Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (866.04 KB, 24 trang )

Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
 môn Ngữ văn 6

PHẦN THỨ  NHẤT: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Nhà văn M.Gorki từng nói “Văn học là nhân học”, văn học là cuộc sống –  
thông qua ngôn từ  và hình tượng nghệ  thuật sinh động, nó cung cấp cho con 
người kiến thức về  cuộc sống cũng như  khám phá cái đẹp trong tâm hồn con  
người. Đến với văn học chúng ta tìm thấy vẻ đẹp nhân văn qua mỗi sự vật, hình 
tượng trong tác phẩm mà từ  đó tác động tâm tư  tình cảm, góp phần để  hình 
thành và phát triển nhân cách. Vậy nhưng, không phải ai cũng hiểu vai trò của 
văn chương trong đời sống con người, hiện nay giá trị văn học đang dần bị lãng 
quên. Nhất là với học sinh. Xu hướng xem nhẹ các môn xã hội nói chung, môn 
Ngữ văn nói riêng là điều mà bất cứ giáo viên đứng lớp nào cũng có thể dễ dàng 
cảm nhận. Học sinh học Văn như một sự bắt buộc để đủ điều kiện lên lớp hay 
để có được tấm bằng tốt nghiệp cuối cấp chứ không phải bởi sự  đam mê. Học 
văn là phải đọc, thậm chí là đọc đi đọc lại nhiều lần, phải ngẫm nghĩ, tìm tòi,  
liên hệ…Có lẽ vì vậy mà học sinh đang dần dần “quen” môn Văn.
Tác phẩm văn chương là bức tranh về  cuộc sống, con người trong lao  
động, trong đấu tranh được tái hiện một cách chuẩn xác mà không hề khô khan, 
tẻ nhạt. Học văn, bên cạnh cái cơ bản là học về ngôn ngữ, tiếng nói văn chương 
của tiếng Việt để  có thể  nói, viết, xây dựng ngôn ngữ  diễn đạt cho riêng mình 
thì còn học về  văn hóa, tình cảm, tư  duy nghệ  thuật của nhân loại thông qua  
những tác phẩm văn chương đặc sắc. Và từ  đây, ta học cách làm người, học 
cách chia sẻ, yêu thương.Văn học giúp ta bồi dưỡng tình đời, tình người, làm cho  
tâm hồn tình cảm thêm phong phú, nhạy cảm. Học tốt môn văn là nền tảng vững  
chắc giúp các em tự  tin trong giao tiếp hàng ngày, góp phần cho những thành 
công trong cuộc sống mai sau.
Để  học sinh thấy được giá trị  to lớn của văn học, để  thắp sáng và thổi  
bùng ngọn lửa đam mê văn học trong các em, từ đó nâng cao chất lượng bộ môn 
Ngữ Văn, bản thân tôi đã luôn không ngừng nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, thực hiện  


những biện pháp phù hợp với đối tượng học sinh lớp 6 và bước đầu nhận thấy  
được những chuyển biến rất tích cực. Các em trở nên hào hứng hơn với các tiết 
văn, tích cực hơn trong việc học bài  ở  nhà, chuẩn bị  bài trước khi đến lớp nên 
chất lượng bộ  môn cũng được nâng cao. Vì vậy, tôi chọn đề  tài “Một số  giải  
pháp nâng cao chất lượng bộ  môn Ngữ  văn 6” với mong muốn được chia sẻ 
những kinh nghiệm riêng của cá nhân trong quá trình giảng dạy bộ  môn Ngữ 
văn.
                                                          Trang  1


II. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp để nâng cao chất lượng 
bộ môn Ngữ Văn 6”, bản thân tôi muốn bày tỏ những suy nghĩ, trăn trở của mình 
về  thực trạng việc dạy và học môn Ngữ  văn 6 hiện nay, đồng thời cũng mạnh 
dạn đề xuất những giải pháp được rút ra từ thực tiễn giảng dạy của mình. Thực 
sự tôi rất mong được các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệm, trao  
đổi, bàn luận để  tìm ra những giải pháp tối  ưu nhất, giúp học sinh có cái nhìn  
đúng đắn hơn về giá trị của môn học, say mê, hứng thú với bộ  môn, từ  đó nâng  
cao chất lượng hiệu quả  của môn Ngữ  văn. Mục đích cụ  thể  mà đề  tài hướng  
đến là:
Tìm hiểu thực trạng thái độ  của học sinh với môn học Ngữ  Văn và chất 
lượng của bộ môn này.
­
­

Phát hiện những nguyên nhân dẫn đến chất lượng bộ  môn Ngữ  văn chưa 
cao.

­


Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ 
văn.

Rút ra những bài học kinh nghiệm riêng cho bản thân để  vận dụng vào  
việc giảng dạy Ngữ  văn  ở  các khối lớp để  nâng cao chất lượng của bộ 
môn này
 1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề  tài này là học sinh lớp 6A1, 6A7 năm học 
2017­2018 và học sinh lớp 6A3, 6A6 của học kì 1­ năm học 2018­2019 tại trường  
THCS Nguyễn Trãi.
2. Phạm vi của đề tài
Đề tài nghiên cứu tập trung vào một số giải pháp mới để giúp học sinh có 
cái nhìn đúng đắn hơn về giá trị  của môn học, say mê, hứng thú với bộ môn, từ 
đó nâng cao chất lượng hiệu quả của môn Ngữ văn 6.
­

PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Định hướng cách tân biện pháp dạy và học đã được chính xác trong quyết  
nghị Trung ương 4 khóa VII (1 – 1993), quyết nghị Trung ương 2 khóa VIII (12 – 
1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 – 1998), được cụ thể hóa trong 
các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo , đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 – 1999). Văn  
Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiêp t
́ ục khẳng định “giáo dục là quốc 
sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo 


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
 môn Ngữ văn 6


nhân lực, bồi dưỡng nhân tai. Chuy
̀
ển mạnh quá trinh giáo d
̀
ục chủ yếu từ trang 
bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi  
đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn”.
Trước hết ta phải hiểu rõ được bản chất của những phương pháp dạy  
học mới đó là:
­

Dạy học theo hướng trải nghiệm sáng tạo

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự 
hướng dẫn và tổ  chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia  
trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà 
trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát  
triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo 
của cá nhân mình. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng  
môn học.
­

Phương pháp­ kĩ thuật dạy học tích cực

Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có 
nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về  PPDH. Trong tài liệu này,  PPDH 
được hiểu là cách thức, là con đường hoạt động chung giữa giáo viên  và học  
sinh, trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học.
Kĩ thuật dạy học gồm có: kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ 
thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật các mảnh  

ghép, kĩ thuật hỏi chuyên gia, kĩ thuật hoàn tất một nhiệm vụ,...
Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách thức hành động của 
giáo viên trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá  
trình dạy học.
­

