Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Nhà văn M.Gorki từng nói “Văn học là nhân học”, văn học là cuộc sống –
thông qua ngôn từ và hình tượng nghệ thuật sinh động, nó cung cấp cho con
người kiến thức về cuộc sống cũng như khám phá cái đẹp trong tâm hồn con
người. Đến với văn học chúng ta tìm thấy vẻ đẹp nhân văn qua mỗi sự vật, hình
tượng trong tác phẩm mà từ đó tác động tâm tư tình cảm, góp phần để hình
thành và phát triển nhân cách. Vậy nhưng, không phải ai cũng hiểu vai trò của
văn chương trong đời sống con người, hiện nay giá trị văn học đang dần bị lãng
quên. Nhất là với học sinh. Xu hướng xem nhẹ các môn xã hội nói chung, môn
Ngữ văn nói riêng là điều mà bất cứ giáo viên đứng lớp nào cũng có thể dễ dàng
cảm nhận. Học sinh học Văn như một sự bắt buộc để đủ điều kiện lên lớp hay
để có được tấm bằng tốt nghiệp cuối cấp chứ không phải bởi sự đam mê. Học
văn là phải đọc, thậm chí là đọc đi đọc lại nhiều lần, phải ngẫm nghĩ, tìm tòi,
liên hệ…Có lẽ vì vậy mà học sinh đang dần dần “quen” môn Văn.
Tác phẩm văn chương là bức tranh về cuộc sống, con người trong lao
động, trong đấu tranh được tái hiện một cách chuẩn xác mà không hề khô khan,
tẻ nhạt. Học văn, bên cạnh cái cơ bản là học về ngôn ngữ, tiếng nói văn chương
của tiếng Việt để có thể nói, viết, xây dựng ngôn ngữ diễn đạt cho riêng mình
thì còn học về văn hóa, tình cảm, tư duy nghệ thuật của nhân loại thông qua
những tác phẩm văn chương đặc sắc. Và từ đây, ta học cách làm người, học
cách chia sẻ, yêu thương.Văn học giúp ta bồi dưỡng tình đời, tình người, làm cho
tâm hồn tình cảm thêm phong phú, nhạy cảm. Học tốt môn văn là nền tảng vững
chắc giúp các em tự tin trong giao tiếp hàng ngày, góp phần cho những thành
công trong cuộc sống mai sau.
Để học sinh thấy được giá trị to lớn của văn học, để thắp sáng và thổi
bùng ngọn lửa đam mê văn học trong các em, từ đó nâng cao chất lượng bộ môn
Ngữ Văn, bản thân tôi đã luôn không ngừng nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, thực hiện
những biện pháp phù hợp với đối tượng học sinh lớp 6 và bước đầu nhận thấy
được những chuyển biến rất tích cực. Các em trở nên hào hứng hơn với các tiết
văn, tích cực hơn trong việc học bài ở nhà, chuẩn bị bài trước khi đến lớp nên
chất lượng bộ môn cũng được nâng cao. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Một số giải
pháp nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn 6” với mong muốn được chia sẻ
những kinh nghiệm riêng của cá nhân trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ
văn.
Trang 1
II. Mục đích nghiên cứu
Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp để nâng cao chất lượng
bộ môn Ngữ Văn 6”, bản thân tôi muốn bày tỏ những suy nghĩ, trăn trở của mình
về thực trạng việc dạy và học môn Ngữ văn 6 hiện nay, đồng thời cũng mạnh
dạn đề xuất những giải pháp được rút ra từ thực tiễn giảng dạy của mình. Thực
sự tôi rất mong được các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệm, trao
đổi, bàn luận để tìm ra những giải pháp tối ưu nhất, giúp học sinh có cái nhìn
đúng đắn hơn về giá trị của môn học, say mê, hứng thú với bộ môn, từ đó nâng
cao chất lượng hiệu quả của môn Ngữ văn. Mục đích cụ thể mà đề tài hướng
đến là:
Tìm hiểu thực trạng thái độ của học sinh với môn học Ngữ Văn và chất
lượng của bộ môn này.
Phát hiện những nguyên nhân dẫn đến chất lượng bộ môn Ngữ văn chưa
cao.
Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ
văn.
Rút ra những bài học kinh nghiệm riêng cho bản thân để vận dụng vào
việc giảng dạy Ngữ văn ở các khối lớp để nâng cao chất lượng của bộ
môn này
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp 6A1, 6A7 năm học
20172018 và học sinh lớp 6A3, 6A6 của học kì 1 năm học 20182019 tại trường
THCS Nguyễn Trãi.
2. Phạm vi của đề tài
Đề tài nghiên cứu tập trung vào một số giải pháp mới để giúp học sinh có
cái nhìn đúng đắn hơn về giá trị của môn học, say mê, hứng thú với bộ môn, từ
đó nâng cao chất lượng hiệu quả của môn Ngữ văn 6.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Định hướng cách tân biện pháp dạy và học đã được chính xác trong quyết
nghị Trung ương 4 khóa VII (1 – 1993), quyết nghị Trung ương 2 khóa VIII (12 –
1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 – 1998), được cụ thể hóa trong
các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo , đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 – 1999). Văn
Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiêp t
́ ục khẳng định “giáo dục là quốc
sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
nhân lực, bồi dưỡng nhân tai. Chuy
̀
ển mạnh quá trinh giáo d
̀
ục chủ yếu từ trang
bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi
đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn”.
Trước hết ta phải hiểu rõ được bản chất của những phương pháp dạy
học mới đó là:
Dạy học theo hướng trải nghiệm sáng tạo
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự
hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia
trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà
trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát
triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo
của cá nhân mình. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng
môn học.
Phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực
Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có
nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về PPDH. Trong tài liệu này, PPDH
được hiểu là cách thức, là con đường hoạt động chung giữa giáo viên và học
sinh, trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học.
Kĩ thuật dạy học gồm có: kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ
thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật các mảnh
ghép, kĩ thuật hỏi chuyên gia, kĩ thuật hoàn tất một nhiệm vụ,...
Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách thức hành động của
giáo viên trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá
trình dạy học.
Bản đồ tư duy (sơ đồ tư duy)
Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII khẳng định “Phải đổi mới phương
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp
tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh...”.
Sơ đồ tư duy (SĐTD) sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,
chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỷ
lệ, chi tiết khắt khe và định khuôn sẵn như các loại bản đồ thông dụng khác.
Như vậy cùng một chủ đề, bài học nhưng mỗi người có thể vẽ theo một cách
Trang 3
khác nhau và hoàn toàn có thể thêm hoặc bớt các nhánh dễ dàng. Nếu muốn ghi
chép bằng SĐTD cũng có nhiều ưu điểm hơn như: Lôgíc, mạch lạc; trực quan,
sinh động, dễ nhìn, dễ hiểu; vừa nhìn được tổng thể, vừa biết được chi tiết;
giúp hệ thống hóa kiến thức dễ dàng; và giúp việc ôn tập khoa học, nhớ kiến
thức lâu hơn...
Dạy học phát triển năng lực
Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý
tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải
quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp , đồng
thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường
việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng
tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.
Giáo dục an ninh và quốc phòng
Quốc phòng: là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm
nòng cốt.
An ninh: là tình hình trật tựxã hội bình thường, yên ổn, không có rối loạn.
Giáo dục an ninh và quốc phòng nhằm mục đích hình thành, bồi dưỡng ở
học sinh tình yêu quê hương, đất nước. Giáo dục học sinh ý thức công dân trong
việc bảo vệ xã hội, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh để bảo vệ đất nước.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trong những năm gần đây, rất nhiều những phương phápđổi mới dạy học
được đưa vào áp dụng, nhằm phát huy tối đa tính chủ động, tích cực của học
sinh. Các buổi tập huấn, họp tổ chuyên môn cũng đưa vấn đề phương pháp dạy
học cùng thảo luận, trao đổi nhằm mục đích nâng cao chất lượng bộ môn. Tuy
nhiên, vị thế của môn Văn ngày càng giảm sút, tình trạng học sinh chán học văn
ngày càng tăng thực sự là một vấn đề đáng lo ngại. Từ thực tế giảng dạy, tôi
nhận thấy để dẫn đến tình trạng này do một số nguyên nhân sau:
1.
Đối với người dạy
Nhìn chung, hầu hết các thầy cô đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm
lo quan tâm đến học sinh, tuy nhiên vẫn còn những mặt hạn chế nhất định sau:
+ Nhiều thầy cô ngại đổi mới, có áp dụng phương pháp mới nhưng chậm,
ít hoặc chưa phù hợp với nội dung bài học, phương pháp giảng dạy chưa thực
sự phù hợp với đa phần đối tượng học sinh.
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
+ Nhiều giáo viên còn gặp khó khăn khi chương trình sách giáo khoa mới
với yêu cầu truyền đạt mộtkhối lượng khổng lồ của tri thức nhưng thời gian
thực học của học sinh với bộ môn ngày càng ít.
+ Với đặc thù của bộ môn, các đồ dùng trực quan hầu như không có, tranh
ảnh minh họa trong sách không nhiều.
+ Trong một lớp, mức tiếp thu nội dung bài học của học sinh nhanh, chậm
khác nhau cũng là một rào cản trong việc nâng cao chất lượng bộ môn.
2.
Đối với học sinh
Với địa bàn tập trung lượng dân cư đông đúc, tỉ lệ đồng bào ở các buôn
Eana, buôn Drai, buôn Tơ Lơ phần đa phần điều kiện kinh tế còn khó khăn,
ngoài giờ lên lớp, các em còn phải phụ giúp gia đình, ít dành thời gian cho việc
học. Nhất là vào mùa vụ, sự chuyên cần của các em các giảm.Điều đó càng
khiến cho chất lượng bộ môn càng khó đảm bảo.
+ Ý thức tự học, vượt khó trong học tập của nhiều em chưa cao. Với môn
Văn, tương lai để chọn ngành nghề, kiếm việc cũng khó hơn nên nhiều gia đình
chỉ hướng con em vào các môn học “thời thượng” như Toán, Lí, Hóa, Tiếng Anh.
Vì vậy, không ít học sinh xem nhẹ môn học, không dành thời gian cho bộ môn
này, hoặc có học cũng chỉ là học lấy lệ hoặc đối phó. Điểm này thể hiện rõ ở
việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Có nhiều
em giáo viên hỏi bài cũ cả 4,6 lần thì tất cả cũng chỉ nhận được câu trả lời duy
nhất “Thưa cô, em không thuộc”, “em chưa thuộc”….
+ Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, nhu cầu giải trí như xem
ti vi, chơi game, lướt facebook . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý
thức học bị lôi cuốn, xao nhãng việc học.
+ Lười học, chán học nên học yếu. Học yếu lại càng lười học, chán học,
cứ xoay vòng như một quy luật tất yếu, khiến cho giờ học với các em trở rất
nên nặng nề.
Năm học 20172018, tôi phụ trách giảng dạy môn Văn ở 2 lớp: 6A1,
6A7.Và năm học 20182019 dạy hai lớp: 6A3, 6A6. Dù là học sinh đầu cấp và
mới chỉ là những tuần học đầu tiên, nhưng học sinh đã tỏ ra thờ ơ, không hào
hứng với môn học. Tôi hướng dẫn các em cách soạn bài, học bài, song ở tiết học
mới, có rất ít em chịu thực hiện.
Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I môn Ngữ văn 6 trường THCS
Nguyễn Trãi khi chưa thực hiện đề tài trong hai năm học gần đây như sau:
Trang 5
Năm học 2017 2018:
Lớp
Sĩ số
Năm học
20172018
Điểm
Ghi chú
Giỏi
Khá
Trung
bình
Yếu
Kém
6A1
29
0
1
15
8
5
6A7
36
2
7
17
8
2
Tổng
cộng
65
2
8
32
16
7
Tỉ lệ
3%
12,5%
49%
24,5%
11%
Năm học 2018 – 2019:
Điểm
Năm học
20182019
Lớp
Sĩ số
6A3
Ghi chú
Giỏi
Khá
Trung
bình
Yếu
Kém
26
0
1
14
6
5
6A6
35
2
6
16
9
2
Tổng
cộng
61
2
7
30
15
7
49,3%
24,6%
Tỉ lệ
3,4%
11,3%
11,4%
Từ kết quả thống kê cho thấy kết quả bài kiểm tra định kì của học sinh đối
với bộ môn Ngữ văn vẫn còn thấp cụ thể như sau:
Năm học 2017 2018: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ
64,5%, còn lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Năm học 2018 2019: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ
64%, còn lại là học sinh có điểm yếu và kém.
Vậy làm thế nào để học sinh có hứng thú, tích cực đồng thời phát triển
được tư duy, tìm tòi, óc sáng tạo của học sinh. Xuất phát từ vấn đề đó bên cạnh
việc thực hiện tốt việc dạy học theo hướng đổi mới, bản thân tôi không ngừng
học hỏi, tìm tòi sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau với hi vọng học
sinh sẽ yêu môn Ngữ văn hơn và từ đó nâng cao được chất lượng bộ môn của
mình.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Các bước tiến hành một tiết học:
1.1. Tạo bầu không khí thoải mái, thân thiện khi vào giờ học
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
Trong mỗi tiết học, người đóng vai trò chủ đạo để điều tiết không khí lớp
học chính là giáo viên.Thái độ, tâm lí, tác phong của người đứng lớp có ảnh
hưởng rất lớn đến tâm lí học sinh. Xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh
tích cực” phải bắt đầu từ “Lớp học thân thiện” và “Mỗi thầy cô là một tấm
gương sáng về đạo đức và tự học”. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải luôn mẫu
mực trong thái độ, tác phong, cách ứng xử.
Sự thân thiện, tích cực của giáo viên sẽ tạo nên sự gần gũi, thân tình, yêu
mến ở học sinh, xóa bỏ cảm giác áp lực mỗi khi đến tiết học Ngữ văn. Yêu mến
thầy cô, đồng nghĩa với việc các em có hứng thú với môn học. Ngược lại, nếu
giáo viên tỏ ra lạnh nhạt, thiếu thiện cảm với học sinh thì các em sẽ xa lánh,
không tương tác với những bài học, và đồng nghĩa với việc, mục đích của giáo
dục coi như thất bại.
Cuộc sống của giáo viên cũng như bao nhiêu người khác với những lo
toan, gánh nặng bộn bề của cuộc sống đời thường.Nhưng khi lên lớp, đứng trên
bục giảng, chúng ta phải tự mình điều chỉnh tâm lí, gạt bỏ những lo âu, buồn
bực, bởi những tâm lí nặng nề sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tiết học, đến tâm lí
học sinh. Không làm chủ được cảm xúc, không chỉ không có cảm hứng truyền
tải nội dung bài học, mà còn có thể có những thái độ, hành động không chuẩn
mực, đánh mất hình ảnh của chính mình. Vì thế, tạo một không khí vui vẻ, thân
thiện, nhẹ nhàng là tiền đề quan trọng để tạo hứng thú cho học sinh tiếp thu bài
học.
1.2. Coi trọng việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới
Kiểm tra việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới ở nhà của học sinh phải là
hoạt động mang tính bắt buộc thường nhật của giáo viên khi bắt đầu tiết học.Có
khi tự tôi đi một vòng quanh lớp, yêu cầu các em giở vở soạn lên bàn, có khi cho
chính học sinh kiểm tra chéo nhau, có khi là bằng cách lấy ý thức tự giác, trung
thực của học sinh…Để tránh tình trạng không học bài, soạn bài hoặc có nhưng
chỉ mang tính chất đối phó, lấy lệ, vài tuần, tôi sẽ thu vở kiểm tra, có thể là 510
em, nửa lớp, hoặc cả lớp, có chấm điểm, nhận xét rõ ràng theo hướng động
viên, khích lệ sự cố gắng, nỗ lực của các em để học sinh rút kinh nghiệm trong
các bài soạn sau. Với những học sinh yếu hơn, tôi thường có thêm điểm cộng ở
sau, khi trả bài, tôi sẽ nói luôn ở trước lớp, rằng “những bạn đó có nhiều cố
gắng nên cô đã cộng thêm 1 điểm khuyến khích”.Với những trường hợp không
tiến bộ thì tôi cũng kiểm điểm nghiêm khắc, có những hình thức kỉ luật nhất
định, từ nhẹ nhàng nhắc nhở đến việc viết bản kiểm điểm, mời phụ huynh.
Trang 7
Để việc học bài cũ, soạn bài mới có hiệu quả, điều quan trọng là giáo viên
cần có những hướng dẫn cụ thể cho học sinh tự học.Giúp các em có tinh thần tự
học, phát huy tính chủ động trong việc tìm hiểu nội dung bài học. Vì thế, trong
buổi học đầu tiên của năm học mới, tôi dành một khoảng thời gian cho việc đưa
ra nội quy riêng của bộ môn, trong đó tất nhiên không thể thiếu quy định việc
học bài cũ, chuẩn bị bài mới. Tôi hướng dẫn khái quát cách soạn bài của từng
phân môn: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn để học sinh nắm rõ phương pháp
học ở nhà. Phần dặn dò sau mỗi tiết học, tôi đều dành vài phút để nêu những
hướng dẫn, gợi ý cho việc học bài cũ, soạn bài mới. Với việc học bài cũ, tôi
thường dặn dò các em về xem lại nội dung bài giảng, chỉ ra những nội dung
trọng tâm để học sinh lưu ý nắm vững kiến thức.Với việc yêu cầu học sinh
soạn bài mới, tôi thường cụ thể hóa những yêu cầu của nội dung bài học theo
từng phân môn.
Phần văn bản: Yêu cầu học sinh đọc kĩ văn bản, xem phần chú thích từ
khó để hiểu đúng nội dung; nắm khái quát về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra
đời, bố cục; trả lời các câu hỏi phần Đọc hiểu văn bản, lưu ý về nội dung, nghệ
thuật và ý nghĩa của văn bản. và một số lưu ý cụ thể ở từng bài.
