Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số quan niệm về cái thiêng của tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.41 KB, 6 trang )

Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 1/2017

Information of Science and Technology
No. 1/2017

MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ CÁI THIÊNG CỦA TÔN GIÁO
Nguyễn Thị Hoa Kiều
Khoa Lý luận chính trị, Trường ĐH Xây dựng Miền Trung

Tóm tắt
Ý tưởng về sự thiêng liêng đã xuất hiện khá
sớm trong bước chuyển từ con người động vật
thành con người xã hội. Ý tưởng ấy là sản phẩm
của đời sống xã hội, khi nhu cầu gắn kết các thành
viên của cộng đồng đòi hỏi một đức tín về nguồn
gốc thánh thần và ý nghĩa cao quý của cuộc sống
con người.
Từ khóa
Quan niệm về cái thiêng của tôn giáo.

Trước hết là đặc tính của thế giới tự
nhiên bao quanh con người. Thế giới tự
nhiên đó chính là nguồn ánh sáng mặt trời,
nguồn nước, chiếc rìu hay cây lúa,… nghĩa là
những gì cụ thể và thiết thực, bảo lãnh cho
sự sống. Những năng lượng thiêng của một
con sông, dù là sông Nin hay sông Hằng của
một ngọn núi, dù là núi Olympe hay núi Tản
Viên cũng chỉ đủ phát sáng cho từng nhóm
cư dân ở những vùng lãnh thổ riêng biệt. Khi


nhu cầu liên kết cộng đồng càng mở rộng,
con người ta cần đến một nguồn thiêng toàn
năng và bao quát hơn. Giống như những vệ
tinh viễn thông thời hiện đại, biên độ phủ
sóng tỷ lệ thuận với khoảng cách bay xa, lên
cao khỏi mặt đất, ý tưởng về sự thiêng liêng
cũng phát triển từ đặc tính của thế giới tự
nhiên hữu hình đến ý niệm về một bản thể
siêu nhiên vô hình là biểu tượng cao nhất là
Đức Chúa Trời hiện hữu khắp thế gian và chi
phối mọi giống loài. Sự vận động của từ
“Sacré" trong ngôn ngữ Phương Tây cũng
thề hiện quá trình hình thành khái niệm
“thiêng” một khái niệm cốt lõi của tư duy về
tôn giáo.
Từ "Saere" tìm thấy trên tảng đá xanh
“Lapis Niger” tại Rome gần Comitium, trước
Khải Hoàn Môn của hoàng đế La Mã Septime
Sévere. Đó là vùng mộ Romulus, vị vua đầu

tiên của Rome, thiết lập nên thành Rôme vào
năm 753 trước Công nguyên.
“Sacré" có gốc là từ “Sakros” từ này về
sau chi phối toàn bộ hệ thống thuật ngữ về cái
thiêng trong ngôn ngữ gốc Latin."Sakros" có
quan hệ với từ "Sakan" tiếng Đức, "Saklai"
(tiếng của tộc người Hittite ở thế kỷ 13-14
trước Công nguyên) và từ “Hagios" tiếng Hy
Lạp. Sự phát triển nghĩa cửa nhóm từ gốc
"Sak" và gốc "Hag" phản ánh quá trình hình

thành quan niệm về sư thiêng liêng của các
dân tộc thuộc ngữ hệ Ấn, Âu. Không đi sâu
vào những vấn đề ngôn ngữ học lịch sử nhưng
ở đây chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét
cần thiết.
Trước hết, quan niệm về sự thiêng liêng
liên quan đến những hiện tượng cơ bản của
thế giới tự nhiên, cấu trúc cơ bản của sự vật,
không gian và thời gian. Mặt khác là lòng tôn
kính trộn lẫn với cảm giác sợ hãi trạng thái
tình cảm mà con người chìm đắm ngay từ khi
ban đầu giao cảm với thế giới tự nhiên, với tư
cách là một chủ thể tâm lí hữu thức, từ sự
thiêng liêng của vạn vật hữu linh đến sự
thiêng liêng như một bản thể siêu nhiên toàn
năng và vĩnh hằng. Trong tiếng Hittite, ngôn
ngữ cổ thời Đế chế, tương ứng với khái niệm
“Chúa" là khái niệm về sự khôn ngoan, về trí
thông minh, sự toàn thiện tri thức và tâm hồn
liên quan đến khái niệm ánh sáng. Cụm
“Saklai" là một thể từ vừa có một nghĩa thông
tục là "thói quen" vừa có một nghĩa thiêng
liêng là "nghi lễ", sự dâng hiến của con người
dành cho đấng tối thượng, sự trong sạch tuyệt
đối, sức mạnh tràn trề, đầy ắp quyền lực và
hiệu quả. Từ đây dẫn đến hai thái độ sóng đôi
của con người đối với cái thiêng:
Thứ nhất, là sự tôn kính và biết ơn. Với
đối tượng được tôn kính và biết ơn là cụ thể
90



Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 1/2017

thì hành vi đền ơn đáp nghĩa cũng cụ thể và
thiết thực. Đây là chuyện của đời thường.
Chúng ta xây dựng nhà tình nghĩa, phụng
dưỡng tuổi già, tặng quà cho những người mẹ
anh hùng, nhừng người có công với cách
mạng. Chúng ta cũng lại có những hành vi ứng
xử cụ thể, thích hợp để bày tỏ lòng tôn kính
và biết ơn đối với các nhà giáo, các thầy thuốc
"lương y như từ mẫu”. Nhưng đối với những gì
trở nên xa cách, trừu tượng hư ảo, người ta
cần đến những nghi lễ có tính chất tượng
trưng “lễ bạc lòng thành". Chẳng hạn, đó là
thờ cúng tổ tiên, các vị gia thần, rồi đến các
vị cao hơn, xa hơn,... Đối tượng được tôn thờ,
chịu ơn càng cụ thể, gần gũi thì tình cảm càng
sâu sắc, hành vi ứng xử càng thiết thực. Về
phương diện này con người có xu hướng hiện
thực hóa cái thiêng. Phân tích xu hướng nhân
thần hóa, lịch sử hóa các vị thần tự nhiên
trong tín ngưỡng của người Việt sẽ làm sáng
tỏ nhận xét này. Từ đó dẫn đến một hệ quả
quan trọng là khi đối với cái thiêng, thái độ
tôn kính, biết ơn chiếm ưu thế thì hành vi ứng
xử mang đậm chất nhân văn hình thành
những phong tục giầu sắc thái văn hóa tộc

người. Kho tàng folklore của nhân loại là cứ
liệu đầy sức thuyết phục.
Thứ hai, là thái độ sợ hãi trước sức
mạnh đầy bí ẩn. Sự sợ hãi nào cũng đòi hỏi
con người phải tìm giải đáp chế ngự, triệt
tiêu hay né tránh, nghĩa là một thái độ chủ
động chống trả trực tiếp. Nhưng sợ rắn độc,
sợ chó dại khác hẳn với sợ ma quỷ. Trái với
lòng tôn kính và biết ơn, sự sợ hãi càng gia
tăng khi đối tượng càng mù mờ bí ẩn. Cái
thiêng càng trừu tượng siêu hình bao nhiêu,
quyền năng chế ngự con người của nó càng
lớn bấy nhiêu. Hệ quả tất yếu của giải đáp
chế ngự là hành vi phù phép, dẫn đến những
hủ tục mê tín dị đoan.
Khi cái thiêng đặt con người vào một
hình thế nước đôi, vừa tôn kính hàm ơn, lại
vừa sợ hãi thì con người không tránh khỏi
hành vi ứng xử mang tính chất thụ động.
Người ta cầu khấn và chỉ còn biết khấn nguyện
mà thôi bởi không thể triệt tiêu hoặc né tránh.
Đây là nét đặc trưng của hành vi tôn giáo. Cần

Information of Science and Technology
No. 1/2017

phải nhận xét rằng trong thái độ của người
bình dân đối với cái thiện tôn giáo thì sự sợ
hãi chiếm ưu thế, nó quy định tính chất thụ
động của hành vi ứng xử. Gia dĩ sự ám ảnh