Bản đồ tư duy (sơ đồ tư duy) 

Nghị  quyết Trung  ương 2, khóa VIII khẳng định “Phải đổi mới phương 
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp  
tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên tiến và 
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự 
học, tự nghiên cứu cho học sinh...”.
Sơ  đồ  tư  duy (SĐTD) sử  dụng đồng thời hình  ảnh, đường nét, màu sắc,  
chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỷ 
lệ, chi tiết khắt khe và định khuôn sẵn như  các loại bản đồ  thông dụng khác.  
Như  vậy cùng một chủ  đề, bài học nhưng mỗi người có thể  vẽ  theo một cách 
                                                          Trang  3


khác nhau và hoàn toàn có thể thêm hoặc bớt các nhánh dễ dàng. Nếu muốn ghi  
chép bằng SĐTD cũng có nhiều  ưu điểm hơn như: Lôgíc, mạch lạc; trực quan, 
sinh động, dễ  nhìn, dễ  hiểu; vừa nhìn được tổng thể, vừa biết được chi tiết;  
giúp hệ  thống hóa kiến thức dễ  dàng; và giúp việc ôn tập khoa học, nhớ  kiến  
thức lâu hơn...
­ Dạy học phát triển năng lực 
Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý 
tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý  rèn luyện năng lực giải  
quyết vấn đề  gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề  nghiệp , đồng 
thời gắn hoạt  động trí tuệ  với hoạt  động thực hành, thực tiễn. Tăng cường 

việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng  
tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. 
­ Giáo dục an ninh và quốc phòng
Quốc phòng: là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân 
tộc, trong đó sức mạnh quân sự  là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm  
nòng cốt.
An ninh: là tình hình trật tựxã hội bình thường, yên ổn, không có rối loạn.
Giáo dục an ninh và quốc phòng nhằm mục đích hình thành, bồi dưỡng ở 
học sinh tình yêu quê hương, đất nước. Giáo dục học sinh ý thức công dân trong  
việc bảo vệ xã hội, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh để bảo vệ đất nước.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trong những năm gần đây, rất nhiều những phương phápđổi mới dạy học  
được đưa vào áp dụng, nhằm phát huy tối đa tính chủ  động, tích cực của học 
sinh. Các buổi tập huấn, họp tổ chuyên môn cũng đưa vấn đề phương pháp dạy 
học cùng thảo luận, trao đổi nhằm mục đích nâng cao chất lượng bộ  môn. Tuy  
nhiên, vị thế của môn Văn ngày càng giảm sút, tình trạng học sinh chán học văn  
ngày càng tăng thực sự  là một vấn đề  đáng lo ngại. Từ  thực tế  giảng dạy, tôi  
nhận thấy để dẫn đến tình trạng này do một số nguyên nhân sau:
1.

Đối với người dạy

Nhìn chung, hầu hết các thầy cô đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm 
lo quan tâm đến học sinh, tuy nhiên vẫn còn những mặt hạn chế nhất định sau:
+ Nhiều thầy cô ngại đổi mới, có áp dụng phương pháp mới nhưng chậm, 
ít hoặc chưa phù hợp với nội dung bài học, phương pháp giảng dạy chưa thực  
sự phù hợp với đa phần đối tượng học sinh.


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng

 môn Ngữ văn 6

+ Nhiều giáo viên còn gặp khó khăn khi chương trình sách giáo khoa mới 
với yêu cầu truyền đạt mộtkhối lượng khổng lồ  của tri thức nhưng thời gian  
thực học của học sinh với bộ môn ngày càng ít.
+ Với đặc thù của bộ môn, các đồ dùng trực quan hầu như không có, tranh  
ảnh minh họa trong sách không nhiều.
+ Trong một lớp, mức tiếp thu nội dung bài học của học sinh nhanh, chậm  
khác nhau cũng là một rào cản trong việc nâng cao chất lượng bộ môn.
2.

Đối với học sinh

Với địa bàn tập trung lượng dân cư  đông đúc, tỉ  lệ  đồng bào  ở  các buôn 
Eana, buôn Drai, buôn Tơ  Lơ  phần đa phần điều kiện kinh tế  còn khó khăn,  
ngoài giờ  lên lớp, các em còn phải phụ  giúp gia đình, ít dành thời gian cho việc  
học. Nhất là vào mùa vụ, sự  chuyên cần của các em các giảm.Điều đó càng  
khiến cho chất lượng bộ môn càng khó đảm bảo.
+ Ý thức tự học, vượt khó trong học tập của nhiều em chưa cao. Với môn  
Văn, tương lai để chọn ngành nghề, kiếm việc cũng khó hơn nên nhiều gia đình 
chỉ hướng con em vào các môn học “thời thượng” như Toán, Lí, Hóa, Tiếng Anh.  
Vì vậy, không ít học sinh xem nhẹ  môn học, không dành thời gian cho bộ  môn  
này, hoặc có học cũng chỉ  là học lấy lệ  hoặc đối phó. Điểm này thể  hiện rõ ở 
việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Có nhiều  
em giáo viên hỏi bài cũ cả 4,6 lần thì tất cả cũng chỉ nhận được câu trả lời duy 
nhất “Thưa cô, em không thuộc”, “em chưa thuộc”….
+ Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, nhu cầu giải trí như xem 
ti vi, chơi game, lướt facebook . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý  
thức học bị lôi cuốn, xao nhãng việc học.
+ Lười học, chán học nên học yếu. Học yếu lại càng lười học, chán học, 

cứ  xoay vòng như  một quy luật tất yếu, khiến cho giờ học với các em trở  rất 
nên nặng nề. 
Năm   học   2017­2018,   tôi   phụ   trách   giảng   dạy   môn   Văn   ở   2   lớp:   6A1,  
6A7.Và năm học 2018­2019 dạy hai lớp: 6A3, 6A6. Dù là học sinh đầu cấp và 
mới chỉ  là những tuần học đầu tiên, nhưng học sinh đã tỏ  ra thờ   ơ, không hào  
hứng với môn học. Tôi hướng dẫn các em cách soạn bài, học bài, song ở tiết học  
mới, có rất ít em chịu thực hiện. 
Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I môn Ngữ  văn 6 trường THCS 
Nguyễn Trãi khi chưa thực hiện đề tài trong hai năm học gần đây như sau: 
                                                          Trang  5