Ví dụ, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài “Bài học đường đời đầu tiên”
của Tô Hoài tôi thường yêu cầu:
+ Tìm hiều thêm về tác giả Tô Hoài và tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí”.
+ Đọc phần chú thích, nắm những nét chính về tác giả, tác phầm; đọc kĩ
đoạn trích, nắm vững các từ khó;tìm các chi tiết miêu tả về ngoại hình, hành
động, tính cách của Dế Mèn; tìm chi tiết thể hiện thái độ của Dế Mèn sau khi
gây ra cái chết cho dế Choắt.
+ Soạn bài theo hệ thống câu hỏi phần Đọc hiểu văn bản trong sách
giáo khoa.
Phần Tiếng Việt và Tập làm văn: Yêu cầu học sinh chú ý trước hết ở
từng mục. Đọc ví dụ, trả lời các câu hỏi để từ đó tự hình thành khái niệm và làm
trước các bài tập phần luyện tập.
Nếu xét thấy nội dung nào quá khó với năng lực của học sinh, tôi sẽ phân
chia công việc theo từng nhóm để các em trao đổi, thảo luận, giúp đỡ những bạn
yếu hơn. Giáo viên cần chú ý để tránh tạo áp lực về điểm số cho học sinh. Học
bài cũ, chuẩn bị bài mới mục đích chính là tạo tâm thế để học sinh tiếp thu bài
tốt hơn.
2. Các giải pháp:
2.1. Soạn giảng và đổi mới phương pháp dạy học
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
Đây là giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng dạy học nói
riêng, chất lượng giáo dục nói chung. Dù dạy – học là hai hoạt động có tính độc
lập tương đối nhưng lại là hai mặt của một quá trình: giáo viên truyền đạt kiến
thức, kỹ năng, hình thành, bồi dưỡng nhân cách, tình cảm cho học sinh, học sinh
là người lĩnh hội, làm chủ kiến thức. Đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu
bắt buộc, người giáo viên phải thực sự không ngừng học hỏi, dám nghĩ dám làm,
chấp nhận rủi ro và rút kinh nghiệm từ thất bại. Tuy nhiên, với suy nghĩ của cá
nhân, tôi cho rằng, đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ hoàn
toàn phương pháp truyền thống, mà cần biết kế thừa, phát huy trên cơ sở vận
dụng phương pháp mới một cách sáng tạo, có hiệu quả như:
2.1.1. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng sơ đồ tư duy
vào giảng dạy
Công nghệ thông tin là một phương tiện dạy học hiện đại với những tính
năng ưu việt, tiện ích nổi trội của nó so với các phương tiện dạy học khác. Giáo
án điện tử là bước cải tiến lớn giúp giáo viên mang lại cho học sinh nhiều thông
tin hơn và các thông tin đó có thể được chứa đựng trong nhiều kênh khác nhau
như văn bản, hình ảnh, âm thanh và các đoạn video. Có thể nói, công nghệ thông
tin đã cung cấp điều kiện và phương tiện thuận lợi hỗ trợ đắc lực cho công việc
giảng dạy của giáo viên môn Ngữ văn nói riêng, các bộ môn khác nói chung.
Trong thực tế giảng dạy của mình, tôi nhận thấy với những tiết học có sự hỗ
trợ của công nghệ thông tin, học sinh tỏ ra rất hào hứng, chăm chú khi được trực
quan bằng những hình ảnh liên quan. Và vì thế, các em cũng nắm bài, nhớ được
nội dung bài học tốt hơn rất nhiều.
Khi có sự hỗ trợ công nghệ thông tin, ta cần chú trọng lồng ghép phương
pháp sử dụng sơ đồ tư duy vào phần củng cố đây là cách làm hiệu quả, giúp
học sinh nắm nội dung bài học một cách khái quát nhưng rất đầy đủ. Tôi thường
dành 5 phút cuối giờ, yêu cầu các nhóm vẽ sơ đồ tư duy cho bài học sau đó để
các em tự trình bày cách hiểu của mình về nội dung bài học, rồi có thể đối chiếu
với bảng sơ đồ tư duy giáo viên chiếu lên bảng. Với cách này, tôi không chỉ tạo
cho các em sự thích thú khi được tự tay thiết kế một sản phẩm, mà còn rèn
luyện tư duy chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi nội dung cần
thiết và logic nhất.
2.1.2. Tích cực dạy học theo chủ đề tích hợp và áp dụng giáo dục an
ninh quốc phòng
Trang 9
Đây được coi là nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy
học môn Ngữ văn nói riêng để phát huy tính tích cực của học sinh và nâng cao
chất lượng giáo dục. Nội dung tích hợp cần tập trung vàonhững điểm quy tụ,
liên kết nội dung ba phân môn: Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn trong văn bản
để xây dựng các tình huống tích hợp và các hoạt động phức hợp tương ứng
nhằm giúp học sinh tích hợp tri thức và kĩ năng trong khi xử lí tình huống. Đó có
thể là những từ ngữ, câu thơ, đoạn văn, những chi tiết, hình tượng, các sự kiện,
quan hệ, tình huống mà muốn cảm hiểu, cắt nghĩa, đánh giá đòi hỏi phải vận
dụng tri thức liên văn bản, phải tổng hợp hiểu biết nhiều mặt về lịch sử, văn
hóa, xã hội, văn học, ngôn ngữ. Đó còn có thể là tích hợp kiến thức những bộ
môn khác như lịch sử, địa lí, giáo dục công dân... Bằng cách tổ chức, thiết kế các
nội dung, tình huống tích hợp để học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ
năng riêng rẽ của các phân môn vào giải quyết vấn đề đặt ra, qua đó lĩnh hội các
kiến thức và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp. Với cách làm này, giáo viên vừa
tạo được sự hào hứng của các em với môn học, giúp các em tích hợp các kiến
thức và kĩ năng đã lĩnh hội,xác lập mối liên hệ giữa các tri thức và kĩ năng thuộc
môn Ngữ văn với các môn khác.