của quỷ dữ, mặc cảm tội lỗi và sự trừng phạt
nặng nề hơn rất nhiều so với một chút hy vọng
chập chờn về điềm lành và cõi cực lạc. Vì vậy
con người cầu khẩn sự ban ơn, làm phúc
nhưng chủ yếu là cầu khẩn sự che chở, sự tha
thứ. Ở đây cái thiêng càng siêu nhiên, trừu
tượng quyền năng của nó lại càng vô biên. Từ
đó dẫn đến ranh giới tuyệt đối giữa cái thiêng
và cái tục.
Các nhà sử học, dân tộc học và xã hội
học nghiên cứu về tôn giáo hàng thế kỷ nay
đã quan tâm đến “cái thiêng". Đề cập đến hiện
tượng trung tâm này của các học thuyết tôn
giáo trên nhiều khía cạnh. Trường phái xã hội
học của Durkheim và Mauss đã đặt cái thiêng
vào nguồn gốc xã hội, xem đó là một phạm
trù tập hợp có nguồn gốc từ xã hội. Nó đối lập
với cái phàm tục. Nó là một dạng sức mạnh
tập thể có từ xã hội, được thêm vào hiện thực
để trở thành một nhân tố chủ chốt trong cơ
cấu xã hội. Durkheim viết: “Tất cả các tín
ngưỡng tôn giáo đã được biết tới, dù đơn giản
hay phức tạp đều có cùng một tính chất
chung: Chúng giả định một sự phân loại về
các sự vật hiện thực hay tâm tưởng mà con
người hình dung được thành hai loại đối lập
nhau, nói chung được gọi bằng những từ ngữ
khác nhau, thể hiện khá chính xác ở hai từ “cái
thế tục” (Frofane) và "cái thiêng liêng"
(Sacré). Sự phân chia thế giới thành hai lĩnh

vực: lĩnh vực này bao gồm tất cả những thế
tục, là nét khu biệt của tư duy tôn giáo tín
ngưỡng, huyền thoại, chuyện ma quỷ, truyền
thuyết,… là những biểu tượng hay hệ thống
biểu tượng thể hiện bản chất của các sự vật
thiêng liêng, các tính năng và quyền năng
được gán cho chúng, lịch sử của chúng, các
quan hệ của chúng với nhau hoặc với các sự
vật thế tục…”[1]
Giữa cái thế tục và cái thiêng là mối qua
hệ không đồng cấp. Cái thiêng và những gì
đặc biệt, đầy quyển năng và phẩm chất cao
cả trong khi thế giới phàm tục và bản thân con
91


Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 1/2017

người tự coi mình chiếm một vi trí thấp hơn
và phụ thuộc vào các sự vật thiêng. Hơn nữa,
giữa hai thế giới là một. ranh giới tuyệt đối bởi
tính không đồn chất giữa chúng. Trong lịch sử
tư duy của loài người chúng ta biết đến nhưng
cặp phạm trù phản ánh hai mặt đối lập trong
tính thống nhất biện chứng của các sự vật,
hiện tượng mà trong quá trình vận động của
chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Đó là sự
đối lập giữa cái thiện và cái ác của hiện tượng
đạo đức sự đối lập giữa cái đẹp và cái xấu của

hiện tượng thẩm mỹ. Nhưng sự đối lập giữa
cái thiêng và cái tục hoàn toàn khác. Đó là hai
thế giới khác nhau về chất, không cố sự
chuyển hóa qua lại trong quá trình vận động,
tinh lực của cái này không phải là tinh lực của
cái kia. Dukheim. E viết: "Tùy theo mỗi tôn
giáo, sự đối lập ấy được nhận thức một cách
khác nhau. Ở tôn giáo này, để tách riêng hai
loại sự vật ấy chỉ cần khu trú chúng vào những
khu vực khác nhau trong vũ trụ vật chất, ở
tôn giáo kia, những sự vật này được đưa vào
một môi trường ý tưởng và siêu việt. Còn thế
giới vật chất thì để cho những sự vật khác
chiếm làm sở hữu. Nhưng nếu như hình thức
tương phản có khác nhau, thì sự tương phản
là phổ biến”.
Trong tư duy con người khái niệm về cái
thiêng ở một nơi và mọi lúc đều tách khỏi khái
niệm về cái thế tục. Giữa chúng có một
khoảng chân không lôgíc, bác bỏ mọi sự lẫn
lộn hay là sự tiếp xúc giữa các sự vật tương
ứng với hai khái niệm đó. Một sự vật thiêng
liêng trước hết là cái mà trong quan hệ với nó,
con người phàm tục phải chấp nhận một ranh
giới tuyệt đối, được quy định bằng những cấm
kỵ nghiêm ngặt. Những kiêng kỵ ấy đặt quan
hệ giữa chúng thông qua những thao tác đặc
biệt có tính ước lệ cao, đồng thời toàn thân cái
thế tục cũng mất đi những tính chất riêng của
nó, để tự trở thành thiêng liêng ớ một mức độ

nhất định. Nếu không như thế sẽ không thực
hiện được sự giao tiếp giữa cái thế tục và cái
thiêng liêng. Đó là cách thức mà một cái bình
vôi trở thành "ông bình vôi", một pho tượng
gỗ trở thành ông Phật. Đó là tâm thế mà
những người hành sự tế lễ phải nhập cuộc, là