  Năm học 2017 ­2018:
Lớp
Sĩ số

Năm học

2017­2018

Điểm

Ghi chú

Giỏi

Khá

Trung 
bình


Yếu

Kém

6A1

29

0

1

15

8

5

6A7

36

2

7

17

8


2

Tổng 
cộng

65

2

8

32

16

7

Tỉ lệ

3%

12,5%

49%

24,5%

11%


Năm học 2018 – 2019:
Điểm
Năm học

2018­2019

Lớp

Sĩ số

6A3

Ghi chú

Giỏi

Khá

Trung 
bình

Yếu

Kém

26

0

1


14

6

5

6A6

35

2

6

16

9

2

Tổng 
cộng

61

2

7


30

15

7

49,3%

24,6%

Tỉ lệ

3,4%

11,3%

11,4%

Từ kết quả thống kê cho thấy kết quả bài kiểm tra định kì của học sinh đối 
với bộ môn Ngữ văn vẫn còn thấp cụ thể như sau:
Năm học 2017­ 2018: số  học sinh đạt điểm từ  trung bình trở  lên đạt tỉ  lệ 
64,5%, còn lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Năm học 2018­ 2019: số  học sinh đạt điểm từ  trung bình trở  lên đạt tỉ  lệ 
64%, còn lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Vậy làm thế  nào để  học sinh có hứng thú, tích cực đồng thời phát triển 
được tư duy, tìm tòi, óc sáng tạo của học sinh. Xuất phát từ vấn đề đó bên cạnh 
việc thực hiện tốt việc dạy học theo hướng đổi mới, bản thân tôi không ngừng  
học hỏi, tìm tòi sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau  với hi vọng học 
sinh sẽ  yêu môn Ngữ  văn hơn và từ  đó nâng cao được chất lượng bộ  môn của  
mình.

III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Các bước tiến hành một tiết học:
1.1. Tạo bầu không khí thoải mái, thân thiện khi vào giờ học


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
 môn Ngữ văn 6

Trong mỗi tiết học, người đóng vai trò chủ đạo để điều tiết không khí lớp 
học chính là giáo viên.Thái độ, tâm lí, tác phong của người đứng lớp có  ảnh  
hưởng rất lớn đến tâm lí học sinh. Xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh 
tích cực” phải bắt đầu từ  “Lớp học thân thiện” và “Mỗi thầy cô là một tấm 
gương sáng về  đạo đức và tự  học”. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải luôn mẫu  
mực trong thái độ, tác phong, cách ứng xử.
Sự thân thiện, tích cực của giáo viên sẽ tạo nên sự  gần gũi, thân tình, yêu  
mến ở học sinh, xóa bỏ cảm giác áp lực mỗi khi đến tiết học Ngữ văn. Yêu mến 
thầy cô, đồng nghĩa với việc các em có hứng thú với môn học. Ngược lại, nếu  
giáo viên tỏ  ra lạnh nhạt, thiếu thiện cảm với học sinh thì các em sẽ  xa lánh,  
không tương tác với những bài học, và đồng nghĩa với việc, mục đích của giáo 
dục coi như thất bại.
Cuộc sống của giáo viên cũng như  bao nhiêu người khác với những lo  
toan, gánh nặng bộn bề của cuộc sống đời thường.Nhưng khi lên lớp, đứng trên 
bục giảng, chúng ta phải tự  mình điều chỉnh tâm lí, gạt bỏ  những lo âu, buồn  
bực, bởi những tâm lí nặng nề sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tiết học, đến tâm lí  
học sinh. Không làm chủ  được cảm xúc, không chỉ  không có cảm hứng truyền  
tải nội dung bài học, mà còn có thể  có những thái độ, hành động không chuẩn 
mực, đánh mất hình ảnh của chính mình. Vì thế, tạo một không khí vui vẻ, thân 
thiện, nhẹ nhàng là tiền đề quan trọng  để tạo hứng thú cho học sinh tiếp thu bài  
học.
1.2. Coi trọng việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới 

Kiểm tra việc học bài cũ, chuẩn bị  bài mới  ở  nhà của học sinh phải là 
hoạt động mang tính bắt buộc thường nhật của giáo viên khi bắt đầu tiết học.Có 
khi tự tôi đi một vòng quanh lớp, yêu cầu các em giở vở soạn lên bàn, có khi cho 
chính học sinh kiểm tra chéo nhau, có khi là bằng cách lấy ý thức tự  giác, trung  
thực của học sinh…Để  tránh tình trạng không học bài, soạn bài hoặc có nhưng 
chỉ mang tính chất đối phó, lấy lệ, vài tuần, tôi sẽ thu vở kiểm tra, có thể là 5­10 
em, nửa lớp, hoặc cả  lớp, có chấm điểm, nhận xét rõ ràng theo hướng động  
viên, khích lệ sự cố gắng, nỗ lực của các em để học sinh rút kinh nghiệm trong  
các bài soạn sau. Với những học sinh yếu hơn, tôi thường có thêm điểm cộng ở 
sau, khi trả  bài, tôi sẽ  nói luôn  ở  trước lớp, rằng “những bạn đó có nhiều cố 
gắng nên cô đã cộng thêm 1 điểm khuyến khích”.Với những trường hợp không  
tiến bộ  thì tôi cũng kiểm điểm nghiêm khắc, có những hình thức kỉ  luật nhất  
định, từ nhẹ nhàng nhắc nhở đến việc viết bản kiểm điểm, mời phụ huynh.
                                                          Trang  7


Để việc học bài cũ, soạn bài mới có hiệu quả, điều quan trọng là giáo viên  
cần có những hướng dẫn cụ thể cho học sinh tự học.Giúp các em có tinh thần tự 
học, phát huy tính chủ  động trong việc tìm hiểu nội dung bài học. Vì thế, trong 
buổi học đầu tiên của năm học mới, tôi dành một khoảng thời gian cho việc đưa 
ra nội quy riêng của bộ  môn, trong đó tất nhiên không thể  thiếu quy định việc  
học bài cũ, chuẩn bị  bài mới. Tôi hướng dẫn khái quát cách soạn bài của từng  
phân môn: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn để học sinh nắm rõ phương pháp  
học  ở  nhà. Phần dặn dò sau mỗi tiết học, tôi đều dành vài phút để  nêu những  
hướng dẫn, gợi ý cho việc học bài cũ, soạn bài mới. Với việc học bài cũ, tôi 
thường dặn dò các em về  xem lại nội dung bài giảng, chỉ  ra những nội dung 
trọng tâm để  học sinh lưu ý nắm vững kiến thức.Với việc yêu cầu học sinh  
soạn bài mới, tôi thường cụ  thể  hóa những yêu cầu của nội dung bài học theo  
từng phân môn.
Phần văn bản: Yêu cầu học sinh đọc kĩ văn bản, xem phần chú thích từ 

khó để  hiểu đúng nội dung; nắm khái quát về  tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra  
đời, bố cục; trả lời các câu hỏi phần Đọc hiểu văn bản, lưu ý về nội dung, nghệ 
thuật và ý nghĩa của văn bản. và một số lưu ý cụ thể ở từng bài.
Ví dụ, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài “Bài học đường đời đầu tiên” 
của Tô Hoài tôi thường yêu cầu:
+ Tìm hiều thêm về tác giả Tô Hoài và tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí”. 
+ Đọc phần chú thích, nắm những nét chính về tác giả, tác phầm; đọc kĩ  
đoạn trích, nắm vững các từ  khó;tìm các chi tiết miêu tả  về  ngoại hình, hành 
động, tính cách của Dế  Mèn; tìm chi tiết thể  hiện thái độ  của Dế  Mèn sau khi 
gây ra cái chết cho dế Choắt.
+ Soạn bài theo hệ  thống câu hỏi phần Đọc ­ hiểu văn bản trong sách  
giáo khoa.
Phần Tiếng Việt   và Tập làm văn: Yêu cầu học sinh chú ý trước hết  ở 
từng mục. Đọc ví dụ, trả lời các câu hỏi để từ đó tự hình thành khái niệm và làm  
trước các bài tập phần luyện tập.
Nếu xét thấy nội dung nào quá khó với năng lực của học sinh, tôi sẽ phân 
chia công việc theo từng nhóm để các em trao đổi, thảo luận, giúp đỡ những bạn  
yếu hơn. Giáo viên cần chú ý để tránh tạo áp lực về điểm số cho học sinh. Học  
bài cũ, chuẩn bị bài mới mục đích chính là tạo tâm thế  để  học sinh tiếp thu bài  
tốt hơn.
2. Các giải pháp:
2.1. Soạn giảng và đổi mới phương pháp dạy học


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
 môn Ngữ văn 6

Đây là giải pháp quan trọng nhất để  nâng cao chất lượng dạy học nói 
riêng, chất lượng giáo dục nói chung. Dù dạy – học là hai hoạt động có tính độc 
lập tương đối nhưng lại là hai mặt của một quá trình: giáo viên truyền đạt kiến  

thức, kỹ năng, hình thành, bồi dưỡng nhân cách, tình cảm cho học sinh, học sinh  
là người lĩnh hội, làm chủ kiến thức. Đổi mới phương pháp dạy học  là yêu cầu  
bắt buộc, người giáo viên phải thực sự không ngừng học hỏi, dám nghĩ dám làm, 
chấp nhận rủi ro và rút kinh nghiệm từ thất bại. Tuy nhiên, với suy nghĩ của cá 
nhân, tôi cho rằng, đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ hoàn  
toàn phương pháp truyền thống, mà cần biết kế  thừa, phát huy trên cơ  sở  vận 
dụng phương pháp mới một cách sáng tạo, có hiệu quả như:
2.1.1. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng sơ đồ tư duy  
vào giảng dạy
Công nghệ thông tin là một phương tiện dạy học hiện đại với những tính 
năng ưu việt, tiện ích nổi trội của nó so với các phương tiện dạy học khác. Giáo 
án điện tử là bước cải tiến lớn giúp giáo viên mang lại cho  học sinh nhiều thông 
tin hơn và các thông tin đó có thể  được chứa đựng trong nhiều kênh khác nhau  
như văn bản, hình ảnh, âm thanh và các đoạn video. Có thể nói, công nghệ thông  
tin đã cung cấp điều kiện và phương tiện thuận lợi hỗ trợ đắc lực cho công việc  
giảng dạy của giáo viên  môn Ngữ  văn nói riêng, các bộ  môn khác nói chung. 
Trong thực tế  giảng dạy của mình, tôi nhận thấy với những tiết học có sự  hỗ 
trợ của công nghệ thông tin, học sinh tỏ ra rất hào hứng, chăm chú khi được trực 
quan bằng những hình ảnh liên quan. Và vì thế, các em cũng nắm bài, nhớ được  
nội dung bài học tốt hơn rất nhiều. 
Khi có sự hỗ trợ công nghệ thông tin, ta cần chú trọng lồng ghép phương  
pháp sử  dụng sơ  đồ  tư  duy vào phần củng cố  ­ đây  là cách làm hiệu quả, giúp 
học sinh nắm nội dung bài học một cách khái quát nhưng rất đầy đủ. Tôi thường  
dành 5 phút cuối giờ, yêu cầu các nhóm vẽ sơ  đồ  tư  duy cho bài học sau đó để 
các em tự trình bày cách hiểu của mình về nội dung bài học, rồi có thể đối chiếu  
với bảng sơ đồ tư duy giáo viên chiếu lên bảng. Với cách này, tôi không chỉ tạo  
cho các em sự  thích thú khi được tự  tay thiết kế  một sản phẩm, mà còn rèn 
luyện tư  duy chọn lọc thông tin, từ  ngữ, sắp xếp bố  cục để  ghi nội dung cần  
thiết và logic nhất.
2.1.2. Tích cực dạy học theo chủ  đề  tích hợp và  áp dụng giáo dục an  

ninh quốc phòng

                                                          Trang  9


Đây được coi là nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy 
học môn Ngữ  văn nói riêng để  phát huy tính tích cực của học sinh và nâng cao  
chất lượng giáo dục.  Nội dung tích hợp cần tập trung vàonhững điểm quy tụ, 
liên kết nội dung ba phân môn: Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn trong văn bản 
để  xây dựng các tình huống tích hợp và các hoạt động phức hợp tương  ứng 
nhằm giúp học sinh  tích hợp tri thức và kĩ năng trong khi xử lí tình huống. Đó có  
thể là những từ ngữ, câu thơ, đoạn văn, những chi tiết, hình tượng, các sự kiện,  
quan hệ, tình huống mà muốn cảm hiểu, cắt nghĩa, đánh giá đòi hỏi phải vận  
dụng tri thức liên văn bản, phải tổng hợp hiểu biết nhiều mặt về  lịch sử, văn 
hóa, xã hội, văn học, ngôn ngữ. Đó còn có thể  là tích hợp kiến thức những bộ 
môn khác như lịch sử, địa lí, giáo dục công dân... Bằng cách tổ chức, thiết kế các 
nội dung, tình huống tích hợp để   học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ 
năng riêng rẽ của các phân môn vào giải quyết vấn đề đặt ra, qua đó lĩnh hội các  
kiến thức và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp. Với cách làm này, giáo viên vừa 
tạo được sự  hào hứng của các em với môn học, giúp các em tích hợp các kiến 
thức và kĩ năng đã lĩnh hội,xác lập mối liên hệ giữa các tri thức và kĩ năng thuộc  
môn Ngữ văn với các môn khác.
Ở năm học 2018­2019, Phòng giáo dục và đào tạo huyện  Krông Ana đã triển 
khai việc dạy lồng ghép“An ninh quốc phòng” vào giảng dạy. Sau khi được tập  
huấn và có sự thống nhất trong tổ bộ môn, tôi đã mạnh dạn đưa vào chương trình  
học của học sinh. Bên cạnh nội dung đã được định hướng ở một số văn bản tôi còn  
mở rộng, liên hệ thực tế nhằm giáo dục ý thức công dân cho các em. 
Ví dụ: Chương trình Ngữ văn 6 học kì 1 lồng ghép giáo dục An Ninh – Quốc 
Phòng ở các văn bản: Con Rồng cháuTiên, Thánh Gióng, Sự tích hồ Gươm. Ngoài 
nội dung đã có định hướng tôi giảng giải giúp các em tự  hào về  quê hương đất  

nước mình, về  trách nhiệm góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững 
mạnh để bảo vệ đất nước.
2.1.3. Dạy học trải nghiệm sáng tạo
Đây là một hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên ­  
từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác  
nhau. Qua đó phát triển năng lực, phát huy tiềm năng sáng tạo của các nhân.
Trong năm học 2017 – 2018, bản thân tôi được tập huấn về việc dạy học trải 
nghiệm sáng tạo theo định hướng năng lực cho giáo viên do Phòng giáo dục và đào 
tạo huyện Krông Ana tổ chức, sau đó tôi về có triển khai và thấy kết quả khả quan.  
Sang năm học 2018 – 2019, nhận thấy đây là một trong những nội dung không thể 
thiếu, tôi đã lên kế hoạch ngay từ đầu năm và đưa vào áp dụng. 


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
 môn Ngữ văn 6

Ví dụ: Với chủ đề “Sân khấu hóa truyện dân gian”. Khi bắt đầu học truyện  
cổ  tích và truyện cười, tôi hướng dẫn học sinh cách thức làm việc, lắng nghe  
nguyện vọng của học sinh để  học sinh tự tư duy sáng tạo, giao việc và định hình 
về một tiết thực hành sau khi học xong bài học. Cuối cùng là chọn thời điểm (có  
thể là tiết ngoại khóa: hoạt động ngoài giờ lên lớp hay sinh hoạt lớp) để học sinh 
thực hành ngay trên lớp.
Hình ảnh minh họa của các nhóm khi thực hành  tiết “ Trải nghiệm sáng tạo”

                                                          Trang  11


2.1.4. Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh



Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
 môn Ngữ văn 6

Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ  chương  
trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là 
từ quan tâm đến việc HS học được cái gì đến quan tâm HS vận dụng được cái gì  
qua việc học. Để  đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ  phương  
pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng 
kiến thức, rèn luyện kỹ  năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường 
việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên ­ học sinh theo hướng cộng  
tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học  
tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung  
các chủ  đề  học tập tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các  
vấn đề phức hợp.
Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh là sự  kết hợp linh hoạt  
phương pháp – kỹ thuật dạy học tích cực với phương pháp truyền thống, đồng thời 
với việc sử  dụng các phương tiện kỹ  thuật phù hợp với môn học, kiểu bài. Chú  
trọng nhiều đến khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề của học sinh.
Ví dụ: Sau khi hướng dẫn đọc thêm văn bản “Con Rồng cháu Tiên”, tôi giúp 
học sinh củng cố bằng sơ đồ tư duy:
Bài tập về  nhà là học sinh vẽ  sơ  đồ  tư  duy nội dung văn bản “Con Rồng  
cháu Tiên”. Khi kiểm tra bài tập các em tôi đánh giá cao ý tưởng sử  dụng đường 
nét, hình ảnh, màu sắc ... để thể hiện nội dung. Chỉ có các chi tiết, sự việc là bám  
sát văn bản, còn ý tưởng thì không có quy định nào. Học sinh rất hào hứng trong  
việc tìm tòi ý tưởng để thể hiện nội dung nên các em hứng thú hơn với môn Ngữ 
văn.
2.2. Linh hoạt trong kiểm tra, đánh giá
Khi kiểm tra để  lấy điểm miệng, không nên cứng nhắc là kiểm tra vào 
đầu tiết học. Việc kiểm tra có thể linh hoạt chuyển đổi giữa tiết, hoặc cuối tiết  
học. Cũng có thể cho điểm trong quá trình học bài mới, khi học sinh trả lời tốt,  

tích cực tham gia xây dựng bài.
Khi kiểm tra 15 phút  hoặc kiểm tra định kì, cần có sự phân loại đối tượng  
học sinh, không nên ra những câu hỏi đánh đố hay những câu hỏi ngoài kiến thức  
sách giáo khoa. Tôi thường ra đề thi có sự phân hóa đối tượng học sinh. Mức độ 
nhận biết, thông hiểu, vận dụng  ở  cấp độ  dễ  chiếm 60­70% tổng số  điểm bài 
thi, câu hỏi khó, hoặc câu hỏi vận dụng cấp độ  cao chiếm 30­40%. Với những  
đề như vậy, học sinh yếu cũng có thể làm được 4­5 điểm, điều đó sẽ không tạo 
                                                          Trang  13


ra sự chán nản hay thất vọng hoàn toàn với những em có học lực yếu. Cùng với 
những lời động viên, khuyến khích kịp thời, những con điểm đó còn khích lệ tinh 
thần cho các em, để các em cố gắng hơn trong những bài kiểm tra sau.
Khi chấm bài, bên cạnh đòi hỏi phải chấm chính xác theo yêu cầu đề  ra 
được thể  hiện rõ qua điểm số, còn cần chấm sự  sáng tạo, tình cảm chân thành 
của học sinh để  động viên, khích lệ. Tôi thường chỉ  ra cụ  thể  lỗi sai, sửa trực 
tiếp trên bài kiểm tra và có những nhận xét, bổ sung để học sinh thấy được hạn  
chế của mình để khắc phục lần sau.
2.3. Giáo viên cần làm chủ kiến thức
Điều quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và học là giáo 
viên phải có kiến thức vững vàng, thông suốt, đảm bảo kiến thức chuyên môn, 
làm chủ được phương pháp trong từng bài giảng, tránh trường hợp bị động, lung 
túng trong quá trình dạy học. Điều này sẽ  khiến cho học sinh quy phục và sẽ 
hứng thú học tập với giáo viên bộ môn đó. Muốn vậy, chúng ta cần không ngừng  
tìm tòi, học hỏi, nâng cao trình độ  chuyên môn, nghiệp vụ. Trước mỗi giờ  lên 
lớp, cần phải soạn giảng cẩn thận, bài bản, kĩ càng, chu đáo và làm chủ  kiến 
thức. Như vậy, ta đã thành công một nửa.
Giáo án minh họa:
Tuần 2