Ở năm học 20182019, Phòng giáo dục và đào tạo huyện Krông Ana đã triển
khai việc dạy lồng ghép“An ninh quốc phòng” vào giảng dạy. Sau khi được tập
huấn và có sự thống nhất trong tổ bộ môn, tôi đã mạnh dạn đưa vào chương trình
học của học sinh. Bên cạnh nội dung đã được định hướng ở một số văn bản tôi còn
mở rộng, liên hệ thực tế nhằm giáo dục ý thức công dân cho các em.
Ví dụ: Chương trình Ngữ văn 6 học kì 1 lồng ghép giáo dục An Ninh – Quốc
Phòng ở các văn bản: Con Rồng cháuTiên, Thánh Gióng, Sự tích hồ Gươm. Ngoài
nội dung đã có định hướng tôi giảng giải giúp các em tự hào về quê hương đất
nước mình, về trách nhiệm góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững
mạnh để bảo vệ đất nước.
2.1.3. Dạy học trải nghiệm sáng tạo
Đây là một hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên
từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác
nhau. Qua đó phát triển năng lực, phát huy tiềm năng sáng tạo của các nhân.
Trong năm học 2017 – 2018, bản thân tôi được tập huấn về việc dạy học trải
nghiệm sáng tạo theo định hướng năng lực cho giáo viên do Phòng giáo dục và đào
tạo huyện Krông Ana tổ chức, sau đó tôi về có triển khai và thấy kết quả khả quan.
Sang năm học 2018 – 2019, nhận thấy đây là một trong những nội dung không thể
thiếu, tôi đã lên kế hoạch ngay từ đầu năm và đưa vào áp dụng.
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
Ví dụ: Với chủ đề “Sân khấu hóa truyện dân gian”. Khi bắt đầu học truyện
cổ tích và truyện cười, tôi hướng dẫn học sinh cách thức làm việc, lắng nghe
nguyện vọng của học sinh để học sinh tự tư duy sáng tạo, giao việc và định hình
về một tiết thực hành sau khi học xong bài học. Cuối cùng là chọn thời điểm (có
thể là tiết ngoại khóa: hoạt động ngoài giờ lên lớp hay sinh hoạt lớp) để học sinh
thực hành ngay trên lớp.
Hình ảnh minh họa của các nhóm khi thực hành tiết “ Trải nghiệm sáng tạo”
Trang 11
2.1.4. Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương
trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là
từ quan tâm đến việc HS học được cái gì đến quan tâm HS vận dụng được cái gì
qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương
pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng
kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường
việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên học sinh theo hướng cộng
tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học
tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung
các chủ đề học tập tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các
vấn đề phức hợp.
Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh là sự kết hợp linh hoạt
phương pháp – kỹ thuật dạy học tích cực với phương pháp truyền thống, đồng thời
với việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật phù hợp với môn học, kiểu bài. Chú
trọng nhiều đến khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề của học sinh.
Ví dụ: Sau khi hướng dẫn đọc thêm văn bản “Con Rồng cháu Tiên”, tôi giúp
học sinh củng cố bằng sơ đồ tư duy:
Bài tập về nhà là học sinh vẽ sơ đồ tư duy nội dung văn bản “Con Rồng
cháu Tiên”. Khi kiểm tra bài tập các em tôi đánh giá cao ý tưởng sử dụng đường
nét, hình ảnh, màu sắc ... để thể hiện nội dung. Chỉ có các chi tiết, sự việc là bám
sát văn bản, còn ý tưởng thì không có quy định nào. Học sinh rất hào hứng trong
việc tìm tòi ý tưởng để thể hiện nội dung nên các em hứng thú hơn với môn Ngữ
văn.
2.2. Linh hoạt trong kiểm tra, đánh giá
Khi kiểm tra để lấy điểm miệng, không nên cứng nhắc là kiểm tra vào
đầu tiết học. Việc kiểm tra có thể linh hoạt chuyển đổi giữa tiết, hoặc cuối tiết
học. Cũng có thể cho điểm trong quá trình học bài mới, khi học sinh trả lời tốt,
tích cực tham gia xây dựng bài.
Khi kiểm tra 15 phút hoặc kiểm tra định kì, cần có sự phân loại đối tượng
học sinh, không nên ra những câu hỏi đánh đố hay những câu hỏi ngoài kiến thức
sách giáo khoa. Tôi thường ra đề thi có sự phân hóa đối tượng học sinh. Mức độ
nhận biết, thông hiểu, vận dụng ở cấp độ dễ chiếm 6070% tổng số điểm bài
thi, câu hỏi khó, hoặc câu hỏi vận dụng cấp độ cao chiếm 3040%. Với những
đề như vậy, học sinh yếu cũng có thể làm được 45 điểm, điều đó sẽ không tạo
Trang 13
ra sự chán nản hay thất vọng hoàn toàn với những em có học lực yếu. Cùng với
những lời động viên, khuyến khích kịp thời, những con điểm đó còn khích lệ tinh
thần cho các em, để các em cố gắng hơn trong những bài kiểm tra sau.
Khi chấm bài, bên cạnh đòi hỏi phải chấm chính xác theo yêu cầu đề ra
được thể hiện rõ qua điểm số, còn cần chấm sự sáng tạo, tình cảm chân thành
của học sinh để động viên, khích lệ. Tôi thường chỉ ra cụ thể lỗi sai, sửa trực
tiếp trên bài kiểm tra và có những nhận xét, bổ sung để học sinh thấy được hạn
chế của mình để khắc phục lần sau.
2.3. Giáo viên cần làm chủ kiến thức
Điều quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và học là giáo
viên phải có kiến thức vững vàng, thông suốt, đảm bảo kiến thức chuyên môn,
làm chủ được phương pháp trong từng bài giảng, tránh trường hợp bị động, lung
túng trong quá trình dạy học. Điều này sẽ khiến cho học sinh quy phục và sẽ
hứng thú học tập với giáo viên bộ môn đó. Muốn vậy, chúng ta cần không ngừng
tìm tòi, học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trước mỗi giờ lên
lớp, cần phải soạn giảng cẩn thận, bài bản, kĩ càng, chu đáo và làm chủ kiến
thức. Như vậy, ta đã thành công một nửa.
