc 

sống với xã hội và thiên nhiên, các mối quan hệ qua lại của con người. Những câu 
từ diễn tả tính cách của nhân vật đã giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác 
của từ ngữ trong tác phẩm văn học.
Ở  trường mầm non phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  là nhiệm vụ  hết sức quan  
trọng. Giáo viên cần phải khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông  
qua cách đọc kể  diễn cảm, cao hơn nữa là biết dùng ngôn ngữ  của mình để  kể 
chuyện sáng tạo. Đây là một nhiệm vụ rất phức tạp, yêu cầu khi kể  chuyện sáng 
tạo trẻ  phải tự  nghĩ ra một nội dung câu chuyện, tạo ra cấu trúc logic được thể 
hiện trong hình thức nói tương  ứng (lời nói kết hợp với sử  dụng đồ  dùng trực  
quan).
Để thực hiện được yêu cầu này đòi hỏi trẻ phải có vốn từ phong phú, các kỹ 
năng tổng hợp, kỹ  năng truyền đạt ý nghĩ của mình một cách chính xác, tập trung 
5


chú ý và nói biểu cảm. Những kỹ năng này trẻ lĩnh hội được trong quá trình nhận  
thức có hệ thống bằng con đường luyện tập thường xuyên hàng ngày. 
2. Thực trạng
Ban đầu khi chưa thực hiện nghiên cứu đề  tài trẻ  của tôi mặc dù đã nói rõ 
ràng nhưng ngôn ngữ của trẻ vẫn còn nhiều hạn chế, trong câu nói của trẻ chưa có 
tư duy nhiều, chưa thật sự sáng tạo. Trẻ chưa hứng thú trong việc kể chuyện sáng 
tạo. Giáo viên ít cho trẻ kể chuyện sáng tạo
2.1. Thuận lợi và khó khăn
* Thuận lợi
Được sự  quan tâm giúp đỡ  của ban giám hiệu trường mầm non Hoa Cúc về 
chuyên môn xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục  
mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình mầm non mới, 
đầu tư  về  cơ  sở  vật chất đầy đủ. Thường xuyên tổ  chức bồi dưỡng chuyên môn 
và các đợt  chuyên đề  văn học, hội thi đồ  dùng đồ  chơi cho chị  em đồng nghiệp  
học tập và rút kinh nghiệm.

Phụ  huynh quan tâm đến con em mình, nhiệt tình  ủng hộ  cùng tôi trong việc 
dạy dỗ các cháu và thường xuyên  ủng hộ  những nguyên vật liệu để  làm đồ  dùng  
dạy học và vui chơi cho các cháu.
Bản thân là giáo viên được phân công chủ  nhiệm lớp 5 tuổi,  được sự  tín 
nhiệm và tin cậy của phụ huynh, có trình độ đạt chuẩn về chuyên môn, nhiệt tình 
yêu nghề mến trẻ. Có khả năng đọc kể diễn cảm cho trẻ nghe và biết định hướng 
cho trẻ kể chuyện sáng tạo có hiệu quả đã tạo được môi trường hoạt động ở  lớp  
phong phú.
* Khó khăn
Nhà trường chưa có phòng chức năng riêng, chưa có nhiều trang phục để  trẻ 
được nhập vai diễn phù hợp với từng nội dung câu chuyện.
Do kinh nghiệm sống của trẻ còn ít, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ 
dùng từ  không chính xác, câu lủng củng, trẻ  nói, phát âm sai do  ảnh hưởng ngôn  
ngữ của người lớn xung quanh trẻ. Một số trẻ mới đi học chưa có nề nếp học tập 
6


cũng như  kiến thức của trẻ  còn hạn chế, nên gặp nhiều khó khăn trong việc tổ 
chức các hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo.
Đa số  phụ  huynh bận công việc hoặc một lí do khách quan nào đó ít có thời 
gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ chưa được đáp ứng đầy đủ về nhu cầu  
mà trẻ cần giao tiếp.
Phụ  huynh phần lớn là lao động nghèo, nên rất khó khăn trong việc hỗ  trợ 
đóng góp kinh phí để tạo góc hoạt động văn học cho trẻ.
Khi dạy trẻ  kể  chuyện sáng tạo giáo viên chưa biết vận dụng tích hợp các  
môn học khác và chưa đầu tư sưu tầm các câu chuyện ngoài chương trình.
Qua các năm thực hiện chuyên đề  cho trẻ  làm quen tác phẩm văn học giáo  
viên đã thực sự có nhiều đầu tư vào việc nâng cao các phương pháp, hình thức cho  
trẻ, đã chú trọng nhiều đến việc đọc, kể  diễn cảm và dạy trẻ  kể  lại chuyện, kể 
sáng tạo dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Song việc dạy trẻ đóng kịch  