Information of Science and Technology
No. 1/2017

trạng huống nháp thần của người lên đồng.
Ông bình vôi, ông Phật có những phẩm chất,
những quyền năng mà tất cả những cái bình
vôi, những pho tượng trước đó không thể có.
Cũng như ông đồng, bà cốt không phải là sự
biến hóa bất kỳ một người phàm tục nào cũng
có thể trở thành, những phẩm chất thiêng
liêng không phải đã nẩy sinh, đã phát triển
từ những mầm mống có sẵn ở cái thế tục.
Đây là sự hóa kiếp của cái này và sự sinh
thành của cái kia. Chính vì vậy mà những đấu
ấn của cái thế tục càng mờ nhạt, càng hóa
trang biến đói, lạ hóa bao nhiêu cũng gần với
cái thiêng liêng bấy nhiêu. Trong tình huống
thần nhập, ông đồng là một sinh linh khác,
tuyệt đối khác biệt với bản thân người lên
đồng. Anh ta phải ra khỏi thế giới trần tục để
thuộc về thế giới thiêng liêng. Giao tiếp với
đồng hoàn toàn khác giao tiếp với người lên
đồng. Đó là ranh giới tuyệt đối giữa một bên

là cái thiêng liêng, những sự vật có những
cấm đoán bảo vệ và cô lập, một bên là những
sự vật thế tục bị áp dụng những cấm đoán ấy
và phải cách xa những sự vật thiêng liêng,
không thể có sự chung chạ hay gần gũi thân
mật trái với trạng thái tách rời nhau của
những khái niệm này trong ý thức. Chính ý
thức về sự tách biệt hoàn toàn giữa hai thế
giới ấy mà con người được khuyến khích rút
ra khỏi thế giới trần tục để sống một cuộc
sống dành cho tôn giáo. Từ đó mà cả lối sống
tu sĩ, một lối sống phải tạo ra môi trường bất
bình thường, khác hẳn với cuộc sống thế
gian, dẫn đến lối sống khổ hạnh thần bí nhằm
mục đích tước bỏ khỏi con người tất cả những
gì gắn bó với thế giới trần tục. Lối sống ấy
đòi hỏi từ cách ăn uống, trang phục, đi lại,
sinh hoạt, môi trường sống phải được kiểm
soát bằng hàng loạt kiêng kỵ nhằm chối bỏ
những nhu cầu tự nhiên trần tục. Có như vậy,
hình ảnh những tu sĩ sống biệt lập chay tịnh
trong các thánh đường hay tu viện, những
nhà sư khổ hạnh tọa thiền trong các ngôi
chùa vắng lặng, biệt lập với thế giới bên
ngoài mới tạo ra được ấn tượng đáng tin cậy
về sứ mạng trung giới, thông dịch giữa cái
trần tục và cái thiêng liêng.
92



Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 1/2017

Các hiện tượng tôn giáo được sắp xếp
hoàn toàn tự nhiên thành hai phạm trù căn
bản: Tín ngưỡng và nghi lễ. Cái thiêng là cất
lõi của tín ngưỡng. Thiếu nó không thể có tín
ngưỡng. Những từ tín ngưỡng đến tôn giáo
còn một khoảng cách khá xa tùy thuộc vào
thái độ cửa con người ứng xử với cái thiêng.
Một sự vật, hiện tượng trong đời sống tín
ngưỡng sở dĩ thiêng liêng không phải là vì
những thuộc tính vật chất của nó mà là ở giá
trị biểu trưng của nó. Nghi lễ là cách thức thực
bành của con người không phải giao tiếp với
cái sự vật hiện tượng cụ thể kia, mà là hành
vi giao tiếp với cái thiêng liêng tiềm ẩn mà nó
là biểu tượng.
Trong đời sống thường ngày, con người
đã sáng tạo ra hàng loạt các hành vi ứng xử
phù hợp với từng đối tượng giao tiếp, từng địa
điểm không gian, thời gian và tình huống khác
nhau, từ cách thức giản dị mộc mạc giữa
những người bình dân đến cách thức thời
thượng hoa mỹ của giới quý tộc nơi cung đình,
từ cách thức thân thiết và kính trọng trong
quan hệ thầy trò, cha con đến cách thức quan
phương lịch lãm trong quan hệ với đồng sự và
khách khứa… Nhưng không có một cách thức
ứng xử nào trong số ấy được sử dụng trong