Giáo án minh họa:
Tuần 2
Ngày soạn:
Tiết PPCT: 5
Ngày dạy:
THÁNH GIÓNG
(Truyền thuyết)
A/MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
Giúp HS:
1. Kiến thức:
Nắm được nội dung ý nghĩa và một số nét nghệ thuật tiêu biểu của truyện
Thánh Gióng.
2. Kĩ Năng:
Kể lại được truyện.
RLKN: Bước đầu nhận biết, phân tích truyện truyền thuyết
3. Thái độ:
GDHS: Tinh thần đoàn kết, ý thức dân tộc và ý chí đấu tranh bảo vêh đất
nước. Thấy được sức mạnh đánh giặc của dân tộc ta từ xưa đến nay.
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
B/ PHƯƠNG PHÁP/ KĨ THUẬT DẠY HỌC:
Phương pháp quan sát trực quan, vấn đáp, hoạt động nhóm…
KT “trình bày một phút”, Đọc hợp tác,…
Sử dụng các dạng câu hỏi: Nêu vấn đề, tái hiện, yêu cầu có sự so sánh đối
chiếu, ứng dụng và liên hệ…
C/ CHUẨN BỊ:
1. GV: Giáo án, SGK, SGV, tranh về Thánh Gióng, giấy A4
2. HS: soạn bài, vở ghi
D/ CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ NỘI DUNG HỌC TẬP
1. Ổn định tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ:
(?) Nêu ý nghĩa truyện Con Rồng cháu Tiên?
Kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh.
3. Bài mới:
Chủ đề đánh giặc cứu nước thắng lợi là chủ đề lớn, cơ bản, xuyên suốt lịch
sử văn học VN nói chung, văn học dân gian VN nói riêng. Thánh Gióng là truyện
dân gian thể hiện rất tiêu biểu độc đáo chủ đề này. Truyện cho chúng ta biết về
sức mạnh đánh giặc có từ rất sớm của người Việt cổ và sức mạnh này luôn theo
mỗi con người VN trong công cuộc đánh giặc cứu nước.
Hoạt động của thầy và trò
Hoạt động 1
Nội dung kiến thức
I/ Đọc hiểu văn bản:
GV gọi HS đọc tác phẩm. Đọc giọng: Rõ ràng, 1. Đọc – Tìm hiểu
mạch lạc.
chung:
HS đọc và GV nhận xét cách đọc của mỗi HS.
Đọc, tóm tắt
? Văn bản thuộc thể loại gì?
Tìm hiểu từ khó
? PTBĐ chính mà tác giả sử dụng là gì?
Thể loại:Truyền thuyết
?Văn bản có bố cục mấy phần? Nội dung của từng PTBĐ: Tự sự
phần?
Bố cục: 4 phần
Trang 15
Đ1: từ đầu … “nằm đấy”:sự ra đời của Gióng
Đ2: “Bấy giờ … cứu nước”: Gióng đòi đi đánh
giặc
Đ3: “Giặc đã đến … lên trời”: Gióng đánh giặc
Đ4: Phần còn lại: Những dấu tích còn lại.
? Truyền thuyết Thánh Gióng có những nhân vật
nào? Ai là nhân vật chính?
Hai vợ chồng ông lão, cậu Gióng, sứ giả, nhân
dân,…
Nhân vật chính: Thánh Gióng
2. Tìm hiểu văn bản:
? Theo dõi văn bản, em thấy những chi tiết nào kể a. Sự ra đời của Thánh
Gióng.
về sự ra đời và lớn lên của Thánh Gióng?
(Hs trả lời)
Bà mẹ ướm chân thụ thai
12 tháng mới sinh
? Một đứa bé được sinh ra như thế là bình thường Cậu bé lên 3 không biết
nói biết cười
hay kì lạ?
Kì lạ, khác thường. Bình thường người phụ nữ Kì lạ, khác thường
chỉ mang thai 9 tháng 10 ngày nhưng bà mẹ TG
mang thai 12 tháng mới đẻ. Hơn nữa khi sinh ra cậu
có mặt mũi khôi ngô nhưng lên ba mà vẫn chưa
biết nói, biết cười cứ đặt đâu thì ngồi đó
? Câu hỏi thảo luận: Nhân vật Thánh Gióng được
xây dựng bằng nhiều chi tiết tưởng tượng, kì ảo
như vậy có ý nghĩ gì ?
Định hướng:
Một đứa bé như thế nhất định phải là người khác
thường, phi thường. Thứ hai lên ba tuổi mà không
biết nói thì khi nói lời đầu tiên phải là lời thiêng
liêng quan trọng khác thường.
b. Gióng đòi đi đánh
? Thánh Gióng cất tiếng nói khi nào.?
giặc.
Thánh Gióng cất tiếng nói khi đất nước lâm nguy Tiếng nói đầu tiên là
cần người tài giỏi đánh giặc
tiếng nói đòi đi đánh giặc
? Tiếng nói đầu tiên của Gióng là gì ? Hãy trình > Biểu lộ lòng yêu nước
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
bày hiểu biết của em về ý nghĩa của chi tiết này ?
sâu sắc của TG
Tiếng nói đầu tiên của Thánh Gióng là tiếng nói
đòi đi đánh giặc
Biểu lộ lòng yêu nước sâu sắc của TG. TG đang
nằm một chỗ chẳng nói chẳng cười, vừa nghe
tiếng sứ giả kêu gọi người ra cứu nước thì lập tức
cậu bé ngồi bật dậy, lại nói luôn được rành rọt,
dõng dạc đâu ra đó. Điều này cho thấy TG là biểu
Đòi ngựa sắt , roi sắt,
tượng cho những người dân bình dị, bình thường thì
giáp sắt
chăm chỉ làm ăn nhưng khi tổ quốc lâm nguy thì
vùng lên mạnh mẽ để bảo vệ tổ quốc
? Thánh Gióng đòi những gì để ra trận?