còn có nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó khả  năng cảm nhận các tác phẩm truyện kể  của giáo viên còn 
hạn chế giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, minh họa chưa bộc  
lộ cảm xúc hấp dẫn cuốn hút trẻ, phương pháp lồng ghép tích hợp chưa linh hoạt  
sáng tạo, kết quả trên trẻ chưa cao, trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ 
dùng dạy học chưa có khoa học, dẫn đến giờ  học trẻ ít tập trung chú ý, hiệu quả 
trên tiết học chưa cao.
2.2. Thành công và hạn chế
* Thành công
Ngôn ngữ của trẻ tăng dần, trong giờ học kể chuyện sáng tạo trẻ có hứng thú 
tham gia vào hoạt động. Giáo viên có khả năng thu hút trẻ tham gia vào hoạt động 
kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
* Hạn chế
Trẻ chưa thật sự hứng thú kể chuyện sáng tạo chính vì vậy ngôn ngữ của trẻ 
chưa phong phú, chưa mạch lạc. Giáo viên chưa có sáng tạo trong việc chuyển thể 
từ  chuyện kể  sang kịch bản sân khấu, không tạo ra được tính kịch ­ sự  kiện, lời  
thoại còn dài dòng khó hiểu.
7


2.3: Mặt mạnh­ mặt yếu
* Mặt mạnh
Trẻ  thích tham gia vào hoạt động kể  chuyện sáng tạo, giáo viên biết khắc  
phục khó khăn của nhà trường, lên chương trình đầy đủ, phù hợp với trẻ và chủ đề 
trẻ đang học.
* Mặt yếu
Nhiều trẻ chưa mạnh dạn, chưa có ý tưởng để kể chuyện sáng tạo, chưa dám  
kể chuyện theo ý của mình nên việc phát triển ngôn ngữ còn yếu
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Môi trường lớp học chưa trang trí phù hợp, chưa lôi cuốn được trẻ  vào tham 

gia hoạt động phát triển ngôn ngữ như mong muốn
Trẻ  chưa được trực tiếp sử  dụng nhân vật nhiều, hầu hết là cô hoặc được  
một vài trẻ sử dụng. Khi trẻ trực tiếp cầm các nhân vật thì trẻ mới hứng thú tham  
gia vào hoạt động từ đó mới khơi gợi ý tưởng trẻ mới nói lên những suy nghĩ của  
bản thân về nhân vật.
Giáo viên chưa chủ động linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động đóng kịch  
cho trẻ. Nếu có thì chủ yếu là trong tiết học. Còn trong các giờ chơi, các buổi sinh 
hoạt thì hầu như chưa có.
Đồ dùng trực quan còn ít, chưa đa dạng phong phú, thẩm mỹ chưa đạt, giá trị 
sử dụng chưa cao. Đặc biệt là đồ dùng cho trẻ hoạt động còn rất ít.
Chưa chú ý lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
Công tác tuyên truyền phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  thông qua hoạt động dạy  
trẻ kể chuyện chưa sâu sắc, chưa thuyết phục phụ huynh
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Môi trường trang trí chưa phù hợp, trước đây chưa chú trọng vào việc phát  
triển ngôn ngữ qua hoạt động kể chuyện sáng tạo cho trẻ nên trang trí chưa nổi bật 
chưa làm cho trẻ thật sự  hứng thú tham gia vào kể  chuyện sáng tạo để  phát triển  
ngôn ngữ. Vì vậy khi thực hiện nghiên cứu đề tài này tôi đã có hướng thay đổi tạo 
môi trường có các nhân vật trong các câu chuyện để khơi gợi sự tư duy, tò mò của 
8


trẻ, từ đó trẻ thích kể nói về các nhân vật kể các tình tiết trong câu chuyện theo ý 
của trẻ
Việc khảo sát thực tế cũng là một bước rất cần thiết và quan trọng khi chưa 
thực hiện nghiên cứu tôi chỉ  đánh giá trẻ  chung chung nhưng khi bước vào nghiên 
cứu tôi nhận thấy rằng cần phải khảo sát kỹ  hơn để  biết được trẻ  đã đạt ở  mức  
độ nào từ đó tìm ra các biện pháp khác phù hợp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ 
Trong giờ học giáo viên rất ít cho trẻ cầm đồ dùng là các nhân vật có trong câu 
chuyện để trẻ khám phá, tò mò tự kể câu chuyện theo ý thích của trẻ. Vì lý do là sợ 

trẻ  làm hư  hỏng đồ  dùng, cho trẻ  kể  được sử  dụng các nhân vật để  kể  lại câu  
chuyện còn những trẻ  còn lại chỉ  ngồi lắng nghe và quan sát. Qua một thời gian  
nghiên cứu tôi thấy nên dạy trẻ mầm non 5 ­ 6 tuổi cách sử dụng nhân vật phù hợp 
với ngôn ngữ lời kể sáng tạo. Để  làm được điều này giáo viên cần dành thời gian 
làm đồ  dùng đồ  chơi là các nhân vật trong các câu chuyện, đồ  dùng đồ  chơi phải  
phong phú và đa dạng nhiều hình thức. Cho tất cả  các trẻ  đều được sử  dụng các  
nhân vật, được đội mũ các nhân vật đóng kịch không những trong giờ học mà trong 
giờ đón trẻ, trả trẻ cô cũng có thể cho trẻ tiếp xúc làm quen  đặc biệt là những trẻ 
rụt rè, nhút nhát.
Khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo tôi chưa lồng ghép các môn học khác vào nên 
chưa tạo được không khí mới lạ trong câu chuyện. Vì vậy cần phải lồng ghép các 
môn học khác như âm nhạc, câu đố, ca dao… vào khi kể chuyện sáng tạo là rất cần 
thiết giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên
Trước đây công tác tuyên truyền phụ huynh tôi thường tuyên truyền cách chăm  
sóc sức khỏe, cách dạy con học toán, chữ  cái, v.v…còn việc tuyên truyền cho phụ 
huynh phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  là rất ít và chưa cụ  thể  rõ ràng. Nếu trẻ  được  
phát triển ngôn ngữ  thông qua kể  chuyện sáng tạo  ở  lớp rồi về  nhà được phụ 
huynh rèn luyện nữa thì ngôn ngữ của trẻ sẽ phát triển rất mạnh. Mà ngôn ngữ là 
một trong năm lĩnh vực giúp trẻ phát triển toàn diện.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Tôi chọn các giải pháp này dựa vào đặc điểm phát triển của trẻ  lớp tôi đang  
chủ nhiệm, dựa vào điều kiện thực tế về môi trường, đồ dùng đồ chơi, nhận thức  
9


của phụ huynh trẻ. Tôi nhận thấy các giải pháp này là cần thiết, vì mỗi giải pháp  
đều góp phần giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ. Khi tạo môi trường hoạt động phù  
hợp, đẹp mắt sẽ  tạo cho trẻ  sự hứng thú từ  đó trẻ  sẽ  hứng thú tham gia vào hoạt 
động kể  chuyện sáng tạo. Sử  dụng biện pháp khảo sát thực tế  đầu năm giúp cho 

giáo viên biết trẻ đang phát triển ngôn ngữ  ở mức độ  nào từ đó có biện pháp phát  
triển tiếp theo cho phù hợp. Biện pháp dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với  
ngôn ngữ  lời kể  sáng tạo giúp cho trẻ  tự  tin hơn, trẻ  sẽ  hiểu được nội dung của  
câu chuyện, biết được đặc điểm tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói  
của mình. Với biện pháp lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ  mầm non 5 ­ 6  
tuổi kể chuyện sáng tạo sẽ làm cho môn học thêm phong phú, sáng tạo hơn về mặt 
ngôn ngữ. Tuyên truyền kết hợp với phụ  huynh để  phụ  huynh nhận thức được 
rằng phát triển ngôn ngữ  là rất quan trọng đặc biệt là thông qua hoạt động kể 
chuyện sáng tạo. Nếu các biện pháp này được kết hợp hài hòa và đầy đủ  tôi tin 
chắc rằng ngôn ngữ của trẻ sẽ ngày càng rõ ràng hơn, mạch lạc hơn, sử dụng ngôn 
ngữ phong phú và đa dạng hơn không những giờ kể chuyện mà còn trong giao tiếp  
hàng ngày.
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
* Biện pháp 1: Tạo môi trường hoạt động cho trẻ  mầm non 5 ­ 6 tuổi kể 
chuyện sáng tạo.
Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết trong chương trình giáo dục 
mầm non mới. Tạo được môi trường cho trẻ  hoạt động tốt thì sẽ  kích thích trẻ 
phát triển ngôn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được rất cao. Với 
mỗi chủ điểm khác nhau, tôi luôn trang trí các góc bằng cách làm mới để kích thích  
tính tò mò của trẻ. Tôi đặc biệt quan tâm đến góc văn học của bé để  phát triển 
ngôn ngữ cho trẻ. Trên các mảng tường tại góc tôi thường trang trí các nhân vật có  
trong các câu chuyện hay những câu chuyện có kèm hình  ảnh để  trẻ  kể  chuyện  
sáng tạo… từ đó cũng cố vốn từ cho trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.    
Hơn thế nữa tôi còn mày mò viết tập truyện tranh chữ to và sưu tầm một số 
bộ truyện tranh ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy tạo cho trẻ sự hứng thú 
tham gia vào hoạt động. Những câu chuyện được thể  hiện  ở  góc văn học, những  
nhân vật và truyện tranh sưu tầm đó sẽ giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn 
bạc về câu chuyện đó.
10