           Ngày soạn: 

Tiết PPCT: 5

 Ngày dạy: 

THÁNH GIÓNG
(Truyền thuyết)

A/MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
   Giúp HS:
1. Kiến thức:
      ­ Nắm được nội dung ý nghĩa và một số nét nghệ thuật tiêu biểu của truyện  
Thánh Gióng.
2. Kĩ Năng:
    ­ Kể lại được truyện.
    ­ RLKN: Bước đầu nhận biết, phân tích truyện truyền thuyết
3. Thái độ:
      ­GDHS: Tinh thần đoàn kết, ý thức dân tộc và ý chí đấu tranh bảo vêh đất  
nước. Thấy được sức mạnh đánh giặc của dân tộc ta từ xưa đến nay.


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
 môn Ngữ văn 6

B/ PHƯƠNG PHÁP/ KĨ THUẬT DẠY HỌC:
­

Phương pháp quan sát trực quan, vấn đáp,  hoạt động nhóm…


­

KT “trình bày một phút”, Đọc hợp tác,…

­

Sử  dụng các dạng câu hỏi: Nêu vấn đề, tái hiện, yêu cầu có sự  so sánh đối 
chiếu, ứng dụng và liên hệ…

C/ CHUẨN BỊ:
1. GV: Giáo án, SGK, SGV, tranh về Thánh Gióng, giấy A4
2. HS: soạn bài, vở ghi
D/ CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ NỘI DUNG HỌC TẬP
1. Ổn định tổ chức:  
2. Kiểm tra bài cũ:
(?) Nêu ý nghĩa truyện Con Rồng cháu Tiên?
­  Kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh.
3. Bài mới:
 Chủ đề đánh giặc cứu nước thắng lợi là chủ đề lớn, cơ bản, xuyên suốt lịch 
sử văn học VN nói chung, văn học dân gian VN nói riêng. Thánh Gióng là truyện 
dân gian thể hiện rất tiêu biểu độc đáo chủ đề này. Truyện cho chúng ta biết về 
sức mạnh đánh giặc có từ rất sớm của người Việt cổ và sức mạnh này luôn theo  
mỗi con người VN trong công cuộc đánh giặc cứu nước.
Hoạt động của thầy và trò
 Hoạt động 1

Nội dung kiến thức
I/ Đọc ­ hiểu văn bản:

­ GV gọi HS đọc tác phẩm. Đọc giọng: Rõ ràng,        1.   Đọc   –   Tìm   hiểu 

mạch lạc. 
chung:
­ HS đọc và GV nhận xét cách đọc của mỗi HS.

­ Đọc, tóm tắt

? Văn bản thuộc thể loại gì?

­ Tìm hiểu từ khó

? PTBĐ chính mà tác giả sử dụng là gì?

 ­ Thể loại:Truyền thuyết

?Văn bản có bố cục mấy phần? Nội dung của từng     ­ PTBĐ: Tự sự
phần? 
  ­ Bố cục: 4 phần
                                                          Trang  15


 ­ Đ1: từ đầu … “nằm đấy”:sự ra đời của Gióng
  ­ Đ2:  “Bấy giờ  … cứu nước”:  Gióng đòi đi đánh 
giặc
 ­ Đ3: “Giặc đã đến … lên trời”: Gióng đánh giặc
 ­ Đ4: Phần còn lại: Những dấu tích còn lại.
  ? Truyền thuyết Thánh Gióng có những nhân vật 
nào? Ai là nhân vật chính? 
­  Hai vợ  chồng ông lão, cậu Gióng, sứ  giả, nhân 
dân,…
­ Nhân vật chính: Thánh Gióng


2. Tìm hiểu văn bản:

? Theo dõi  văn bản, em thấy những chi tiết nào kể      a. Sự ra đời của Thánh 
Gióng.
về sự ra đời và lớn lên của Thánh Gióng?
(Hs trả lời)

­ Bà mẹ ướm chân thụ thai 
12 tháng mới sinh

? Một đứa bé được sinh ra như  thế  là bình thường   ­ Cậu bé lên 3 không biết 
nói biết cười
hay kì lạ?
­ Kì lạ, khác thường. Bình thường người phụ  nữ   Kì lạ, khác thường
chỉ   mang   thai   9   tháng   10   ngày   nhưng   bà   mẹ   TG 
mang thai 12 tháng mới đẻ. Hơn nữa khi sinh ra cậu 
có mặt mũi khôi ngô nhưng lên ba mà vẫn chưa 
biết nói, biết cười cứ đặt đâu thì ngồi đó
? Câu hỏi thảo luận: Nhân vật Thánh Gióng được  
xây dựng bằng nhiều chi tiết tưởng tượng, kì  ảo  
như vậy có ý nghĩ gì ?
Định hướng:
­ Một đứa bé như thế nhất định phải là người khác 
thường, phi thường. Thứ  hai lên ba tuổi mà không 
biết nói thì khi nói lời đầu tiên phải là lời thiêng 
liêng quan trọng khác thường.
    b.   Gióng   đòi   đi   đánh 
? Thánh Gióng cất tiếng nói khi nào.?
giặc.

­Thánh Gióng cất tiếng nói khi đất nước lâm nguy  ­   Tiếng   nói   đầu   tiên   là 
cần người tài giỏi đánh giặc
tiếng nói đòi đi đánh giặc
? Tiếng nói đầu tiên của Gióng là gì ? Hãy trình   ­> Biểu lộ  lòng yêu nước 


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
 môn Ngữ văn 6

bày hiểu biết của em về  ý nghĩa của chi tiết này ?

sâu sắc của TG

­ Tiếng nói đầu tiên của Thánh Gióng là tiếng nói 
đòi đi đánh giặc
­ Biểu lộ  lòng yêu nước sâu sắc của TG. TG đang 
nằm   một   chỗ   chẳng   nói   chẳng   cười,   vừa   nghe 
tiếng sứ giả kêu gọi người ra cứu nước thì lập tức  
cậu bé ngồi bật dậy, lại nói luôn được rành rọt, 
dõng dạc đâu ra đó. Điều này cho thấy TG là biểu 
­   Đòi   ngựa   sắt   ,   roi   sắt, 
tượng cho những người dân bình dị, bình thường thì 
giáp sắt
chăm chỉ  làm ăn nhưng khi tổ  quốc lâm nguy thì 
vùng lên mạnh mẽ để bảo vệ tổ quốc
? Thánh Gióng đòi những gì để ra trận?
  Đánh giặc cần có lòng 
yêu nước, nhưng cần cả vũ 
? Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc. 
khí sắc bén để  đánh thắng 

điều này có ý nghĩa gì?
giặc
­ Đánh giặc cần có lòng yêu nước, nhưng cần cả vũ 
khí sắc bén để  đánh thắng giặc. Đồng thời phản 
ánh thành tựu của nền văn minh dân tộc
­ Đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt

? Để  có được những vũ khí đó một người có làm  
được không. Điều đó được chứng minh trong văn  
bản như thế nào ?
­ Không, phải huy động công sức của toàn dân. “ 
Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp”
? Vua đã lập tức cho rèn ngựa sắt, áo giáp sắt…  
theo đúng yêu cầu cầu của Gióng. Nó có ý nghĩa gì?
­ Gióng là người thực hiện ý chí  và sức mạnh của  
toàn dân tộc.
­ Gióng lớn nhanh như thổi 
cơm   ăn   mấy   cũng   không 
? Sau khi gặp sứ giả sự việc kì lạ gì đã xảy ra ?
­ Từ sau hôm gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi   no,   áo   vừa   mặc   xong   đã 
cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã  căng đứt chỉ.
căng đứt chỉ.

?  Trong nhân dân còn truyền tụng những câu ca  
                                                          Trang  17


dao nói về sức ăn uống phi thường của Gióng:
“ Bảy nong cơm, ba nong cà
    Uống một hơi nước, cạn đà khúc sông”

Điều đó nói lên suy nghĩ và  ước mong gì của nhân  
dân về người anh hùng đánh giặc?
­ Người anh hùng là người khổng lồ  trong mọi sự 
việc kể cả sự ăn uống. Điều đó cũng phản ánh ước 
mong Gióng lớn nhanh để kịp đánh giặc.
? Những người  nuôi  Gióng lớn là ai? Nuôi bằng  ­   Dân   làng   gom   góp   gạo 
nuôi Gióng.
cách nào?
­ Cha mẹ và bà con làng xóm vui lòng gom góp gạo 
nuôi Gióng.
 Sức mạnh của Gióng là 
?  Chi tiết bà con làng xóm vui lòng gom góp gạo  sức   mạnh   của   cả   cộng 
đồng
nuôi Gióng có ý nghĩa gì?
­ Anh hùng Gióng thuộc về  nhân dân. Sức mạnh 
của Gióng là sức mạnh của cả cộng đồng.
? Sau khi được dân làng góp gạo nuôi, Gióng trở 
thành người như thế nào?
­ Vươn vai một cái thành tráng sĩ   oai phong lẫm  
liệt.
?   Em   suy   nghĩ   ntn   về   cái   vươn   vai   thần   kì   của  
Thánh Gióng?
­ Là cái vươn vai phi thường, là ước mong của nhân 
dân về người anh hùng đánh giặc.
* Giảng: là một yếu tố  thần kì trong truyện dân 
gian. Người anh hùng là người đạt tới sự khổng lồ, 
cái vươn vai của Gióng là để  đạt tới sự  khổng lồ        c.   Gióng   đánh   thắng 
giặc và trở về trời:
ấy…
­ Đón đầu đánh hết lớp này 

? Gióng đánh giặc như thế nào ?
đến   lớp   khác,   giặc   chết 
­ Đón đầu đánh hết lớp này đến lớp khác, giặc chết 
như rạ
như rạ
­ Roi sắt bị gãy, Gióng nhổ 
? Trong khi đánh giặc sự  việc gì đã xảy ra, Thánh 
những cụm tre bên đường 
Gióng xử lí việc đó như thế nào ?
quật vào giặc


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
 môn Ngữ văn 6

­   Roi   sắt   bị   gãy,   Gióng   nhổ   những   cụm   tre   bên 
đường quật vào giặc
­   Gióng   đánh   giặc   không 
? Theo em, chi tiết “ Gióng nhổ những cụm tre bên  chỉ   bằng   vũ   khí   mà   còn 
đường quật vào giặc” khi roi sắt gãy có ý nghĩa gì? bằng những thứ dân dã đời 
­ Gióng đánh giặc không chỉ  bằng vũ khí mà còn  thường 
bằng những thứ  dân dã đời thường. Thể  hiện tinh  Tinh   thần   tiến   công 
thần tiến công mãnh liệt của người anh hùng.
mãnh   liệt   của   người   anh 
Gv liên hệ:  Ở  nước ta, đến cả  cây cỏ  cũng thành  hùng.
vũ khí giết kẻ  thù, đúng như   lời Bác Hồ  : “Ai có 
súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm. Ai không  
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc …”
? Vì sao đánh tan giặc, Gióng cởi áo giáp sắt để lại  
và bay về trời? theo em chi tiết này có ý nghĩa gì?

 ­  Gióng ra đời phi thường và ra đi cũng phi thường 
 Làm việc nghĩa vô tư không vì vinh hoa phú quí. ­ Đánh tan giặc, Gióng cởi 
­ Nhân dân muốn giữ mãi hình ảnh cao đẹp, rực rỡ  áo   giáp   để   lại   và   bay   về 
trời.   Là   người   có   công 
của người anh hùng cứu nước.
đánh   giặc   nhưng   không 
GV đặt câu hỏi liên hệ  thực tế  phát triển năng  màng danh vọng.
lực HS:
? Truyền thuyết thường liên quan đến lịch sử. Theo 
em, những di tích nào còn lưu lại ?
  ­  Tre  đằng  ngà,   vết   chân  ngựa,  đền  thờ   ở  làng 
Gióng
? Hãy nêu ý nghĩa của truyện Thánh Gióng?
  Cuối cùng GV chỉ  định 1 HS đọc to phần Ghi  * Ghi nhớ ­ SGK
nhớ để nắm kĩ nội dung bài học.
II. Luyện tập.
 Hoạt động 3
Bài tập 1:
­

Gv hướng dẫn hs làm bài

Học sinh tự  bộc lộ  và giải 
? Hình  ảnh nào của Gióng là hình  ảnh đẹp nhất  thích 
trong tâm trí em? Nêu lí do?
Bài tập 2
­   Đây là hội thi dành cho 
                                                          Trang  19



lứa   tuổi   thiếu   niên   –   lứa 
? Theo em, tại sao hội thi nhà trường phổ thông lại  tuổi Gióng. 
mang tên Hội khoẻ Phù Đổng?
­  Mục đích của hội thi là 
khoẻ mạnh, sức mạnh để 
học sinh có thể học tập 
tốt, lao động tốt góp phần 
vào sự nghiệp bảo vệ đất 
nước.
4. Củng cố:  GV hướng dẫn HS củng cố  bài bằng sơ  đồ  tư  duy nội dung văn 
bản.
5. Dặn dò:
­ Đọc lại tác phẩm. Xem nội dung bài. 
 ­ Học thuộc phần Ghi nhớ. Vẽ sơ đồ tư duy nội dung văn bản theo cách của em.
­ Soạn bài “ Từ mượn”.
IV. Tính mới của giải pháp
Có thể với những giải pháp trên đây nhiều giáo viên cũng đã từng áp dụng  
nhưng riêng bản thân tôi, khi được tập huấn và đưa vào áp dụng trong các tiết  
học, tôi nhận thấy những điểm mới ở đề tài này đề cập là: 
­ Các giải pháp tôi đưa ra đây có quan hệ mật thiết không tách rời, sự kết 
hợp đồng bộ  các giải pháp sẽ  mang lại hiệu quả  cao trong việc khơi gợi niềm  
đam mê của học sinh với bộ môn Ngữ Văn.
­ Học sinh đã hứng thú hơn khi được học những tiết có ứng dụng CNTT.  
Học sinh tự  do sáng tạo vẽ  sơ  đồ  tư  duy nội dung bài học theo suy nghĩ của  
mình.
­ Hay trong tiết trải nghiệm sáng tạo học sinh có thể  tự  biến hóa mình 
thành những nhân vật yêu thích trong văn học. Qua đó các em cũng tự tin và hứng 
thú hơn rất nhiều khi đến tiết văn.
­ Khi dạy học phát triển năng lực học sinh thì các em được thể hiện mình, 
được làm chủ kiến thức. Từ đó, giáo viên sẽ tìm kiếm và phát triển được những  

học sinh có năng khiếu của bộ môn một cách rõ nét.
V. Kết quả khảo nghiệm


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
 môn Ngữ văn 6

Với những biện pháp trên đây, chất lượng bộ  môn trong hai năm học qua  
đã được nâng cao rõ rệt. 
Năm học 2017 – 2018:

­
Năm 
h ọc
2017­
2018

Lớp

Sĩ số

6A1
6A7
Tổng 
cộng

Điểm

Ghi chú


Giỏi

Khá

29
36

2
7

5
15

Trung 
bình
16
14

65

9

20

Tỉ lệ

13,5%

32%


Yếu

Kém

4
0

0
0

30

4

0

47,5%

7%

0%

Đặc biệt trong học kì một (năm học 2018­2019) cụ thể:

­
Năm 
h ọc
2018­
2019


Lớp

Sĩ số

6A3
6A6
Tổng 
cộng

Điểm

Ghi chú

Giỏi

Khá

26
35

1
8

3
12

Trung 
bình
19
15


61

9

15

34

14,6%

24,4%

Tỉ lệ

56%

Yếu

Kém

3
0

0
0

3

0


5%

0%

Qua kết quả thống kê điểm của học sinh qua các bài kiểm tra, tôi nhận thấy rằng 
chất lượng học tập bộ môn Ngữ văn được tăng lên rõ rệt, tỉ lệ học sinh  bị điểm yếu, 
kém đã giảm đi đáng kể, cụ thể như sau:
Năm học 2017­ 2018: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 93%
Năm học 2018­ 2019: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 95%

Với kì thi học sinh giỏi văn hóa cấp huyện vừa qua (năm học 2018 ­2019) 
học sinh do tôi trực tiếp giảng dạy đạt 1 giải nhì, 2 giải ba. Điều đó cho thấy 
tính hiệu quả của đề tài khá tốt. Có được kết quả này phần quan trọng là do học  
sinh đã có hứng thú với bộ môn Ngữ văn.

                                                          Trang  21


PHẦN THỨ 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1.

Kết luận

Với những giải pháp đưa ra trên đây, tôi tin rằng nó phù hợp với điều kiện 
thực tế  giảng dạy  ở  trường tôi nói riêng, các trường bạn trên địa bàn huyện  
Krông Ana, kể cả  ở nhiều cấp học. Đề  tài là kết quả của quá trình nghiên cứu, 
tìm hiểu đặc điểm học sinh nơi tôi đang công tác giảng dạy và còn có những ý  
kiến, thảo luận từ các đồng nghiệp nên tôi tin rằng nó giá trị tham khảo, học tập 
không chỉ đối với giáo viên môn Ngữ văn mà còn cho các giáo viên bộ môn khác.

2. Kiến nghị

a. Đối với phòng giáo dục
Với mong muốn thực hiện có hiệu quả những giải pháp để nâng cao chất 
lượng bộ môn, tôi xin đề xuất một vài ý kiến nhỏ với cấp trên:
Cần cung cấp thêm những thiết bị  dạy học như  sách tham khảo, nghiên 
cứu, tranh ảnh, đặc biệt là máy chiếu, tiến tới mỗi phòng học có một máy chiếu,  
giúp giáo viên  ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học một cách thuận tiện, 
hiệu quả nhất.
Tổ  chức nhiều buổi ngoại khóa. Hoạt động này vừa giúp các em có thêm 
kiến thức vừa giúp các em thoải mái, có hứng thú hơn trong học tập. Đồng thời  
còn rèn cho các em kĩ năng sống, hoạt động tập thể. 
Thường   xuyên   tổ   chức   các   chuyên   đề   về   môn   Ngữ   văn   để   nâng   cao 
chuyên môn, để giải quyết những vấn đề khó, xây dựng cách dạy hiệu quả của  
một bài, một vấn đề cụ thể nào đó.
b.

Đối với nhà trường

Cần  tổ  chức  thường  xuyên hơn nữa  những buổi sinh  hoạt chuyên  môn 
nhằm chia sẻ  một số  kinh nghiệm giảng dạy của những giáo viên có năng lực 
chuyên môn vững vàng, để  giáo viên trong trường học hỏi để  ngày một hoàn 
thiện phương pháp giảng dạy của mình.
Eana, ngày 23/04/2019
    Người thực hiện

Phạm Thị Thu Huyền


Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng

 môn Ngữ văn 6

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 6

2.

Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004–
2007) môn ngữ văn – quyển 1 và 2 – NXB Giáo dục

3.

Phương pháp dạy học ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và 
tích cực – Đoàn Thị Kim Nhung  ­ NXB Đại học quốc gia TPHCM

4.

Bài viết “Vai trò của văn học trong sáng tạo văn hóa” của nhà nghiên 
cứu Trần Đình Sử.

Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng tải thông tin theo nguồn internet

                                                          Trang  23


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

……………………………………………………………………

……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN



×