Đánh giặc cần có lòng
yêu nước, nhưng cần cả vũ
? Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc.
khí sắc bén để đánh thắng
điều này có ý nghĩa gì?
giặc
Đánh giặc cần có lòng yêu nước, nhưng cần cả vũ
khí sắc bén để đánh thắng giặc. Đồng thời phản
ánh thành tựu của nền văn minh dân tộc
Đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt
? Để có được những vũ khí đó một người có làm
được không. Điều đó được chứng minh trong văn
bản như thế nào ?
Không, phải huy động công sức của toàn dân. “
Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp”
? Vua đã lập tức cho rèn ngựa sắt, áo giáp sắt…
theo đúng yêu cầu cầu của Gióng. Nó có ý nghĩa gì?
Gióng là người thực hiện ý chí và sức mạnh của
toàn dân tộc.
Gióng lớn nhanh như thổi
cơm ăn mấy cũng không
? Sau khi gặp sứ giả sự việc kì lạ gì đã xảy ra ?
Từ sau hôm gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi no, áo vừa mặc xong đã
cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ.
căng đứt chỉ.
? Trong nhân dân còn truyền tụng những câu ca
Trang 17
dao nói về sức ăn uống phi thường của Gióng:
“ Bảy nong cơm, ba nong cà
Uống một hơi nước, cạn đà khúc sông”
Điều đó nói lên suy nghĩ và ước mong gì của nhân
dân về người anh hùng đánh giặc?
Người anh hùng là người khổng lồ trong mọi sự
việc kể cả sự ăn uống. Điều đó cũng phản ánh ước
mong Gióng lớn nhanh để kịp đánh giặc.
? Những người nuôi Gióng lớn là ai? Nuôi bằng Dân làng gom góp gạo
nuôi Gióng.
cách nào?
Cha mẹ và bà con làng xóm vui lòng gom góp gạo
nuôi Gióng.
Sức mạnh của Gióng là
? Chi tiết bà con làng xóm vui lòng gom góp gạo sức mạnh của cả cộng
đồng
nuôi Gióng có ý nghĩa gì?
Anh hùng Gióng thuộc về nhân dân. Sức mạnh
của Gióng là sức mạnh của cả cộng đồng.
? Sau khi được dân làng góp gạo nuôi, Gióng trở
thành người như thế nào?
Vươn vai một cái thành tráng sĩ oai phong lẫm
liệt.
? Em suy nghĩ ntn về cái vươn vai thần kì của
Thánh Gióng?
Là cái vươn vai phi thường, là ước mong của nhân
dân về người anh hùng đánh giặc.
* Giảng: là một yếu tố thần kì trong truyện dân
gian. Người anh hùng là người đạt tới sự khổng lồ,
cái vươn vai của Gióng là để đạt tới sự khổng lồ c. Gióng đánh thắng
giặc và trở về trời:
ấy…
Đón đầu đánh hết lớp này
? Gióng đánh giặc như thế nào ?
đến lớp khác, giặc chết
Đón đầu đánh hết lớp này đến lớp khác, giặc chết
như rạ
như rạ
Roi sắt bị gãy, Gióng nhổ
? Trong khi đánh giặc sự việc gì đã xảy ra, Thánh
những cụm tre bên đường
Gióng xử lí việc đó như thế nào ?
quật vào giặc
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
Roi sắt bị gãy, Gióng nhổ những cụm tre bên
đường quật vào giặc
Gióng đánh giặc không
? Theo em, chi tiết “ Gióng nhổ những cụm tre bên chỉ bằng vũ khí mà còn
đường quật vào giặc” khi roi sắt gãy có ý nghĩa gì? bằng những thứ dân dã đời
Gióng đánh giặc không chỉ bằng vũ khí mà còn thường
bằng những thứ dân dã đời thường. Thể hiện tinh Tinh thần tiến công
thần tiến công mãnh liệt của người anh hùng.
mãnh liệt của người anh
Gv liên hệ: Ở nước ta, đến cả cây cỏ cũng thành hùng.
vũ khí giết kẻ thù, đúng như lời Bác Hồ : “Ai có
súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm. Ai không
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc …”
? Vì sao đánh tan giặc, Gióng cởi áo giáp sắt để lại
và bay về trời? theo em chi tiết này có ý nghĩa gì?
Gióng ra đời phi thường và ra đi cũng phi thường
Làm việc nghĩa vô tư không vì vinh hoa phú quí. Đánh tan giặc, Gióng cởi
Nhân dân muốn giữ mãi hình ảnh cao đẹp, rực rỡ áo giáp để lại và bay về
trời. Là người có công
của người anh hùng cứu nước.
đánh giặc nhưng không
GV đặt câu hỏi liên hệ thực tế phát triển năng màng danh vọng.
lực HS:
? Truyền thuyết thường liên quan đến lịch sử. Theo
em, những di tích nào còn lưu lại ?
Tre đằng ngà, vết chân ngựa, đền thờ ở làng
Gióng
? Hãy nêu ý nghĩa của truyện Thánh Gióng?
Cuối cùng GV chỉ định 1 HS đọc to phần Ghi * Ghi nhớ SGK
nhớ để nắm kĩ nội dung bài học.
II. Luyện tập.
Hoạt động 3
Bài tập 1:
Gv hướng dẫn hs làm bài
Học sinh tự bộc lộ và giải
? Hình ảnh nào của Gióng là hình ảnh đẹp nhất thích
trong tâm trí em? Nêu lí do?
Bài tập 2
Đây là hội thi dành cho
Trang 19
lứa tuổi thiếu niên – lứa
? Theo em, tại sao hội thi nhà trường phổ thông lại tuổi Gióng.
mang tên Hội khoẻ Phù Đổng?
Mục đích của hội thi là
khoẻ mạnh, sức mạnh để
học sinh có thể học tập
tốt, lao động tốt góp phần
vào sự nghiệp bảo vệ đất
nước.
4. Củng cố: GV hướng dẫn HS củng cố bài bằng sơ đồ tư duy nội dung văn
bản.