Từ  đó trẻ  biết vận dụng những kiến thức đó vào kể  chuyện sáng tạo một 
cách dễ dàng. Ngoài việc tạo những bức tranh nhân vật ở góc văn học, những tập 
truyện tranh chữ to tôi còn đi sâu làm một số đồ dùng trực quan cho trẻ hoạt động  
như: một số con rối dẹt có bánh xe, có cử động tay chân và tận dụng những truyện  
tranh cũ, những sản phẩm vẽ của trẻ, cắt dán bôi bìa cứng cho trẻ  ghép tranh kể 
chuyện sáng tạo hoặc cắt rời các con vật cho trẻ  tự  chọn các con vật đó để  kể 
chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình.
Qua cách nghĩ và làm như vậy tôi đã tạo ra một góc văn học với đầy đủ chủng  
loại về  đồ  dùng trực quan đa dạng phong phú, đã giúp trẻ  hứng thú tham gia vào  
hoạt động và trẻ có thể nảy ra nhiều ý tưởng hay khi trẻ kể chuyện sáng tạo.
Tạo môi trường cho trẻ  kể  chuyện sáng tạo là một việc làm vô cùng quan 
trọng bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Đòi hỏi cô 
giáo phải biết tạo cảm xúc cho trẻ  bằng các con vật ngộ  nghĩnh, đáng yêu, đồng  
thời cũng phải biết hướng lái, gợi mở  cho trẻ  có cảm xúc tích cực khi tham gia  
hoạt động kể chuyện sáng tạo.
Qua nội dung các bức tranh, các nhân vật, các con rối trẻ được xem và nói lên 
nhận xét của mình về các đồ dùng đó.
Như vậy ngôn ngữ của trẻ sẽ được phát triển một cách phong phú và đa dạng 
hơn.
* Biện pháp 2: Dạy trẻ  mầm non 5 ­ 6 tuổi cách sử  dụng nhân vật phù hợp 
với ngôn ngữ lời kể sáng tạo.
Không những tạo môi trường hoạt động với đầy đủ  các loại đồ  dùng trực  
quan đa dạng phong phú, thu hút sự hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo của trẻ 
thì chúng ta còn phải dạy trẻ cách sử  dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể 
sáng tạo.
Giờ đón, trả trẻ hay giờ chơi hàng ngày tôi thường đọc kể cho trẻ nghe những  
câu chuyện truyện tranh  mà tôi sưu tầm. Đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác 
phẩm văn học, là cơ  sở  cho trẻ  có kiến thức vững vàng khi thực hiện kể  chuyện 
sáng tạo. Với cách làm quen như vậy trẻ biết đánh giá, nhận xét về đặc điểm tính 

cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình.
11


Ví dụ: Dê con thật thà, sói già hung ác, cô Tấm hiền lành, bà tiên ông bụt thì 
tốt bụng còn phù thuỷ, mụ gì ghẻ thì độc ác.
Ngoài ra tôi thường xuyên quan tâm định hướng cho trẻ  quan sát các tranh 
chuyện, cho trẻ  xem qua đĩa hình các câu chuyện . Đồng thời kết hợp tri giác với 
đàm thoại giữa cô và trẻ, giúp trẻ  nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách 
chính xác và nói lên ý tưởng của mình qua sự nhận thức. Từ đó trẻ sẽ có nền tảng  
để kể chuyện sáng tạo theo ý riêng của mình.
Tôi dạy trẻ  kể  chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một tuần  
hoặc hai tuần, kết hợp lồng ghép các môn học khác, các trò chơi để  củng cố  và  
khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh cho trẻ.
* Sau đây là một số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan:
­ Dạy trẻ sử dụng rối tay: dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp v ới lời nói,  
ngôn ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động các con rối đi lại.
­ Dạy trẻ  ghép tranh kể  chuyện: chọn những tranh mà trẻ  thích ghép thành 
một dải câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các 
nhân vật trong tranh.
­ Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: chọn những nhân vật mà trẻ thích, sau 
đó ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện theo ý tưởng của trẻ.
­ Dạy trẻ kể chuyện bằng sa bàn: chọn những nhân vật mà trẻ  thích kết hợp 
di chuyển các nhân vật đó trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể 
đi theo nhân vật sử dụng.
Qua cách dạy trẻ tôi đã tiến hành tổ  chức một giờ hoạt động có chủ  đích kể 
chuyện sáng tạo, chủ đề thế giới thực vật như sau:
Bước 1: Hát bài “ Lí cây bông ”. Hỏi trẻ bài hát nói đến những bông hoa gì ?  
màu gì ?.
Bước 2: Nghe cô kể mẫu diễn cảm chuyện sáng tạo của cô ( Truyện: Sự tích 

hoa hồng ), cô sử dụng rối kể 1 lần. Đàm thoại với trẻ về câu chuyện của cô (tên 
nhân vật, đặc điểm nhân vật, đặt tên cho câu chuyện).

12


Bước 3: Trẻ đi chọn đồ dùng trực quan mà trẻ yêu thích. Trẻ kể chuyện sáng 
tạo theo nhóm, cá nhân. Cô cho trẻ  đánh giá và nhận xét câu chuyện của bạn kể. 
Theo dõi cách sử dụng đồ dùng trực quan của trẻ để cô góp ý nhận xét.
Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy trẻ kể 
chuyện sáng tạo, giúp trẻ  linh hoạt sử  dụng đồ  dùng trực quan kết hợp với nghe,  
tay sử dụng”.
Sau đây là một số câu chuyện của trẻ khi thực hiện kể chuyện sáng tạo:
Câu chuyện “Bé làm bác sĩ ” cháu Bảo Ngọc với đồ dùng là một con búp bê và  
các dụng cụ khám chữa bệnh được cháu thể hiện như sau:
­ Hôm nay em bé chíp (cháu đặt tên cho con búp bê) của tôi bị ốm. Ôi chắc là  
bị sốt rồi, tôi phải mau mau khám bệnh cho em chíp mới được. Nhưng mà phải đo 
nhiệt kế cái đã xem em sốt mấy độ rồi nào. Em ngoan nhé! Chị sẽ khám cho em rồi 
em sẽ mau lành bệnh thôi. Em chíp sốt 40 độ luôn, nhưng nhờ có bác sĩ tôi đây, em  
đã hạ sốt lại rồi.
Câu chuyện “Cáo, Thỏ, Gà trống ” của cháu Gia Bảo, Đức Kiên và Thúy 
Ngân. Đồ  dùng là con cáo, thỏ  và gà từ  sản phẩm làm bằng rối tay, câu chuyện 
được các bé thể hiện như sau:
+ Bạn thỏ ơi cho tôi ở nhờ nhà bạn nhé.
+ Ừ, bạn cứ vào nhà tớ chơi đi.
+ Ha ha ha... cút đi thỏ, đây sẽ là nhà của tao.
+ Hu hu hu…Có ai giúp tôi không? Cáo lấy mất nhà tôi rồi.
+ Bạn thỏ, bạn bị làm sao thế? Được rồi tôi sẽ giúp bạn lấy lại nhà.
+ Ôi cảm ơn bạn nhiều lắm...
+ Cáo kia, hãy mau trả lại nhà cho thỏ đi!.........

Qua phần thể  hiện của các cháu tôi nhận thấy các cháu sử  dụng rối rất tốt.  
Ngôn ngữ  của các cháu được thể  hiện một cách rất tự  nhiên và phong phú. Các  
cháu đã biết kết hợp với nhau sử dụng các nhân vật phù hợp ăn khớp với lời kể.
Trong quá trình nghiên cứu và tiến hành kể chuyện sáng tạo đến nay ở lớp tôi 
đa số  trẻ  đã kể  chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình. Trẻ  rất thích được sử 
13


dụng các nhân vật để kể chuyện sáng tạo. Từ những việc làm đó không những trẻ 
sử  dụng thành thạo đồ  dùng trực quan về  các con vật mà còn biết vận dụng sử 
dụng đồ dùng trực quan ở các chủ đề khác. Thông qua các câu chuyện sáng tạo của  
trẻ, trẻ sử dụng các ngữ điệu, ngắt nghỉ để truyền đạt thái độ, tình cảm của mình  
đối với tác phẩm. Trẻ bắt chước giọng kể diễn cảm của cô, trẻ có thể hiểu được  
một từ  dùng với đồ  vật này lại có thể  vào các đồ  vật khác nữa. Từ  đó ngôn ngữ 
của trẻ phát triển mạnh mẽ, vốn từ được làm giàu thêm qua đó trẻ cảm nhận được  
sự phong phú của ngôn ngữ.
* Biện pháp 3: Lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ  mầm non 5 ­ 6 tuổi 
kể chuyện sáng tạo.
Kể  chuyện sáng tạo không những chỉ  kể  diễn cảm, sử  dụng đồ  dùng trực 
quan sinh động mà còn phải biết kết hợp lồng ghép các môn học vì nó làm thay đổi 
không khí, làm thay đổi trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại,  
những câu đố, những bài đồng dao, ca dao hay một số trò chơi xen lẫn.
Để phát huy trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ  xây dựng câu chuyện một cách 
hoàn chỉnh theo ý của từng cá nhân đòi hỏi giáo viên phải tổ chức kể chuyện một  
cách sinh động, hấp dẫn. 
Một số  cháu đã kể  chuyện được khi sử  dụng mô hình, sách tranh, con rối,  
tranh ảnh sưu tầm...Sau mỗi lần kể tôi chú ý nhận xét kĩ lời kể của trẻ và tạo mọi 
cơ hội cho trẻ được kể chuyện sáng tạo. 
Âm nhạc là môn bổ  trợ  cho trẻ  làm quen với tác phẩm văn học, dễ  gây  ấn 
tượng cho người xem, vì thế tôi cho trẻ hát thuộc các bài hát: “Rửa mặt như mèo”,  

“ Chú khỉ con”, “đố biết con gì”,…giúp trẻ khi kể chuyện về con vật nào trẻ có thể 
hát về các con vật đó phù hợp với nội dung câu chuyện.
Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần kể hay thay cho phần củng cố 
câu chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho trẻ  chơi một số  trò chơi  ở 
dạng động như  trò chơi: Bắt chước tiếng kêu con vật, mèo và chim sẻ, gà gáy vịt  
kêu, trời nắng trời mưa, cáo và thỏ…
Việc tích hợp các môn học khác, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện sáng tạo 
là việc cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn.
14


Việc tích hợp các môn học khác giáo viên phải linh hoạt, lựa chọn nội dung  
sao cho phù hợp với nội dung câu chuyện, giúp trẻ  tham gia vào hoạt động một 
cách tích cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất.
* Biện pháp 4: Bồi dưỡng cho những cháu yếu.
Để chất lượng Giáo dục nâng lên bản thân tôi luôn tìm ra những biện pháp tối  
ưu để bồi dưỡng giúp đỡ  trẻ  yếu, những trẻ  cá biệt.  Tôi không những cho những 
trẻ khá giỏi tham gia kể chuyện sáng tạo mà còn khuyến khích, gây ấn tượng cho 
những trẻ yếu cũng được tham gia kể chuyện sáng tạo. Đoạn nào trẻ kể được tôi 
dùng hình thức khen trẻ  để  trẻ  được tự  tin hơn. Lúc đầu có thể  trẻ  kể  được ít 
nhưng dần dần trẻ sẽ tiến bộ hơn, thích học môn học này.  
Ngoài ra tôi còn có kế  hoạch bồi dưỡng, dạy mọi lúc, mọi nơi và thường 
xuyên trao đổi trực tiếp với phụ  huynh với nhiều hình thức. Với các trẻ  này tôi  
thường xuyên quan tâm, chú ý hơn thường xuyên động viên khuyến khích trẻ nhất  
là trong các giờ học.
Đối với những trẻ cá biệt tôi thường xuyên trò chuyện, gần gủi để  tạo niềm 
tin cho trẻ, động viên trẻ  cùng làm với bạn. Những lời động viên kịp thời có tác 
dụng rất nhiều khuyến khích trẻ hứng thú tham gia các giờ học sau.
* Biện pháp 5: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
Trẻ mẫu giáo dễ hứng thú nhưng cũng nhanh chán, dễ nhớ nhưng cũng nhanh 

quên. Nếu phối hợp được với phụ  huynh ôn luyện thêm  ở  nhà thì hiệu quả  chăm  
sóc, giáo dục sẽ  rất cao. Vì vây trong cuộc họp phụ  huynh đầu năm tôi nêu tầm  
quan trọng của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ  cho trẻ, đặc biệt là thông qua hoạt  
động kể  chuyện sáng tạo. Hàng tháng tuyên truyền với phụ  huynh qua các biểu 
bảng nêu lên nội dung về chủ điểm, về các câu chuyện sáng tạo của cô và trẻ.
Qua đó phụ  huynh thấy được ngôn ngữ  của trẻ  phát triển như  thế  nào và có 
biện pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình.
Ví dụ: Cô trao đổi với phụ  huynh về  những câu chuyện sáng tạo trẻ  đã kể,  
yêu cầu phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích trẻ kể các  
câu chuyện khác.
Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng.
15


Huy động phụ huynh đóng góp ủng hộ tạo góc văn học hoặc thu nhập những 
nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như  báo, vải vụn, len vụn, các vỏ  hộp, mút xốp…
kết hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh.
Có thể nói công tác tuyên truyền với phụ huynh là một việc làm rất quan trọng  
trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Giáo viên phải nắm được đặc điểm của trẻ  để  có biện pháp phát triển ngôn 
ngữ phù hợp
Lập kế hoạch khảo sát học sinh từ đầu năm học
Nhiệt tình, kiên nhẫn dành thời gian để  tạo được môi trường cho trẻ  hoạt  
động kể  chuyện sáng tạo, thường xuyên làm đồ  dùng đồ  chơi các nhân vật trong 
các câu chuyện đẹp mắt, sáng tạo nhằm tạo hứng thú cho trẻ  tham gia vào hoạt  
động
Biết cách phối hợp nhịp nhàng giữa phụ huynh trẻ với cô giáo, tạo được niềm 
tin cho phụ huynh
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp

Các biện pháp này có mối quan hệ gắn bó, hỗ trợ nhau giúp cho trẻ phát triển 
ngôn ngữ tốt nhất thông qua hoạt động kể  chuyện sáng tạo. Trước hết là tạo môi  
trường hoạt động cho trẻ  kể  chuyện sáng tạo. Tiếp đến là khảo sát thực tế  học 
sinh đầu năm. Sau đó dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể 
sáng tạo. Kết hợp lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ  kể  chuyện sáng tạo.  
Cuối cùng là tuyên truyền kết hợp với phụ huynh để có biện pháp giáo dục trẻ phát 
triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Kết quả cụ thể mà tôi đã thực hiện trong thời gian qua như sau:

Nội dung
Kể diễn cảm
16

Khi đã áp dụng 
hình thức đổi mới

Tỉ lệ

30/34

88,2 %


Phát triển ngôn ngữ, diễn đạt tốt

31/34

91,2 %


Phát âm rõ ràng mạch lạc

30/34

88,2 %

Tích cực tham gia vào hoạt động môn 
làm quen văn học

32/34

94,1 %

Hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo

28/34

82,3%

Biết thể  hiện ngôn ngữ  hoàn cảnh (kể 
chuyện sáng tạo)

25/34

73,5 %

Khả   năng   diễn   xuất   hoạt   cảnh,   đóng 
kịch

27/34


79,4 %

­ Giá trị khoa học của vấn đề  nghiên cứu là giúp giáo viên mầm non có thêm 
một số kinh nghiệm và biện pháp để  phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể 
chuyện sáng tạo
4. Kết quả  thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn  đề 
nghiên cứu
Sau khi thực hiện các biện pháp tôi đã thu được một số kết quả sau:
* Về bản thân:
Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm qua cách dạy trẻ  kể  chuyện sáng tạo, 
sưu tầm được nhiều truyện tranh, học thuộc nhiều truyện ngoài chương trình.
Tạo được môi trường cho trẻ  hoạt động tốt  ở  các góc, đặc biệt là góc văn  
học.
Tôi đã tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có, dễ  tìm để  tạo ra nhiều loại rối  
phong phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
Các tiết dạy kể  chuyện sáng tạo của trường tôi tham gia và các hội thi đều 
được xếp loại giỏi.
* Kết quả trên trẻ:
Qua các tiết học trẻ  rất hứng thú tham gia vào các hoạt động học tập, ngôn 
ngữ của trẻ trở nên mạch lạc hơn so với trước đây.
17


Trẻ hoạt động không bị áp đặt để phát huy năng lực bản thân, được trao đổi,  
được nhận xét nên trẻ trở nên năng động hơn.
* Đối với phụ huynh:
­ Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để 
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
­ Đã nhiệt tình đóng góp hỗ trợ  kinh phí và nhiều nguyên vật liệu để  tạo góc 

văn học cho lớp.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Một trong những cơ sở để đánh giá sự phát triển của trẻ là khả  năng phát âm 
chuẩn, trả  lời câu hỏi rõ ràng mạch lạc, kể  chuyện sáng tạo. Vì vậy, việc rèn 
luyện ngôn ngữ  cho trẻ  hiện nay là một vấn đề  quan trọng hàng đầu. Phát triển  
ngôn ngữ tốt giúp trẻ  nhận thức tốt hơn. Ngoài ra ngôn ngữ  còn đóng vai trò quan 
trọng trong cuộc sống hàng ngày của trẻ. Trẻ tích cực giao tiếp hơn, thích tham gia  
vào các hoạt động, tò mò ham khám phá những điều xung quanh.
Nhìn chung, trẻ  em lứa tuổi mầm non đều có những đặc tính tâm lí như  sau:  
Dễ tiếp thu và cũng dễ phân tán sự tập trung tư tưởng, dễ xúc cảm, hồn nhiên và  
dễ tin, tư duy mang tính chất cụ thể và biểu cảm. Những đặc tính đó của lứa tuổi  
nhỏ đã giúp cho việc dạy học diễn ra rất dễ dàng. Tính hồn nhiên dễ tiếp thu, xúc  
cảm và tính cụ  thể của tư duy các em đã tạo nên cơ  sở  tuyệt vời để  phát triển trí  
tưởng tượng tái hiện và sáng tạo ra những câu chuyện thật là ngộ  nghĩnh, dễ 
thương... Đặc tính này khiến cho chúng ta dễ  dàng khơi gợi những cảm xúc của 
các em, kích thích các em đọc, kể một cách thích thú những câu chuyện mà các em  
đã được học. Từ đó:
­ Giáo viên phải đi sâu nghiên cứu để tạo ra được môi trường tốt cho trẻ hoạt  
động một cách tích cực nhất, biết tạo cảm xúc cho trẻ  khi kể  chuyện sáng tạo. 
Thường xuyên trò chuyện với trẻ, khơi gợi trẻ đặt tên cho nội dung vừa trò chuyện 
hoặc tóm tắt ngắn gọn những điều vừa trò chuyện.
­ Khuyến khích trẻ nói những ý nghĩ của trẻ  qua nội dung hay chủ  điểm nào 
đó nhằm giúp trẻ luyện cách trình bày, diễn đạt ý.
18


­ Cho trẻ tham quan, hướng dẫn từ quan sát sự vật, hiện tượng nhằm mở rộng  
vốn hiểu biết cho trẻ; kết hợp đàm thoại để  trẻ  hiểu sâu bản chất của sự  vật, 
hiện tượng và nói lên nhận xét của mình.

­ Phối hợp tuyên truyền với phụ  huynh  ở  nhà cho trẻ  xem băng đĩa các loại 
truyện thiếu nhi có ý nghĩa giáo dục nhằm gây cảm xúc và kích thích sự  sáng tạo  
đối với trẻ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng 
tạo là một việc làm thiết thực nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, đòi hỏi cô 
giáo phải có sự sáng tạo linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì rèn luyện giữa cô 
và trẻ thì sẽ đem lại kết quả cao.
Bằng những kiến thức và kinh nghiệm vốn có, hãy dốc hết tâm sức của mình  
để “ Tất cả vì trẻ thơ ”. Như Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã nói:
“Trẻ thơ như  búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Đúng như vậy, trẻ  ở tuổi mầm non thật đáng yêu, tâm hồn trẻ thơ  ngây, hồn  
nhiên như  tờ  giấy trắng. Mọi hoạt động học tập và vui chơi trong quá trình chăm 
sóc giáo dục trẻ   ở  trường mầm non đều đem lại cho trẻ  những điều kỳ  lạ, thần 
tiên.
2. Kiến nghị:
* Đối với nhà trường
­ Cần tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập ở các đơn vị bạn để trao 
đổi, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn.
­ Để  hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, mặc dù được sự  quan tâm giúp 
đỡ  của ban giám hiệu trường mầm non Hoa Cúc, của các chị  em đồng nghiệp. 
Nhưng vẫn không tránh khỏi những thiếu sót rất mong nhận được sự  quan tâm,  
giúp đỡ  của các cấp, sự  đóng góp ý kiến của ban lãnh đạo cấp trên và các bạn 
đồng nghiệp để sáng kiến ngày càng tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
                                                                Buôn Trấp, ngày 20 tháng 3 năm 2016
                                                                                        Người viết 
 

  
19



       Trần Thị Kim Loan

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
...
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

20


STT Tên tài liệu
1

2
3
4
5

Tác giả
TS   Đinh   Thị   Tứ   và   PGS­TS 

­ Sách tâm lý học trẻ em lúa t mầm non


Phan Trọng Ngọ. Do NXB giáo 

dục phát hành
­ Phương pháp phát triển ngôn ngữ  cho  Trung tâm nghiên cứu giáo dục 
trẻ .
Mầm non.
­ Phát triển ngôn ngữ chọn lọc .
Đặng Thu Quỳnh
­ Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từ  Trần Thị Trọng
5­6 tuổi
­ Bồi dưỡng thường xuyên

Phạm Thị Sửu

21



×