quan hệ với cái thiêng liêng. Ở đây con người
phải tạo ra một khuôn mẫu hành vi khác, một
hệ thống ngôn ngữ khác phù hợp với đối tượng
giao tiếp là cái thiêng liêng.
Đó chính là nghi lễ với chức năng giao
tiếp đặc biệt, chức năng thông dịch giữa cái
trần tục và cái thiêng liêng đồng thời cũng xác
định ranh giới tách biệt giữa chúng. Có một
khoảng cách từ tín ngưỡng đến tôn giáo thì
cũng có một khoảng cách như vậy từ đơn giản
đến phức tạp, từ cụ thể hơn và thực tế hơn
đến trừu tượng hơn và hư tưởng hơn của
phong tục tín ngưỡng đến lễ nghi tôn giáo.
Chỗ khác nhau đó xuất phát từ sự khác nhau
trong quan niệm về cái thiêng liêng.
Tín ngưỡng là hiện tượng phổ biến toàn
nhân loại. Khi người ta tin rằng các thực thể
thiêng liêng chỉ khác với các thực thể khác ở
những sức mạnh lớn lao và những quyền năng
được gán cho chúng, thì trong thế giới tự

Information of Science and Technology
No. 1/2017

nhiên không thiếu gì những hiện tượng mà sức
mạnh to lớn và năng lượng đặc biệt của chúng
đã tác động mạnh vào đầu óc con người tạo
ra tình cảm tín ngưỡng. Ở một xã hội nguyên
sơ, cuộc sống con người thiếu thốn đủ thứ, từ
vật chất tinh thần đến, bấp bênh đến khó

hiểu, lệ thuộc rất lớn vào tự nhiên, con người
không đủ tự tin vào chính mình, không thể
không chờ đợi sự giúp đỡ của thần linh. Ở đây
sự thiêng liêng là một năng lượng đặc biệt mà
con người hình dung ra, được gợi ý từ sức
mạnh vô biên và có thật của thế giới tự nhiên.
Một thế lực nào đó đã tạo ra các hiện tượng
ấy cũng giống như con người đã tạo ra các sản
phẩm của mình. Giáo sư Phan Ngọc viết: "Vì
anh ta tạo ra những sản phẩm nên anh ta
cũng hình dung cái hiện tượng tự nhiên như
những sản phẩm do một hay những thế lực
siêu nhân tạo ra, ít nhiều mang dáng dấp
người, đó là quan niệm vạn vật hữu linh phổ
biến ở mọi tộc người. Đầu tiên là tín ngưỡng,
các tín ngưỡng này biểu hiện thành tục lệ cúng
tế, các ngày lễ và các ngày lễ thường mang
tính chu kỳ theo cái chu kỳ vận nành của trời
đất. Ở một xã hội nông nghiệp như đa số các
xã hội Châu Á thì chu kỳ các ngày lễ thường
liên quan tới chu kỳ các cây trồng. Và về cơ
bản nghi lễ là nghi lễ nông nghiệp trong đó sự
sinh sôi, nẩy nở của cây cối được xem là một
với sự sinh đẻ của con người [3].
Nhưng nếu như cái thiêng liêng trong tín
ngưỡng không hoàn toàn xa lạ vởi thế giới con
người, nó có mối liên hệ trực tiếp và khá gắn
bó với môi trường tự nhiên và xã hội để rồi
hình thành nên cả một thế giới huyền thoại
những nhiên thần và nhân thần thì cái thiêng

liêng trong tôn giáo lại khác. Tư duy tôn giáo
giả định sự tồn tại của cái thiêng liêng tách
biệt với cái trần tục, giả định một bản thể tinh
thần tồn tại độc lập với bản thể vật chất. Bản
thể ấy không xuất hiện trong kinh nghiệm
cảm tính của con người mà là sản phẩm của
sự lý giải mang tính logic. Nhưng phải chăng
tôn giáo xuất phát từ một tiên để không thể
giải thích được, còn khoa học là dựa trên thực
tế khách quan của xã hội? Hệ thống tư duy
nào cũng chứa đựng những tiên đề mà đã là
93


Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 1/2017

tiên đề thì không thể giải thích được và không
nhất thiết phải chứng minh. Những khoa học
xuất phát từ sự nghi ngờ và nghi ngờ là
nguyên tắc vận động của tư duy khoa học.
Trái lại tôn giáo xuất phát từ đức tin và đức
tin là nguyên tắc ván động của tư duy tôn
giáo. Ở đâu triệt thoái sự nghi ngờ và chỉ áp
đặt một đức tin, ở đó có dấu hiệu tư duy tôn
giáo. Mục đích của tư duy khoa học là tìm đến
cái chưa biết. Mục đích của tư duy tôn giáo là
tìm đến đức tin. Như vây, tôn giáo chứa đựng
một mâu thuẫn nan giải. Một mặt, cái thiêng
tôn giáo không chấp nhận mọi sự nghi ngờ,

người ta tuyên truyền thuyết phục chứ không
phân tích lý giải cái thiêng, mặt khác, tôn giáo
nào cũng xây dựng một hệ thống giáo lý, cũng
sử dụng những thành tựu của khoa học và
triết học để biện giải cho nó.
Vậy là cái thiêng tôn giáo trở thành một
phạm trù nhận thức lý luận. Nhưng trên con
đường phát triển của lịch sử, với tiến bộ khoa
học và mở mang dân trí thì sự anh minh tuyệt
đối của mọi thánh thần xem ra khó bảo trọng.
Sự suy giảm đức tin vào cái thiêng liêng tôn
giáo là xu thế tất nhiên.
Để phát huy ảnh hưởng đối với con
người, cái thiêng tôn giáo giảm thiểu lượn lờ
trước màn hình của trí tuệ, nhưng lại gia tăng
áp lực lên trái tim, đánh thức những tình cảm
nhân văn, niềm trắc ẩn và nỗi lo sợ mất an
toàn vốn có của mỗi con người. Đức tin là đòi
hỏi số một của mọi tôn giáo. Đạo hồi buộc mọi
tin đồ phải tuân thủ những quy định rất khắt
khe, phải có một đức tin tôn giáo kiên định
vào Thánh Ala và vị sứ giả Môhamét của Ngài.
Ala là thần tuyệt đối và toàn năng có thể làm
cho cả những ngọn núi đồ sộ cũng chuyển
động giống như những đám mây đang bay, có
thể biến hóa mọi thứ từ hiện hữu thành hư
không và từ hư không thành hiện hữu. Đức tin
ấy được thể hiện bằng lễ cầu nguyện thường
xuyên hàng ngày vào các thời điểm sáng,
trưa, chiều, tối và đêm. Trước khi cầu nguyện

phải tắm rửa. Sau đó tín đồ hướng về đất
thánh Mécca nhẩm đọc những bài thơ thần
chú trong kinh Coran. Thánh kinh của đạo Hi
cũng như thánh kinh của mọi tôn giáo khác,

Information of Science and Technology
No. 1/2017

sự thuyết phục không phải ở tính chân lý của
nó, những công trạng to lớn của thần linh
cũng chung chung cho mọi người, ít thiết
thực với số phận mỗi cá nhân. Nhà triết học
Badda nổi tiếng ở thế kỷ XIX đã viết rằng
trong bộ kinh đó “Kông có trật tự, không có
văn phong, không có vẻ duyên dáng và sự
tinh tế của bố cục. Nó mâu thuẫn từ đầu đến
cuối. Cách ngôn nọ bài trừ cách ngôn kia,
còn toàn bộ tác phẩm thì yếu ớt một cách
ngây thơ”. Nhưng cái điệp khúc gieo vào
lòng người thường xuyên hàng ngày, từ bé
đến lớn, từ trẻ đến già chủ yếu lại là sự xem
thường cuộc sống trần thế, mạt sát nó chỉ là
tạm bợ, chỉ là một sự chạy ngược chạy xuôi
vật vờ như cái bóng mà con người vốn yếu
đuối ấy, kẻ nào ly khai thần, kẻ đó sẽ bị
trừng phạt nghiêm khắc, sẽ rơi xuống địa
ngụ. Kẻ nào nhẫn nhục chịu đựng thì kiếp
sau sẽ lên thiên đàng.
Vậy là rõ, cái thiêng tôn giáo trước hết
là cái đáng sợ nhiều hơn là đáng kính. Sự

giám sát chặt chẽ đến tàn nhẫn. Sự trừng
phạt nghiêm khắc đến khủng khiếp. Mọi điều
đều có không không, nhưng nhu cầu bảo
đảm cho sự an toàn của cuộc sống mỗi người
thì luôn luôn có thật.
Những điều răn đầu tiên trong kinh
Cựu ước của người Do thái khẳng định:
1. Ta là vĩnh cửu, là chúa ngươi đã
cứu sống ngươi khỏi kiếp nô lệ.
2. Ngươi không có Chúa trời nào khác
ta, không được thở dị thần.
Thần kinh Cựu ước về sau trở thành
một trong những thánh kinh quan trọng nhất
của tín đồ Cơ đốc giáo. Từ đạo nọ sang đạo
kia chỉ là sự chuyển giao quyền lực từ Chúa
này sang Chúa khác, nhưng thái độ cứng rắn
của các ngài về đức tin thì không thay đổi.
Đã là tín đồ ngoan đạo thì phải không được
phép nghi ngờ về sự cực lạc nơi Thiên đường,
kiếp sau tương lai và sự trừng phạt khủng
khiếp đến rợn người nơi địa ngục. Trong kinh
thánh kể chuyện một tín đồ bị đày đọa vẫn
giữ vững lòng tin, nhưng lại tự hỏi vì sao một
người ngay thẳng thực thà phải chịu bao nỗi
đau đớn về thể xác. Cho đến phút cuối cùng
94


Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 1/2017


người ấy mới biết mình bị trừng phạt vì kiêu
hãnh và nghi ngờ, mới ăn năn và hối cải.
Từ Do Thái giáo đến Ấn Độ giáo, từ
Thiên chúa giáo đến Hồi giáo đều răn đe con
người phải biết sợ, dùng cái sợ làm chốt tong
cuộc sống đầy cám dỗ của đời thường. Vì
nguyên nhân của mọi tội lỗi và sự trừng phạt
lại nằm ngay trong cuộc sống trần thế của con
người, nên đi theo tiếng gọi của cái thiêng, hy
vọng một cuộc sống an lạc trường tồn ở thế
giới bên kia cũng có nghĩa là phải biết hy sinh,
biết xem thường cuộc sống ở thế giới bên này.
Bản chất mối quan hệ của con người với cái
thiêng tôn giáo là ở đó. Một kiểu quan hệ bất
bình đẳng, hy sinh cái thế tục cho cái thiêng
liêng, thụ động và phụ thuộc vào nó. Cảm
hứng chủ yếu trước cái thiêng tôn giáo đương
nhiên là lòng tôn kính và biết ơn, nhưng không

Information of Science and Technology
No. 1/2017

hẳn đã nghiêng về phía này mà nghiêng về
nỗi lo sợ xuất phát từ nhu cầu thường trực về
sự an toàn của cuộc sống xuất phát từ bản
năng tư vệ vốn có ở mọi sinh vật, mà biểu
hiện độc đáo ở con người là phương thức tự vệ
trước cái thiêng.
Phê phán cái thiêng tôn giáo không

đồng nhất với sự phủ nhận sạch trơn yếu tố
thiêng liêng trong đời sống con người, sự
thiêng liêng của bản thân cuộc sống mà đúng
như là triết học Socrat đã từng viết: “Cuộc
sống là chung cho mọi cây cỏ, nhưng chỉ có
con người mới có linh hồn. Con người sở dĩ trở
thành con người một phần căn bản là do nó
có đời sống tâm linh nghĩa là tuân theo, tôn
thờ những giá trị không vụ lợi, những giá trị
bắt nguồn từ cái thiêng và cái bí ẩn, hai yếu
tố tạo thành đời sống tâm linh” [4].

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nhiều tác giả - về tôn giáo (1994). NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.139.
[2] Sách đã dẫn, tr.143.
[3] Phan Ngọc, Phạm Đức Dương (1983) . Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á xuất bản, Hà Nội,
tr.16.
[4] Nhiều tác giả (1994). Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển xã hội, NXB Lao động Hà
Nội, tr.37.

95



×