5. Dặn dò:
Đọc lại tác phẩm. Xem nội dung bài.
Học thuộc phần Ghi nhớ. Vẽ sơ đồ tư duy nội dung văn bản theo cách của em.
Soạn bài “ Từ mượn”.
IV. Tính mới của giải pháp
Có thể với những giải pháp trên đây nhiều giáo viên cũng đã từng áp dụng
nhưng riêng bản thân tôi, khi được tập huấn và đưa vào áp dụng trong các tiết
học, tôi nhận thấy những điểm mới ở đề tài này đề cập là:
Các giải pháp tôi đưa ra đây có quan hệ mật thiết không tách rời, sự kết
hợp đồng bộ các giải pháp sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc khơi gợi niềm
đam mê của học sinh với bộ môn Ngữ Văn.
Học sinh đã hứng thú hơn khi được học những tiết có ứng dụng CNTT.
Học sinh tự do sáng tạo vẽ sơ đồ tư duy nội dung bài học theo suy nghĩ của
mình.
Hay trong tiết trải nghiệm sáng tạo học sinh có thể tự biến hóa mình
thành những nhân vật yêu thích trong văn học. Qua đó các em cũng tự tin và hứng
thú hơn rất nhiều khi đến tiết văn.
Khi dạy học phát triển năng lực học sinh thì các em được thể hiện mình,
được làm chủ kiến thức. Từ đó, giáo viên sẽ tìm kiếm và phát triển được những
học sinh có năng khiếu của bộ môn một cách rõ nét.
V. Kết quả khảo nghiệm
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
Với những biện pháp trên đây, chất lượng bộ môn trong hai năm học qua
đã được nâng cao rõ rệt.
Năm học 2017 – 2018:
Năm
h ọc
2017
2018
Lớp
Sĩ số
6A1
6A7
Tổng
cộng
Điểm
Ghi chú
Giỏi
Khá
29
36
2
7
5
15
Trung
bình
16
14
65
9
20
Tỉ lệ
13,5%
32%
Yếu
Kém
4
0
0
0
30
4
0
47,5%
7%
0%
Đặc biệt trong học kì một (năm học 20182019) cụ thể:
Năm
h ọc
2018
2019
Lớp
Sĩ số
6A3
6A6
Tổng
cộng
Điểm
Ghi chú
Giỏi
Khá
26
35
1
8
3
12
Trung
bình
19
15
61
9
15
34
14,6%
24,4%
Tỉ lệ
56%
Yếu
Kém
3
0
0
0
3
0
5%
0%
Qua kết quả thống kê điểm của học sinh qua các bài kiểm tra, tôi nhận thấy rằng
chất lượng học tập bộ môn Ngữ văn được tăng lên rõ rệt, tỉ lệ học sinh bị điểm yếu,
kém đã giảm đi đáng kể, cụ thể như sau:
Năm học 2017 2018: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 93%
Năm học 2018 2019: số học sinh đạt điểm từ trung bình trở lên đạt tỉ lệ 95%
Với kì thi học sinh giỏi văn hóa cấp huyện vừa qua (năm học 2018 2019)
học sinh do tôi trực tiếp giảng dạy đạt 1 giải nhì, 2 giải ba. Điều đó cho thấy
tính hiệu quả của đề tài khá tốt. Có được kết quả này phần quan trọng là do học
sinh đã có hứng thú với bộ môn Ngữ văn.
Trang 21
PHẦN THỨ 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1.
Kết luận
Với những giải pháp đưa ra trên đây, tôi tin rằng nó phù hợp với điều kiện
thực tế giảng dạy ở trường tôi nói riêng, các trường bạn trên địa bàn huyện
Krông Ana, kể cả ở nhiều cấp học. Đề tài là kết quả của quá trình nghiên cứu,
tìm hiểu đặc điểm học sinh nơi tôi đang công tác giảng dạy và còn có những ý
kiến, thảo luận từ các đồng nghiệp nên tôi tin rằng nó giá trị tham khảo, học tập
không chỉ đối với giáo viên môn Ngữ văn mà còn cho các giáo viên bộ môn khác.
2. Kiến nghị
a. Đối với phòng giáo dục
Với mong muốn thực hiện có hiệu quả những giải pháp để nâng cao chất
lượng bộ môn, tôi xin đề xuất một vài ý kiến nhỏ với cấp trên:
Cần cung cấp thêm những thiết bị dạy học như sách tham khảo, nghiên
cứu, tranh ảnh, đặc biệt là máy chiếu, tiến tới mỗi phòng học có một máy chiếu,
giúp giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học một cách thuận tiện,
hiệu quả nhất.
Tổ chức nhiều buổi ngoại khóa. Hoạt động này vừa giúp các em có thêm
kiến thức vừa giúp các em thoải mái, có hứng thú hơn trong học tập. Đồng thời
còn rèn cho các em kĩ năng sống, hoạt động tập thể.
Thường xuyên tổ chức các chuyên đề về môn Ngữ văn để nâng cao
chuyên môn, để giải quyết những vấn đề khó, xây dựng cách dạy hiệu quả của
một bài, một vấn đề cụ thể nào đó.
b.
Đối với nhà trường
Cần tổ chức thường xuyên hơn nữa những buổi sinh hoạt chuyên môn
nhằm chia sẻ một số kinh nghiệm giảng dạy của những giáo viên có năng lực
chuyên môn vững vàng, để giáo viên trong trường học hỏi để ngày một hoàn
thiện phương pháp giảng dạy của mình.
Eana, ngày 23/04/2019
Người thực hiện
Phạm Thị Thu Huyền
Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ văn 6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 6
2.
Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004–
2007) môn ngữ văn – quyển 1 và 2 – NXB Giáo dục
3.
Phương pháp dạy học ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và
tích cực – Đoàn Thị Kim Nhung NXB Đại học quốc gia TPHCM
4.
Bài viết “Vai trò của văn học trong sáng tạo văn hóa” của nhà nghiên
cứu Trần Đình Sử.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng tải thông tin theo nguồn internet
Trang 23
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN