Thực trạng huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu t phát triển kinh
tế ở Hà Nội
II.1. Đánh giá chung thực trạng khai thác và sử dụng vốn dài hạn đầu t phát triển kinh tế Hà Nội những
năm gần đây
Hà Nội là trung tâm tài chính - tiền tệ lớn nhất Miền Bắc và đứng thứ hai
của đất nớc (sau TP HCM). Những năm qua, Hà Nội đã thu hút đợc khá nhiều
nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Vốn đầu t nớc ngoài, vốn huy động
trong nớc đều tăng với mức cao qua các năm và đều vợt các chỉ tiêu đã đặt ra
trong các chơng trình huy động của Thành phố.
* Giai đoạn 1996 - 2000:
Trong thời gian từ 1996 đến 2000, tổng vốn đầu t xã hội trên địa bàn Hà nội đạt khoảng 69.510 tỷ đồng,
bình quân 1 năm đầu t gần 14.000 tỷ đồng. Trong đó: Vốn đầu t trong nớc là 43.056 tỷ đồng, bình quân 1 năm
đầu t gần 8.600 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 61,9%; vốn đầu t nớc ngoài là 26.453 tỷ đồng, bình quân 1 năm đầu t
gần 5.300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 38,1%. Tốc độ tăng vốn đầu t xã hội bình quân hàng năm đạt 4,62%/năm.
* Giai đoạn từ năm 2001 đến nay:
Trong hai năm 2001-2002 vốn đầu t xã hội trên địa bàn Thành phố đạt tốc
độ tăng cao và khá ổn định, tổng vốn đầu t xã hội đạt 39,3 ngàn tỷ đồng, tăng
17,2%/năm
1
(kế hoạch 10%/năm). Huy động vốn đầu t xã hội trên địa bàn 9 tháng
đầu năm 2003 đạt kết quả tốt. Ước tính 9 tháng đầu năm, tổng vốn đầu t xã hội
đạt 16.565 tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2002. Đầu t trong nớc đợc
huy động tốt hơn, năm 2002 chiếm 85% tổng vốn đầu t xã hội; đầu t nớc ngoài đ-
ợc phục hồi.
Huy động vốn trung và dài hạn của các NHTM phát triển và ngày càng có
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô và cả nớc.
Nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn của các NHTM trên địa bàn Hà Nội chủ yếu là vốn tự huy động,
vốn uỷ thác đầu t và một phần vốn từ Ngân sách Nhà nớc đầu t cho các công trình theo KHNN (tuy nhiên vài
năm trở lại đây các NHTM chỉ cho vay đối với các công trình chuyển tiếp, còn các công trình dự án mới chuyển
về quỹ hỗ trợ phát triển cho vay).
- Vốn tài trợ uỷ thác đầu t:
Vốn tài trợ uỷ thác đầu t qua hệ thống NHTM ở Hà Nội bao gồm nguồn vốn tài trợ uỷ thác từ các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế, nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ để các NHTM cho vay đối với các công trình trọng
điểm của Nhà nớc.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, vốn tài trợ uỷ thác đầu t đạt kết quả thấp, nguồn vốn này tăng mạnh từ
đầu năm 2001, số d đến cuối tháng 6/2002 đạt 4.808 tỷ đồng và dự kiến đến cuối năm 2002 đạt 4.808 tỷ đồng.
- Vốn tự huy động:
1 Bình quân 2 năm 2001-2002 vốn đầu t xã hội cả nớc tăng 10,3%/năm, Thành phố HCM tăng 12,2%/năm
Tính đến cuối tháng 12/2000, vốn trung và dài hạn (Vốn có kỳ hạn trên 1 năm) huy động qua hệ thống
các NHTM đạt: 19.018 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân năm trong giai đoạn 1996 - 2000 là 56,1%, đ a tỷ trọng
vốn trung và dài hạn từ 11% năm 1996 tăng lên 25,5 % năm 2000. Số d vốn huy động trung và dài hạn đến
6/2002 là 31.450 tỷ đồng, tăng 14,1% so với năm 2001. Năm 2002 vốn trung và dài hạn đạt: 39.900 tỷ đồng, tốc
độ tăng bình quân năm trong 2 năm 2001 - 2002 là 44,9%. Tính đến hết 10.2003, các NHTM và TCTD trên địa
bàn Hà Nội có tổng nguồn vốn huy động đạt 138.740 tỷ đồng, tăng 13,6% so với cuối năm 2002, chiếm tới gần
40% thị phần huy động vốn cả nớc, trong đó riêng tiền gửi của dân c đạt 61.760 tỷ đồng, tăng 17,4% so với cuối
năm 2002. Tổng d nợ cho vay của các NHTM và TCTD trên địa bàn Hà Nội đến hết tháng 10.2003 đạt 70.550 tỷ
đồng, chiếm khoảng 21% thị phần cho vay của cả nớc, trong đó có 39.990 tỷ đồng d nợ cho vay ngắn hạn và
30.560 tỷ đồng cho vay trung dài hạn, chiếm 43% tổng d nợ cho vay. Chính vì vậy, sau khi cân đối nguồn và sử
dụng, Hà Nội đã có gần 40.000 tỷ đồng đầu t trên thị trờng tiền gửi nớc ngoài và chuyển cho các địa phơng khác
vay. Hà Nội luôn là thị trờng huy động vốn lớn nhất cả nớc, là địa phơng có số bội thu tiền mặt rất lớn tới hàng
trăm tỷ đồng mỗi tháng. Tiềm lực về vốn của Hà Nội nằm trong dân, trong các tổ chức bảo hiểm, tỗ chức tài
chính và phi tài chính khác. Nguồn vốn huy động của các NHTM và TCTD ở Hà Nội th ờng xuyên cao hơn ở
TP.Hồ Chí Minh tới hàng chục ngàn tỷ đồng.
Về cơ cấu, tổng số vốn huy động trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2003 đạt
132.100 tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2002 và tăng 8,2% so với đầu năm
2003. đợc phân theo cơ cấu sau:
* Phân theo đối tợng huy động:
+ Tiền gửi của dân c ớc đạt 60.300 tỷ đồng, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm
2002 và tăng 12,4% so với đầu năm 2003, chiếm tỷ trọng 45,6% tổng nguồn vốn
huy động. Trong đó tiền gửi tiết kiệm ớc đạt 46.950 tỷ đồng, tăng 18,6% so với
cùng kỳ năm 2002 và tăng 13,4% so với đầu năm 2003.
+ Tiền gửi của các tổ chức kinh tế ớc đạt 71.800 tỷ đồng, tăng 19,6% so với
cùng kỳ năm 2002 và tăng 4,9% so với đầu năm 2003, chiếm tỷ trọng 54,4% tổng
nguồn vốn huy động.
* Theo khối các tài chính tín dụng:
Tỷ trọng vốn huy động của các Ngân hàng thơng mại nhà nớc chiếm 77%,
các Ngân hàng thơng mại cổ phần chiếm 9%, các Ngân hàng liên doanh và chi
nhánh ngân hàng nớc ngoài chiếm 14%.
+ Huy động vốn qua các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng: các
tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng (các công ty tài chính, công ty thuê
mua tài chính, các công ty Bảo hiểm...) là những tổ chức có vai trò quan trọng
trong hoạt động của thị trờng vốn và là nơi cung cấp vốn trung dài hạn cho đầu t
phát triển trên địa bàn. Tuy nhiên, hiện nay quy mô vốn huy động của các tổ chức
này còn nhỏ, chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 7,36% nguồn số vốn trung và dài hạn huy
động trên địa bàn và chủ yếu là vốn huy động của các công ty bảo hiểm. Cụ thể:
++ Đối với các công ty tài chính, các công ty thuê mua tài chính: Tính đến
31/12/2002, số d vốn huy động qua các tổ chức này là 470 tỷ đồng và luỹ kế đến
hết tháng 5/2002 là: 1.121,95 tỷ đồng (trong đó vốn tự huy động là 61,9 tỷ đồng,
vốn uỷ thác của các tổ chức khác là: 1.058,9 tỷ đồng) tăng 238% so với đầu năm
2002 và chiếm tỷ trọng 3,3% nguồn vốn trung và dài hạn.
++ Đối với các công ty Bảo hiểm: Thị trờng bảo hiểm Việt Nam phát triển
rất nhanh chóng trong thời gian qua, phạm vi quy mô hoạt động ngày càng đợc
mở rộng, với nhiều loại hình , sản phẩm đa dạng. Trớc năm 1994, thị trờng bảo
hiểm mới chỉ có 20 sản phẩm bảo hiểm thì nay trên thị trờng có hơn 90 loại sản
phẩm bảo hiểm. Doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân 23%/năm và chiếm
0,97% so với GDP (năm 2001). Vốn và tích luỹ các quỹ dự phòng nghiệp vụ đợc
tăng cờng góp phần thúc đẩy thị trờng tài chính, thị trờng vốn trên địa bàn. Ước
tính đến cuối năm 2001, tổng số vốn và tích luỹ các quỹ dự phòng nghiệp vụ của
các công ty bảo hiểm trên địa bàn là: 1.765 tỷ đồng và ớc đến cuối tháng 5/2002
là 2.000 tỷ chiếm tỷ trọng 4, 06% nguồn vốn trung và dài hạn.
Ngoài ra còn hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân song quy mô huy
động vốn của các Quỹ tín dụng nhân dân còn rất nhỏ bé vai trò của chúng cũng
hết sức mờ nhạt trong hoạt động của thị trờng tài chính.
* Huy động vốn qua thị trờng chứng khoán: ở Hà Nội cha có thị trờng
chứng khoán có tổ chức, các thị trờng tiền tệ hoạt động vẫn còn kém năng động,
thiếu tính kết dính và với quy mô nhỏ bé, do đó cha có tác động đáng kể đến nền
kinh tế nói chung và thị trờng vốn nói riêng.
* Huy động vốn qua KBNN. Giai đoạn 1996 - 2000 tổng số vốn huy động
đạt 7.430 tỷ đồng đã góp phần bù đắp thiếu hụt ngân sách, ổn định tiền tệ và ngăn
chặn lạm phát. Năm 2001 và 6 tháng đầu năm 2002 đã huy động đạt 1.112 tỷ
đồng, KBNN Hà nội luôn là đơn vị dẫn đầu trong cả nớc về doanh số huy động
của hệ thống KBNN, tỷ trọng huy động vốn của Hà nội thờng xuyên chiếm
khoảng 30% số huy động vốn cả nớc, khối lợng huy động vốn ổn định và duy trì ở
mức khá với các hình thức huy động trái phiếu khá đa dạng, đợc quy định cho
từng đợt phát hành: trái phiếu không mệnh giá, trái phiếu có mệnh giá, công trái
xây dựng Tổ quốc, trái phiếu chiết khấu...
Nhìn chung trong những năm qua, tổng vốn đầu t xã hội của Thành phố đạt
tốc độ tăng trởng khá tốt, nhất là những năm gần đây. Nguyên nhân của sự tăng tr-
ởng các nguồn vốn trên là nhờ sự nỗ lực của các ngành, các cấp, các thành phần
kinh tế, đồng thời các chính sách ban hành của Nhà nớc đã tạo điều kiện đẩy
mạnh việc huy độngvà sử dụng vốn đầu t từ các thành phần kinh tế đặc biệt là
Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô Hà nội sau khi ban
hành đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới cơ chế, cải cách thủ tục hành
chính, huy động tối đa các nguồn lực cho đầu t phát triển kinh tế Thủ đô.
Trong giai đoạn từ 1996 đến 6/2002 các phơng thức huy động ngày một đa dạng và phong phú để thu
hút nguồn tiền gửi từ các tầng lớp dân c nh: Tiết kiệm xây dựng nhà ở, huy động vốn bằng vàng, huy động vốn
bằng VND đảm bảo giá trị theo vàng, mở tài khoản cá nhân, tiết kiệm dài hạn (kỳ hạn từ trên 12 tháng ), phát
hành trái phiếu NHTM (cả nội và ngoại tệ)... Hiện nay, huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu vẫn đ ợc
các NHTM sử dụng khá phổ biến. Tuy công tác huy động vốn trên địa bàn Hà nội đạt kết quả
khá tốt với các hình thức huy động vốn khá đa dạng, linh hoạt, nguồn vốn huy động vài
năm gần đây đạt tốc độ tăng khá cao so với tỷ lệ tăng chung của toàn quốc nhng vẫn cha đáp ứng đợc
yêu cầu về nguồn để cho vay trung và dài hạn (năm 1996 tỷ trọng vốn trung và dài hạn trong
tổng vốn huy động khoảng 10%, năm 2001: 25% và đến 6/2002 là 26,2%). Thực hiện chỉ đạo của NHNN Việt
Nam, các NHTM đã tự cân đối dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, đáp ứng nhu
cầu vay vốn mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị,... của các doanh nghiệp. Tính riêng giai đoạn 1996 -
2000, nguồn vốn huy động trung dài hạn cảu các NHTM mới chỉ đáp ứng đợc
56,81% nhu cầu vay vốn trung dài hạn của các DN. Trong khi đó, lợng vốn trung,
dài hạn của các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng còn nhỏ bé và cha đợc
tích cực khai thác để phục vụ cho các dự án đầu t phát triển kinh tế của Thủ đô.
Việc huy động vốn nhàn rỗi thông qua Kho bạc Nhà nớc chỉ thực hiện khi có
quyết định của Bộ trởng Bộ Tài chính trên cơ sở nhu cầu của sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của cả nớc hoặc bù đắp thiếu hụt của Ngân sách Trung ơng, cha có
tác động trực tiếp tới việc phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Các công cụ và
hình thức huy động vốn còn nghèo nàn, hình thức trái phiếu đô thị cha đợc sử
dụng để huy động vốn dài hạn cho đầu t phát triển. Vì vậy, hiện nay lợng tiền
nhàn rỗi trong khu vực dân c còn khá lớn.
Về tổng thể, hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng trên địa bàn
Thành phố vẫn còn tồn tại một số khó khăn vớng mắc sau:
Thứ nhất, sự cạnh tranh "phân chia thị trờng" bởi các kênh huy động vốn
khác nhau: tiết kiệm bu điện; bảo hiểm; các tổ chức tài chính khác... vẫn là khó
khăn chủ yếu hiện nay đối với hoạt động huy động vốn của các NHTM. Đặc biệt,
tiết kiện bu điện với lợi thế về cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phép thực hiện các giải
pháp kỹ thuật hiện đại trong việc gửi và rút tiền nhanh - thuận tiện và an toàn đã
thu hút nhiều ngời dân gửi tiền qua hình thức này, thời gian giao dịch dài hơn và
liên tục hơn.
Thứ hai, tỷ trọng vốn huy động trung, dài hạn cha cao nên gây khó khăn
cho các tổ chức tín dụng tiếp cận với các dự án thuộc chơng trình kích cầu đầu t
phát triển hạ tầng các ngành y tế, giáo dục, và hạ tầng giao thông của Thành phố
có nhu cầu vốn vay rất lớn.
Thứ ba, ngời dân cha có thói quen gửi tiền tiết kiệm trung và dài hạn, mặc
dù tiền gửi có kỳ hạn chiếm 80% vốn huy động, nhng tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dới
1 năm) lại chiếm 50% vốn huy động. Các NHTM hiện đã có loại hình tiền gửi
trung hạn (24, 36 tháng) nhng cha thu hút đợc ngời dân gửi tiền. Nguyên nhân
tình trạng này là do:
+ Ngời dân cha thực sự tin tởng để có thể gửi tiền dài hạn vào hệ thống
ngân hàng.
+ Sổ tiết kiệm và các loại hình tiền gửi không có khả năng chuyển nhợng
trên thị trờng thứ cấp.
+ Chênh lệch về lãi suất giữa tiền gửi ngắn hạn và dài hạn cha đủ sức hấp
dẫn ngời dân gửi tiền.
+ Những cơ sốt của thị trờng bất động sản đang thu hút một lợng lớn vốn
đầu t dài hạn đầu t vào bất động sản.
Thứ t, lãi suất đã đợc tự do hóa, tuy nhiên khả năng can thiệp để điều chỉnh
lãi suất bằng các công cụ gián tiếp thông qua nghiệp vụ thị trờng mở của ngân
hàng nhà nớc lại rất hạn chế. Do đó, khi lãi suất huy động bị đẩy lên giá quá cao,
ngân hàng nhà nớc tỏ ra lúng túng trong việc điều tiết gây khó khăn trong công
tác huy động vốn, nhất là vốn trung và dài hạn trong hệ thống NHTM.
Thứ năm, công cụ tài chính chủ yếu để thu hút vốn dài hạn là trái phiếu. Về
lý thuyết, thời hạn huy động và cho vay càng dài thì lãi suất phải càng cao. Nhng
cũng do sự thiếu ổn định chung của nền kinh tế, đặc biệt là việc dự báo lạm phát,
tỷ giá rất khó khăn, nên ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc định ra lãi suất
huy động (trái phiếu) để sao cho ngân hàng huy động đợc, cho vay đợc và ngân
sách không phải bù đắp một cách quá mức.
Thứ sáu, các công cụ có tác dụng bảo đảm an toàn cho ngời gửi tiền và ng-
ời đầu t cha đủ để có thể giảm thiểu rủi ro cho ngời gửi tiền (tức là các nhà đầu t).
Thứ bảy, các dịch vụ ngân hàng tuy đã có bớc phát triển mới, đa dạng và
phong phú hơn, nhng vẫn còn sơ sài và hạn chế ở tính hữu dụng. Thực tế này làm
hạn chế khả năng tăng luân chuyển vốn, nhất là ở các vùng nông thôn, dẫn đến
không khuyến khích đợc tiết kiệm.
Thứ tám, hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ - kỹ thuật tài chính (dịch vụ
kiểm toán, t vấn tài chính, đầu t, hệ thống kế toán, thông tin, lu ký, đăng ký, xếp
hạng tín nhiệm...) còn cha đáp ứng đợc yêu cầu cho sự phát triển thị trờng vốn dài
hạn, nhất là để thị trờng cổ phiếu hoạt động có hiệu quả.
Ngoài ra, hoạt động huy động vốn dài hạn còn gặp phải những hạn chế
từ phía các cơ quan chức năng, nh:
- Nền kinh tế cha phát triển ổn định, bền vững làm giảm khả năng huy
độngvà khó định hớng trong lĩnh vực huy động và đầu t vốn phát triển.
- Hệ thống luật pháp về tài chính cha hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, đặc biệt là
cha có luật về chứng khoán và thị trờng chứng khoán và thiếu chính sách khuyến
khích phát triển hoạt động tài chính và thị trờng tài chính. Hệ thống pháp luật về
ngân hàng còn những điểm cha phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập
quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Đồng thời, các quy định, pháp luật liên quan
nh: Luật đất đai, Luật doanh nghiệp, Luật thơng mại còn những bất cập cho nên
đã ảnh hởng phần nào đến sự phát triển của thị trờng vốn dài hạn.
Ngày 20/07/2000, thị trờng chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt
động với sự khai trơng của Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên của Việt
Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu một bớc tiến quan trọng trong quá
trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trờng tài chính ở Việt Nam, mở ra kênh
huy động vốn trung và dài hạn mới bên cạnh hệ thống Ngân hàng, các tổ chức tài
chính tín dụng phi ngân hàng. Ngày 27/02/2002, Thủ tớng Chính phủ đã phê
duyệt đề án thành lập thị trờng chứng khoán dành cho cổ phiếu của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà nội đợc giao nhiệm vụ
xây dựng và quản lý hệ thống giao dịch cho loại cổ phiếu này. Đây là một bớc mở
đầu tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thị trờng chứng khoán trên địa bàn Hà
nội. Tuy nhiên, cho đến nay trên thực tế Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà nội
vẫn cha chính thức khai trơng trên địa bàn Thủ đô, mới chỉ có sự phát triển ở mức
ban đầu của thị trờng chứng khoán (thị trờng sơ cấp), cụ thể:
+ Thị trờng trái phiếu ngân hàng: Thời gian qua trái phiếu ngân hàng là
công cụ hỗ trợ đắc lực các ngân hàng thơng mại đa dạng hoá thêm kênh huy động,
giải toả kịp thời mất cân đối giữa cung và cầu tín dụng trong nền kinh tế nhng chủ
yếu mới có Ngân hàng đầu t phát triển là phát hành trái phiếu đều đặn hàng năm.
+ Thị trờng trái phiếu doanh nghiệp: Việc triển khai thị trờng này mới
mang tính chất thời điểm, hiện nay các trái phiếu doanh nghiệp Nhà nớc cha đợc
bán rộng rãi cho công chúng mà chủ yếu mới đợc phát hành trong phạm vi hẹp.
+ Thị trờng cổ phiếu: Hiện nay tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà n-
ớc ở nớc ta nói chung và tại Hà nội nói riêng còn chậm, do đó thị trờng cổ phiếu
còn hết sức nhỏ bé. Trong khi đó đã có biểu hiện sự hoạt động của thị trờng tự do
nằm ngoài quỹ đạo quản lý của Nhà nớc.
Trong thời gian tới, việc xuất hiện và duy trì hoạt động của Trung tâm giao
dịch chứng khoán Hà nội cùng với việc thúc đẩy nhanh hơn tiến trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc, hàng hoá trên thị trờng chứng khoán sẽ đợc cải thiện đáng
kể về số lợng, chất lợng và chủng loại, các công ty chứng khoán trên địa bàn sẽ
xuất hiện nhiều hơn và sẽ có sự cạnh tranh gay gắt hơn. Do vậy, dự báo thị trờng
chứng khoán trên địa bàn Hà nội với lợi thế là Thủ đô sẽ ngày càng đợc hoàn
thiện về tổ chức, mở rộng về quy mô, nâng cao về chất lợng và hiệu quả và sẽ là
một kênh quan trọng huy động vốn dài hạn cho đầu t phát triển kinh tế Thủ đô.
Tóm lại, có thể thấy rằng, mặc dù tổng vốn đầu t xã hội trên địa bàn tăng
trởng liên tục suốt thời gian qua và Hà Nội đã có sự chuyển mình rất mạnh, rất
quyết liệt để có bộ mặt sáng sủa, đẹp đẽ và đáng tự hào nh hiện nay; song về ph-
ơng diện vốn đầu t dài hạn, Hà Nội đang đứng trớc 3 vấn đề bức xúc sau:
Thứ nhất, Hà Nội đang rất cần vốn đầu t để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu,
phát triển kinh tế theo hớng CNH- HĐH, xây dựng Thủ đô đàng hoàng hơn, to
đẹp hơn, tuy nhiên còn nhiều nguồn vốn cha đợc khai thác trực tiếp cho phát
triển kinh tế xã hội Thủ đô .
Hàng năm, Hà Nội chuyển về TW trên 65% tổng nguồn thu NSNN trên địa
bàn. Các ngân hàng Hà Nội cũng thu hút tới 40% tổng nguồn vốn huy động của
hệ thống ngân hàng cả nớc, song có tới 50% số đó lại đợc chuyển đi các tỉnh hoặc
địa phơng khác. Các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ (điển hình là trái phiếu
giáo dục năm 2003) luôn đợc Thành phố hởng ứng tích cực và đứng hàng đầu cả
nớc về kết quả vốn huy động cũng nh thời gian thực hiện. KBNN Hà Nội huy
động tới 30% vốn cho NSNN qua phát hành TPCP, song hầu nh số tiền huy động
đợc lại chuyển hết về Trung ơng.
Hà Nội nờm nợp xe máy, ô tô, tràn trề các hàng ngoại nhập cao cấp và
không ngừng mọc lên các công trình của t nhân đồ sộ không thua kém của Nhà n-
ớc. Hà Nội có hàng trăm sinh viên du học tự túc mỗi năm mang theo ra nớc ngoài
hàng triệu USD học phí và các chi phí ăn, ở và sinh hoạt cần thiết khác. Trong số
2 tỷ USD kiều hối gửi về Việt Nam năm 2003 có lẽ không dới 1/3 số đó chuyển
qua "cổng" Hà Nội
Trong khi đó, hiện có tới trên 50% doanh nghiệp ở Hà Nội cha đợc vay vốn
ngân hàng. Các NHTM Nhà nớc cho các doanh nghiệp t nhân vay không quá 20%
tổng d nợ vay hàng năm của mình do các điều kiện về thế chấp và cả vấn đề, các
quán tính tâm lý và thói quen. Vốn ngân hàng cho vay dài hạn chỉ đáp ứng đợc
50% nhu cầu các doanh nghiệp. Trên 90% các doanh nghiệp trên địa bàn là thuộc
loại quy mô nhỏ và vừa với số vốn dới 5 tỷ đồng, đang đòi hỏi những khoản đầu t
rất lớn để tăng cờng sức cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu thị trờng trong bối cảnh mở
cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Nói cách khác, các doanh nghiệp và công trình đang
khát vốn bên dòng sông vốn khá dồi dào của Hà Nội.
Thứ hai, trên địa bàn có rất nhều nhà đầu t tiềm năng, song cha tìm đợc
cơ hội và hình thức đầu t thích hợp.
Công tác xã hội hoá hiểu theo nghĩa tự do hoá và bình đẳng hoá trong đầu
t mới đi đợc những bớc đầu tiên. Nhu cầu vệ sinh môi trờng, nhu cầu giao thông
vận tải công cộng, nhu cầu nớc sạch, nhu cầu giáo dục - đào tạo, nhu cầu dịch vụ
việc làm, nhu cầu vui chơi - giải trí lành mạnh và nhiều nhu cầu phát triển kinh
tế- xã hội khác nữa của Thành phố vẫn giữ nguyên sự nóng bỏng của mình, thậm
chí còn có xu hớng gia tăng tính cấp thiết trong thời gian tới. Tuy vậy, hoặc do cha
đợc khuyến khích hay cha có cơ chế thích hợp mà nhiều nhà đầu t t nhân cha đợc
kích thích " mở hầu bao" an tâm bỏ vốn đầu t lâu dài "danh chính ngôn thuận" vào
các dự án thuộc các lĩnh vực này, để tạo ra những động lực phát triển mới và sự
cạnh tranh lành mạnh đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội
chung trong các lĩnh vực này. Trong khi đó, nhiều lĩnh vực thuộc độc quyền của
các doanh nghiệp Nhà nớc thì đang trở nên quá tải với khả năng hoạt động của
các doanh nghiệp này. Nếu các trờng đại học t nhân, dân lập trên địa bàn Thành
phố đợc phép thuê đất, xây trờng, hiện đại hoá cơ sở vật chất của mình thì sẽ có
nhiều trờng không thua kém các trờng đại học công lập cả về hình thức, quy mô,
chất lợng và uy tín. Hoặc nếu mô hình hợp tác xã dịch vụ môi trờng Thành Công
đợc nhân rộng, chứ không chỉ đợc làm thí điểm nh hiện nay, thì hẳn là thành phố
đã xanh, sạch, đẹp và tiết kiệm kinh phí ngân sách Nnà nớc hơn nhiều... Cũng nh
vậy, nếu thành phố dùng cơ chế BOT hoặc mua nớc sạch của doanh nghiệp t nhân
khai thác nớc sạch qua đồng hồ tổng, rồi tổ chức kinh doanh phân phối cho dân,
thì hẳn hàng ngàn hộ nội thành đã không phải dùng nớc giếng khoan không đạt
tiêu chuẩn vệ sinh nh hiện nay.
Hơn nữa, trong nhiều gia đình Hà Nội luôn có khoản tích luỹ hoặc nhu cầu
đầu t kinh doanh, song cha tìm đợc cơ hội và hình thức đầu t thích hợp. Hà Nội
cha có nhiều công ty đầu t tài chính, công ty cổ phần và các chứng khoán thích
hợp đủ uy tín để thu hút các khoản vốn nhàn rỗi trong dân. Các ngân hàng và
quầy tiết kiệm vẫn là sự lựa chọn bắt buộc của các gia đình tằn tiện; còn đối với
nhiều ngời có tiền khác thì hoặc mua vàng, ngoại tệ, bất động sản để giành và đầu
cơ, hoặc mua sắm các tiện nghi vật dụng cao cấp ngoại nhập, thậm chí tham gia
kinh doanh đen (cho vay nặng lãi, số đề...).
Thứ ba, trong khi ngân sách Thành phố đang chắt bóp từng đồng để lựa
chọn, cân nhắc u tiên đầu t đúng lúc, đúng chỗ, thì có hàng trăm tỷ đồng vốn và
tài sản Nhà nớc bị thất thu, thất thoát, lãng phí hoặc bỏ hoang.
Hiện nay, Hà Nội có hàng trăm ngàn m
2
đất, thậm chí nhiều khu ở các vị trí
rất đắc dịa, bị bỏ hoang theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; nhiều khu công viên
cây xanh hiu hắt, tẻ nhạt; nhiều doanh nghiệp nhà nớc chiếm giữ các diện tích đất
rất rộng, thậm chí thừa mà không chịu nộp thuế sử dụng đất hoặc nộp hình thức.
Nhiều hợp tác xã và doanh nghiệp nhà nớc cổ phần hoá đang trở thành nơi găm
giữ hoặc gây thất thu những khoản tiền từ đất rất lớn. Nhiều công sở bị xuống cấp
cần giải phóng mặt bằng để xây mới, đa vào sử dụng có hiệu quả hơn, song đã
nhiều năm nay không triển khai đợc chỉ vì sự t lợi hoặc tắc trách khó hiểu của ai
đó và cả của cơ chế. Hàng ngàn ha rừng hoặc các danh lam thắng cảnh, các tài
nguyên nớc, dòng sông trên địa bàn cha đợc đánh thức hoặc đa vào khai thác hiệu
quả hơn theo phơng thức kết hợp công- nông- lâm ng nghiệp - du lịch tạo ra các
nguồn thu mới, đa dạng và dồi dào cho ngân sách thành phố, địa phơng. Đó là cha
kể các khoản thất thu khó đo lờng trong khu vực kinh tế t nhân, mà nổi cộm là thu
từ trong lĩnh vực giao thông vận tải và thơng mại.
Đứng trớc bài toán lớn và phức tạp: làm gì để khơi thông, phối hợp và định
hớng các dòng chảy vốn đầu t vào thoả mãn nhu cầu đầu t phát triển kinh tế - xã
hội Thủ đô, trong thời gian tới Hà Nội cần có nhiều bứt phá mạnh dạn và quyết
liệt hơn về nhận thức, cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện, mà trớc hết cần tập
trung vào các nội dung sau:
Một là, sớm chủ động phối hợp với TW hoàn chỉnh bổ sung, cụ thể hoá các văn bản pháp lý cần thiết và
đặc thù phù hợp cho Hà Nội theo tinh thần Pháp lệnh Thủ Đô số 29/2000/PL-UBTVQH khoá X và Nghị quyết
15-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 15/12/2000 về phơng hớng nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ
2000 - 2001. Đa dạng hóa và mạnh dạn sử dụng nhiều hình thức và công cụ đầu t mới để thu hút các nguồn vốn
nhàn rỗi (thành lập các Quỹ đầu t phát triển, Quỹ đầu t rủi ro, phát triển thị trờng chứng khoán, phát triển các
Công ty cổ phần đa sở hữu, phát triển các Công ty đầu t tài chính, phát triển các phơng thức thuê mua tài chính,
thanh toán bồi hoàn, thống nhất cơ chế, cách thức tổ chức và tăng cờng đấu giá quyền sử dụng đất ở các quận,
huyện phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp và các loại hình
doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác).
Hai là, tổ chức triển khai đồng loạt, mạnh mẽ hơn và nhất quán theo kế
hoạch rõ ràng, cụ thể các hoạt động xã hội hoá đầu t phát triển KT-XH, giảm
thiểu độc quyền phi kinh tế, mở rộng tự do hoá và bình đẳng hoá cơ hội, điều kiện
đầu t kinh doanh giữa các thành phần kinh tế. Thúc đẩy cải cách hành chính mạnh
và thực sự hơn để cải thiện môi trờng kinh doanh Thủ đô cho tất cả các thành phần
kinh tế: nhà nớc - t nhân, trong nớc - nớc ngoài.
Thứ ba, tổng kiểm tra các tài sản công của thành phố, đánh giá đúng thực
trạng, yêu cầu sử dụng để bóc tách, đa các tài sản công vợt quá tiêu chuẩn sử dụng
vào thị trờng vốn thành phố, làm tăng thu ngân sách Nhà nớc. Đặc biệt, xây dựng
các phơng án khai thác, quản lý, sử dụng quỹ đất của thành phố theo hớng thị tr-
ờng hơn, công bằng và công khai hơn, tạo thuận lợi và động lực đầu t từ các nhà
đầu t t nhân và doanh nghiệp. Xây dựng và triển khai các quy hoạch sử dụng đất
cho các dự án phát triển các trờng học t nhân, doanh nghiệp t nhân và các cơ sở
dịch vụ - giải trí do t nhân đầu t và quản lý.
Thứ t, tăng cờng phân cấp quản lý Nhà nớc về đầu t trên địa bàn để giảm
thiểu tình trạng tập trung, ôm đồm hình thức, cơ chế xin - cho không cần thiết,
không hiệu quả và cả sự thụ động hay lạm dụng trong cơ chế đầu t và quản lý đầu
t trên địa bàn.
Thứ năm, tăng cờng thanh tra kiểm tra và xử lý thích đáng, kịp thời các vi
phạm pháp luật trong đầu t (đặc biệt là đầu t từ nguồn vốn XDCB tập trung của
NSNN Thành phố) nói riêng và quản lý KT - XH nói chung. Và quan trọng hơn
hết là thi hành rộng rãi, nhất quán trên thực tế chính sách thu hút và sử dụng nhân
tài mà thành phố đã khởi xớng.
II.2. Huy động và sử dụng vốn dài hạn qua ngân sách nhà nớc
II. 2.1. Huy động và sử dụng vốn dài hạn qua kênh vốn XDCB tập trung của
NSNN Thành phố
Giai đoạn 1991-2000, tổng vốn đầu t XDCB của Hà Nội tăng 11 lần, trong
đó tỷ trọng vốn đầu t từ nguồn nhà nớc tăng mạnh từ 11,1% năm 1996 lên 21,5%
năm 2000, vốn tín dụng nhà nớc cũng tăng tơng ứng từ 1,8% lên 3,2%.
Vốn đầu t xây dựng cơ bản tập trung do Thành phố Hà Nội quản lý là nguồn vốn
ngân sách trung ơng cân đối cho Thành phố hàng năm, để đầu t vào các dự án xây
dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nớc.
Hàng năm, căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn,
Thành phố xây dựng danh mục dự án đầu t sử dụng nguồn vốn ĐT XDCB TT của Nhà n-
ớc trình Thủ tớng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu t phê duyệt và thông báo cho Thành
phố. Thực tế do độ lệch pha giữa cung và cầu vốn, nên kế hoạch vốn ĐT XDCB TT của
Thành phố thờng phải điều chỉnh nhiều lần. Do tình hình trên, nên công tác kế hoạch và
triển khai kế hoạch huy động nguồn vốn ĐT XDCB TT của Thành phố thờng xuyên rất khó
chủ động.
Biểu1 : Phân bổ vốn ĐT XDCB tập trung theo lĩnh vực kinh tế-xã hội (1997-2001)
Năm
Chỉ tiêu
1997 1998 1999
2000 2001
Tổng số (tỷ đồng)
258 234 288
527,7 971
Tỷ trọng (%) 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
- Công nghiệp (tỷ đồng) 5 31 2 38,8 62
Tỷ trọng (%) 1,9 1,4 0,8 7,4 6,39
- Nông nghiệp (tỷ đồng) 12 14 24 43,5 34,4
Tỷ trọng (%) 4,7 5,9 8,3 8,2 3,54
- Giao thông (tỷ đồng)
88 71 60 72 286
Tỷ trọng (%) 34,2 30,5 20,8 13,6 29,45
- Công cộng (tỷ đồng) 64 66 87 62,1 157
Tỷ trọng (%) 24,8 28,3 30,2 11,77 16,2
- Cấp nớc (tỷ đồng) 29 - 33 17,4 62,3
Tỷ trọng (%) 11,2 - 11,4 3,3 6,4
- PT. Đô thị (tỷ đồng) - - 18 58,9 145
Tỷ trọng (%) - - 6,2 11,2 14,9
- GD - ĐT (tỷ đồng) 15 20 26 56 72,1
Tỷ trọng (%) 5,8 8,5 9,0 10,6 7,4
- VH - TD - TT (tỷ đồng) 7,3 - 14 37,1 59,5
Tỷ trọng (%) 2,8 - 4,9 7 6,1
- Y tế - BHXH (tỷ đồng) 16 - 12 42,1 20
Tỷ trọng (%) 5,4 - 4,2 8 2
Nguồn: Sở KH&ĐT Hà Nội
Những năm qua, nguồn vốn ĐT XDCB TT của Nhà nớc mà Trung ơng cân
đối cho Hà Nội có qui mô rất khiêm tốn. Giai đoạn (1997-2001), bình quân mỗi
năm đợc 460 tỷ đồng, chiếm khoảng 6,5% tổng vốn đầu t trong nớc đợc huy
động cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Nếu so với tổng mức vốn đầu t
của các dự án đầu t đợc duyệt từ nguồn vốn đầu t tập trung của Nhà nớc, mới
đáp ứng khoảng 20%. Đây là con số rất thấp so với nhu cầu vốn đầu t từ nguồn
vốn này của Thành phố. Về tốc độ tăng trởng nguồn vốn hàng năm so với năm
trớc thì năm 1997 là 0%, tụt giảm (-8,2%) trong năm 1998 rồi tăng lên 23,17%
trong năm 1999 rồi 74,16% trong năm 2000 và năm 2001 đạt 84%.
Do nguồn vốn huy động không đáp ứng đợc yêu cầu, dẫn đến nhiều dự án
đầu t xây dựng cơ bản của Thành phố đợc ghi kế hoạch nhng không có vốn, hoặc
có vốn nhng phải ghi kế hoạch vốn ra nhiều năm. Điều đó sẽ tác động đến hiệu
quả sử dụng vốn ĐT XDCB TT của Thành phố.
Xét theo các giai đoạn đầu t , thì vốn ĐT XDCB TT hàng năm đợc Thành phố
bố trí chủ yếu cho khâu thực hiện dự án, chiếm trên 90% tổng nguồn vốn này.
Điều này hợp lý vì khai thác tối đa nguồn vốn cho thực hiện nội dung dự án.
Biểu 2 : Cơ cấu vốn đầu t XDCB TT theo các giai đoạn của đầu t (1997 - 2001)
Năm
Chỉ tiêu
1997 1998 1999
2000 2001
Tổng số vốn đầu t (tỷ đồng) 268 246 303 527,7 971
Tỷ trọng (%) 100 100 100 100 100
Vốn thực hiện dự án (tỷ đồng) 258 234 288 506,7 658,2
Tỷ trọng (%) 96,3 95,1 95,0 96 68
Vốn cho các giai đoạn chuẩn bị (tỷ đồng) 10 12 15 21 312,8
Tỷ trọng (%) 3,7 4,9 5,0 4 32
Nguồn: Sở KH&ĐT Hà Nội
Xét theo cơ cấu ngành, lĩnh vực thì vốn ĐT XDCB TT hàng năm của Thành
phố đợc phân bổ chủ yếu cho lĩnh vực giao thông, công trình công cộng, có u
tiên lĩnh vực nông nghiệp và một số dự án hạ tầng công nghiệp.
Đối với công nghiệp, Thành phố chỉ phân bổ một tỷ trọng rất nhỏ nguồn vốn
ĐT XDCB TT, năm 1997 là 1,9 %, giảm nhẹ trong 2 năm tiếp theo; năm 2000 tỷ trọng
này tăng lên 7,4% và 6,39% trong năm 2001. Điều này thể hiện đợc sự quan tâm đầu t
ngân sách nhà nớc cho phát triển công nghiệp trong thời gian gần đây và chủ trơng
khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nguồn tài trợ bằng vốn vay đối với các dự án
đầu t phát triển công nghiệp.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, giai đoạn 1997- 2001, vốn ĐT XDCB TT đợc
phân bổ với tỷ trọng bình quân 6%, chủ yếu đầu t vào các dự án công trình thuỷ lợi, hạ
tầng giao thông nông thôn, các dự án cung cấp sản phẩn nông nghiệp có quy mô vừa
và nhỏ. Năm 2000, nguồn vốn tập trung phân bổ cho lĩnh vực nông nghiệp có tỷ trọng
(8,2%) và qui mô lớn nhất (43,5 tỷ) trong 5 năm qua, trong đó khoảng 50% số vốn đợc
bố trí đầu t vào công trình hạ tầng nông thôn (giao thông, nớc sạch). Tỷ lệ nguồn vốn
đầu t cho nông nghiệp và nông thôn biến động trong các năm qua cho thấy vài năm
gần đây Thành phố đã chú ý hơn cho đầu t khu vực này theo chỉ đạo của Trung ơng.
Tuy vậy, nhiều dự án, công trình xây dựng cơ bản nông nghiệp và nông thôn Hà Nội
cần hỗ trợ nguồn vốn đầu t tập trung của ngân sách Nhà nớc nhng nguồn vốn này lại
quá hạn hẹp, cha tơng xứng với yêu cầu và tiềm năng khai thác.
Về giao thông đô thị, đây là lĩnh vực đợc Thành phố quan tâm và phân bổ
nguồn vốn đầu t tập trung lớn nhất kể cả quy mô và tỷ trọng. Tuy nhiên, tỷ trọng này
từ mức 34,2% (năm 1997), rồi giảm dần, chỉ còn 20,8% trong năm 1999 và tăng dần
lên 29,45% trong năm 2001. Với tỷ trọng chung nh thế là tơng đối cao, song do quy
mô tổng nguồn vốn đầu t XDCB tập trung hàng năm thấp, nên lợng vốn đầu t tập trung
của nhà nớc vào lĩnh vực giao thông đô thị cha thể đáp ứng nhu cầu.
Lĩnh vực công cộng có qui mô và tỷ trọng vốn đầu t tập trung đợc phân bổ khá
lớn, tăng liên tục qua các năm. Năm 1997 có tỷ trọng vốn phân bổ là 24,8% thì năm
1999 đã có mức vốn đợc phân bổ là 87 tỷ đồng, tơng ứng với tỷ trọng là 30,2%, sang
năm 2001 có tỷ trọng là 16,2% nhng với mức vốn 157 tỷ đồng. Lĩnh vực đầu t công
cộng đòi hỏi nguồn vốn đầu t rất lớn, nhng nguồn vốn đầu t XDCB TT của Nhà nớc chỉ
có giới hạn, không thể đáp ứng, trong khi đó, hớng chuyển một số dự án thuộc lĩnh vực
này thành các dự án xây dựng t kinh doanh - để thu hồi vốn cha đợc các nhà đầu t mặn
mà vì lợng vốn đòi hỏi rất lớn, mà khả năng thu hồi vốn của các dự án lại ở mức thấp.
Đối với lĩnh vực phát triển khu đô thị, từ năm 1999 Thành phố bắt đầu phân bổ
vốn đầu t XDCB tập trung vào lĩnh vực này với qui mô và tỷ trọng đáng kể (6,2 %) và
năm 2001 là 14,9% tơng ứng với số vốn 145 tỷ đồng. Cơ cấu vốn đầu t đó phù hợp chủ
trơng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô theo qui hoạch tổng thể đến năm 2010
và 2020 đã đợc Thủ tớng Chính phủ phê duyệt.
Chủ trơng "Giáo dục là Quốc sách hàng đầu" dờng nh thể hiện ngay trong cơ
cấu vốn đầu t tập trung của Thành phố trong các năm qua. Mặc dù qui mô và tỷ trọng
vốn đầu t tập trung phân bổ cho lĩnh vực giáo dục đào tạo còn hết sức khiêm tốn, chỉ
đáp ứng một phần nhu cầu thực tế. Từ tỷ trọng 5,8% trong năm 1997 đã tăng dần, năm
1999 là 9,0%, năm 2000 là 10,6%, giảm còn 7,4% trong năm 2001 song quy mô vốn
có tăng đạt 72 tỷ; tuy nhiên đây là con số đánh giá sự nỗ lực của các cấp, các ngành
Thành phố để thực hiện chủ trơng đó.
Ngoài các lĩnh vực nói trên, nguồn vốn đầu t XDCB tập trung cũng đợc
Thành phố phân bổ cho các dự án đầu t thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội trên địa bàn nh: Y tế, thể dục thể thao, bảo hiểm, quản lý nhà nớc v.v... Tuy
nhiên, do khả năng nguồn vốn có hạn, trong khi nhu cầu vốn rất lớn, nên không
tránh khỏi tình trạng bố trí nguồn vốn đầu t dàn trải, kế hoạch vốn và thời gian thực
hiện dự án kéo dài, ảnh hởng hiệu quả và chất lợng đầu t.
Xét theo cơ cấu kỹ thuật vốn đầu t XDCB TT , mối quan hệ giữa vốn xây lắp, vốn
thiết bị và vốn xây dựng cơ bản khác trong tổng dự toán của dự án đầu t là cơ cấu kỹ
thuật vốn đầu t. Phân tích cơ cấu kỹ thuật vốn đầu t theo số liệu trên Biểu 3 cho phép
rút ra một số nhận xét sau đây:
Biểu 3: Cơ cấu kỹ thuật vốn đầu t XDCB tập trung (1997- 2001)
Đơn vị tính: %
Năm
Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001
Tổng số 100 100 100 100 100
+ Xây lắp 40,8 39,7 36,2 52,7 41,9
+ Thiết bị 3,2 4,1 5,3 10,2 14,9
+ Xây dựng cơ bản khác 56,0 56,2 58,5 37,1 43,2
Nguồn: Sở KH&ĐT Hà Nội
- Thứ nhất, do nguồn vốn đầu t tập trung đợc bố trí chủ yếu cho các dự án thuộc
lĩnh vực cải tạo và xây dựng hạ tầng cơ sở đô thị, (giao thông, công trình công cộng,
phát triển đô thị khác) nên vốn thiết bị trong tổng vốn đầu t tập trung vừa chiếm tỷ
trọng nhỏ, vừa có xu hớng giảm dần. Trong khi đó, vốn đầu t xây dựng cơ bản khác
chiếm tỷ trọng rất lớn và có xu hớng ổn định ở mức cao, khoảng 60,0% trong 3 năm từ
1997 - 1999 và ở mức 40% trong năm 2000 và năm 2001. Vì nguồn vốn đầu t tập
trung hàng năm của Thành phố có qui mô nhỏ, lại phân bổ trên 50% cho khâu xây
dựng cơ bản khác thì rõ ràng, khối lợng hoàn thành công trình đầu t đạt mức thấp. Đây
là đặc điểm khá đặc thù trong bố trí vốn ĐT XDCB TT của Thành phố Hà Nội.
- Thứ hai, vốn xây lắp có tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu t tập trung của Thành
phố, song có xu hớng giảm, từ 40,8% trong năm 1997 còn 36,2% trong năm 1999, và
ở mức 41,9% trong năm 2001. Đây là nhợc điểm không dễ gì khắc phục trong thời
gian ngắn.
- Thứ ba, nguyên nhân chính làm tăng tỷ trọng vốn xây dựng cơ bản khác là
do các dự án đầu t vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn này của Thành
phố phải tiêu tốn chi phí cho khâu giải phóng mặt bằng quá lớn. Đặc biệt trong
khâu quản lý giao thông gắn liền với quản lý đất ở, nhà ở của dân c đô thị. Chi
phí đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng của dự án quá lớn và không nhất quán
không những gây khó khăn về công tác điều hành vĩ mô và nguồn vốn đáp ứng,
mà còn, phức tạp trong triển khai thực hiện dự án đầu t bảo đảm tiến độ và chất
lợng công trình. Đặc điểm này còn phản ánh sự bất cập, yếu kém trong lĩnh vực
qui hoạch phát triển đô thị của Thành phố suốt nhiều năm qua.
Về kết quả thực hiện khối l ợng vốn ĐT XDCB TT , việc phân tích số liệu phản ánh
trên Biểu 4 có thể nhận thấy:
Biểu 4 : Tình hình thực hiện vốn ĐT XDCB tập trung so với kế hoạch (1997-2001)
Đơn vị: %
Năm 1997 1998 1999 2000 2001
Chỉ tiêu
1. Tổng số:
2. Chuẩn bị đầu t
3. Thực hiện dự án
4. Công nghiệp
5. Nông nghiệp
6. Giao thông
7. Công cộng
8. Giáo dục đào tạo
.................
92,5
70,0
93,1
100,0
100,0
98,8
82,5
87,0
94,3
67,0
95,1
60,0
100,0
80,6
100,0
93,4
95,2
85,3
94,2
87,1
98,6
96,0
91,5
94,1
70,8
64,8
80,2
81,3
77,09
92,5
85,4
89,15
90,6
95,27
88,0
97,7
89,85
97,55
87,84
93,0
Tổng số vốn đầu t tập trung thực hiện so với kế hoạch trong các năm qua đạt
mức ổn định khá cao trên 90%. Riêng năm 2000, chỉ đạt 70,8%, do nhiều khó khăn
chung của nền kinh tế, trong đó có nguyên nhân là năm đầu thực hiện cơ chế mới về
quản lý vốn đầu t của Nhà nớc - việc ban hành hai Nghị định mới (52/CP, 88/CP) có
hiệu lực từ tháng 9/1999 nhng đến hết năm 1999 vẫn cha có văn bản hớng dẫn của
các bộ, ngành chức năng, làm bế tắc nhiều khâu trong thực hiện kế hoạch đầu t xây
dựng cơ bản. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn đầu t thực hiện trong năm 2000 đạt tỷ lệ thấp hơn
các năm trớc còn do việc triển khai kế hoạch đầu t xây dựng cơ bản của Thành phố
trong năm chậm hơn các năm trớc.
Về cơ cấu vốn đầu t tập trung thực hiện theo lĩnh vực kinh tế - xã hội đạt tỷ lệ t-
ơng đối đồng đều giữa các lĩnh vực, giữa các năm đạt mức trên dới 85% so với chỉ tiêu
kế hoạch.
Về cơ cấu vốn đầu t tập trung thực hiện theo các giai đoạn của đầu t, thì trong
khâu thực hiện dự án đạt tỷ lệ bình quân 90,12% so với kế hoạch; khâu chuẩn bị đầu t
có mức vốn thực hiện (bình quân 1997 - 2001) đạt khoảng 76,47% so với kế hoạch.
Nguyên nhân dẫn đến vốn đầu t tập trung thực hiện trong khâu chuẩn bị dự án đạt tỷ lệ
thấp là do: Thứ nhất, chỉ tiêu vốn đầu t theo kế hoạch chủ yếu dựa vào ớc tính và tổng
hợp dự toán của từng dự án, nên có độ sai lệnh so với thực tế; thứ hai, việc thanh quyết
toán vốn đầu t các khâu chuẩn bị dự án thờng chậm trễ, do phía thầu t vấn đầu t (khảo
sát, thiết kế, dự toán công trình) có nhiều vớng mắc không xử lý kịp thời.
Đối với khâu thực hiện dự án, tỷ lệ vốn đầu t thực hiện so với kế hoạch đạt mức
tơng đối cao, chứng tỏ Thành phố đã nỗ lực trong việc khai thác tối đa nguồn vốn
Trung ơng cân đối. Bằng chứng cho đánh giá này là ở chỗ, thời hạn cấp phát, thanh
quyết toán vốn thờng đợc kéo dài vào hết tháng đầu thậm chí đến 30/6 của năm sau và
đợc kiểm soát thanh toán qua tài khoản tạm giữ Kho bạc Nhà nớc. Bên cạnh đó, tỷ lệ
vốn đầu t tập trung thực hiện so với kế hoạch trong khâu thực hiện dự án đạt tỷ lệ khá
cao còn ở chỗ, đây là nguồn vốn cấp phát của ngân sách nhà nớc nên thủ tục cấp phát
có phần đơn giản và quen thuộc hơn so với việc cấp phát vốn đầu t từ nguồn vốn tín
dụng và nguồn khác.
Tóm lại, về cơ bản, các dự án đầu t từ nguồn vốn ĐT XDCB TT đợc triển khai
trên địa bàn Thành phố đều tuân thủ đúng trình tự thủ tục quy định với tốc độ tăng tr-
ởng khá nhanh đã góp phần trực tiếp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và gia tăng
tổng đầu t xã hội từ 11.198 tỷ đồng năm 1999 lên 15.426 tỷ đồng năm 2000 và năm
2001 là 16.826 tỷ (trong đó vốn đầu t của Nhà nớc tăng từ 2.593 tỷ đồng năm 1999 lên
3.233 tỷ năm 2000 và 4.266 tỷ năm 2001). Công tác cải cách hành chính trong đầu t
đã từng bớc đợc triển khai: Các ngành đã ban hành quy định nội bộ cơ quan về quy
trình, thời gian tiếp nhận hồ sơ, xử lý giải quyết, nhiều đơn vị đã triển khai theo mô
hình 1 cửa do đó rút ngắn đợc đáng kể thời gian giúp cho Chủ đầu t đẩy nhanh đợc
tiến độ thực hiện dự án.
Tuy nhiên các thủ tục hành chính còn cồng kềnh, có những thủ tục phải qua
nhiều khâu thoả thuận vòng vèo..., các ngành, các cấp cha thực sự làm hết trách nhiệm,
có nơi, có lúc còn gây phiền hà cho Chủ đầu t; năng lực tổ chức thực hiện các dự án
của T vấn và Chủ đầu t còn yếu kém, công tác lập, trình duyệt TKKT-TDT, đấu thầu,
giao đất, đền bù GPMB, thoả thuận các nội dung liên quan đến quy hoạch chi tiết của
dự án (giới thiệu địa điểm, chỉ giới đờng đỏ, cấp số liệu đô thị, chứng chỉ quy hoạch,
thoả thuận tổng mặt bằng), thanh toán khối lợng, quyết toán công trình hoàn thành bàn
giao... nhìn chung tiến độ còn chậm, mất nhiều công đoạn và thời gian, tình trạng vốn
chờ công trình còn phổ biến, hiệu quả kế hoạch đầu t và tiến độ giải ngân vốn đầu t bị
vi phạm, gây lãng phí NSNN và làm tăng các chi phí chìm của chủ đầu t. Đó là những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kết quả triển khai kế hoạch XDCB Thành phố giao mấy
năm qua cha đáp ứng yêu cầu về tiến độ và chất lợng.
Về phân cấp, trớc năm 2003 ngân sách quận huyện mới chỉ đợc phân cấp chi th-
ờng xuyên trong đó có vốn sự nghiệp đầu t có tính chất xây dựng cơ bản để quản lý từ
khâu lựa chọn mục tiêu, quyết định phê duyệt dự án đầu t, phê duyệt và tổ chức thực
hiện các bớc tiếp theo của quá trình thực hiện dự án. So với trớc đây, các quận, huyện
đợc quyền phê duyệt các dự án đầu t đến 1 tỷ đồng (riêng quận Ba Đình và huyện Gia
Lâm đến 2 tỷ đồng), nay theo theo quy định của Nghị định 52/1999/NĐ-CP, dự án sử
dụng nguồn vốn của cấp nào thì cấp đó quyết định đầu t. Do Thành phố vẫn cha thực
hiện phân cấp chi đầu t phát triển cho các quận, huyện, toàn bộ vốn đầu t phát triển
hiện vẫn do Thành phố quản lý tập trung nên tất cả các dự án đầu t phát triển của các
quận, huyện đều tập trung lên Thành phố (qua sở KH và ĐT để phê duyệt dự án, qua
sở Xây dựng và các sở chuyên ngành để phê duyệt TKKT và TDT). Khối lợng đầu t
những năm gần đây tăng cao trong khi định biên cán bộ không thay đổi, dẫn đến sự
quá tải trong công tác quản lý, thực hiện đầu t. Hơn nữa để đợc bố trí vốn đầu t, ngoài
việc đã không chủ động đợc nguồn, các quận, huyện phải lập kế hoạch, lên danh mục
công trình gửi Thành phố và qua nhiều vòng xét duyệt mới đợc ghi kế hoạch. Trên
thực tế, khi đăng ký thì các quận, huyện tìm mọi cách đa nhiều công trình, xin nhiều
vốn làm cho danh mục công trình toàn thành phố vốn đã dài càng dài thêm, vốn đầu t
bị dàn trải, các cơ quan chức năng thành phố khá lúng túng, vất vả vì bị co kéo bởi quá
nhiều mục tiêu, bị chi phối bởi quá nhiều mối quan hệ của cơ chế xin cho, tất yếu dẫn
đến không đảm bảo hiệu quả đầu t, kém hiệu lực, hiệu quả trong công tác điều hành,
quản lý. Trong 2 năm trở lại đây, do sự tích cực đề xuất của Ban Kinh tế - ngân sách
HĐND Thành phố Hà Nội, sự phân cấp này đã đợc mở rộng hơn: cấp quận, huyện đã
đợc phân cấp phê duyệt dự án ĐT XDCB tới dới 5 tỷ đồng theo danh mục thoả thuận
theo kế hoạch hàng năm với Sở KH&ĐT và Sở Tài chính.
II.2.2. Huy động và sử dụng vốn dài hạn qua KBNN
H thng KBNN c giao nhim v t chc v phỏt hnh TPCP theo phng thc: (1) bỏn l qua h
thng KBNN; (2) u thu qua NHNN; (3) u thu qua TTGDCK; (4) Bo lónh v i lý phỏt hnh.
Trong những năm qua, KBNN Hà Nội đã tích cực tham gia vào các hoạt động phát hành TPCP theo sự
chỉ tiêu đợc phân công của Bộ Tài chính và KBNNTW. Thực hiện chủ trơng khai thác tối đa nguồn vốn trong n-
ớc bù đắp bội chi NSNN và đầu t phát triển, từ 1996 đến nay Bộ Tài chính thông qua hệ thống KBNN đã liên tục
phát hành các loại TPKB kỳ hạn 1-2 năm trên địa bàn cả nớc. Để chủ động hơn trong việc sử dụng vốn, từ
9.1996, KBNN dừng phát hành loại trái phiếu 1 năm để phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm. Lãi suất trái phiếu
cũng đợc điều chỉnh giảm dần từ 14%/năm năm 1996 xuống 7%/năm năm 2000. Trong giai đoạn 1996-2000 đã
huy động đợc 17.086 tỷ đồng trái phiếu kho bạc qua kênh bán lẻ. Bên cạnh việc bán lẻ trực tiếp qua hệ thống
KBNN còn áp dụng phơng thức đấu thầu mỗi tuần một lần qua NHNN với lãi suất huy động giảm từ 11%/năm
năm 1996 xuống còn 5%/năm năm 2000, qua 5 năm đã tổ chức đấu thầu đợc 13.142 tỷ đồng tín phiếu cho
NSNN.
Năm 1999, KBNN phát hành công trái xây dựng Tổ quốc (XDTQ) để bổ sung vốn ngân sách đầu t xây
dựng CSHT nông thôn ở các xã nghèo đặc biệt khó khăn với kỳ hạn 5 năm, lãi suất 10%/năm, có tính bù trong
trờng hợp lạm phát có biến động lớn (mức lãi suất 10% đợc xác định trên cơ sở lãi suất thực
là 1,5% và mức lạm phát dự báo là 8,5%. Tuy nhiên mức lãi suất này thấp hơn 3%
so với lãi suất tiền gửi kỳ hạn trên 1 năm của NHTM). Chỉ trong gần 2 tháng triển khai đã
phát hành đợc 4.496 tỷ đồng, hoàn thành vợt mức kế hoạch. Triển khai Nghị định 01/2000/NĐ-CP về qui chế
phát hành TPCP, từ 7.2000 đã triển khai thêm 2 kênh huy động mới là đấu thầu trái phiếu qua TTGDCK và bảo
lãnh phát hành. Đây là kênh phát hành tiên tiến có u điểm tập trung đợc khối lợng vốn lớn, thời hạn dài và chi
phí phát hành thấp. Tổng hợp từ 1996 đến 2000, NSNN đã huy động đợc 32.780 tỷ đồng từ tín phiếu, TPKB và
công trái XDTQ. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đã huy động đợc khoảng 1.000 tỷ đồng trái phiếu công trình.
Nm 2003 c giao huy ng 3.000 t ng v 100 triu USD thông qua phát hành TPCP. V thnh
tớch chung ca h thng KBNN nm 2003, Chớnh ph nhn nh: "KBNN ó hon thnh thng li cuc vn
ng phỏt hnh cụng trỏi giỏo dc v Trỏi phiu Chớnh ph huy ng vn u t cho cỏc cụng trỡnh giao thụng
thu li quan trng ca t nc". Tớnh n ht nm 2003, "tng ngun vn KBNN ó huy ng qua cỏc kờnh
phỏt hnh trỏi phiu v cụng trỏi t khong 25.000 t ng, trong ú huy ng cho NSNN l 14.700 t ng,
t 98% k hoch; phỏt hnh cụng trỏi giỏo dc l 2.579 t ng, t 129% k hoch c giao; phỏt hnh trỏi
phiu Chớnh ph c t 4.500 t ng, t 100% k hoch".
Mặc dù Luật NSNN năm 1996 và Nghị định số 87 ban hành tháng 12 năm 1996 đã cho phép chính
quyền địa phơng vay tiền để phát triển CSHT song mới chỉ có TP.Hồ Chí Minh là đơn vị duy nhất thí điểm phát
hành trái phiếu đô thị theo các bớc sau:
- UBND thành phố đệ trình kế hoạch lên Bộ Tài chính
- Bộ Tài chính ban hành Thông t, qui định thời hạn và điều kiện của trái phiếu.
- UBND thành phố xem xét Thông t và đề xuất một số thay đổi
- Bộ Tài chính xem xét các đề xuất của UBND thành phố và ra quyết định sửa đổi trớc khi phê chuẩn lần cuối
cho việc phát hành trái phiếu.
- Chủ tịch UBND thành phố quyết định thực hiện phát hành trái phiếu.
Do cha t chc phỏt hnh TPCQP m ch tham gia phỏt hnh TPCP theo k hoch chung ca Chớnh
ph nờn cụng tỏc huy ng vn di hn ca KBNN H Ni chu s chi phi ca nhng c im chung v phát
hành và sử dụng nguồn vốn thu đợc TPCP nh sau:
Th nht, quy mụ huy ng vn cũn thp: Tuy tng liờn tc qua cỏc nm song tính đến 31.12.2000, d
nợ tất cả các loại TPCP (kể cả công trái XDTQ) mới chiếm khoảng 4,3%GDP, trong khi đó ở nhiều nớc mức vay
nợ trong nớc lên tới 40-50%GDP, ở Italia hay Nhật Bản lên tới 100%GDP. Đến nay s vn thc s dng cho
NSNN, tr s vay mi tr n c, mi t khong 4-5%GDP. T l d n vn huy ng trong nc bỡnh quõn
khong 2,3%GDP. Theo NHNN, d nợ vay trong nớc của Chính phủ đạt 7,1%GDP tính đến 31.12.2002, chủ yếu
dới dạng chứng khoán nợ. Trong đó, nợ bằng trái phiếu, tín phiếu kho bạc chiếm 38,4%, tơng đơng 2,7%GDP;
TPCP kỳ hạn dới 2 năm chiếm 62,4%; và loại kỳ hạn 5-7 năm, bao gồm công trái và trái phiếu công trình, chiếm
37,6%. Nh vậy, mức độ chứng khoán hoá tài trợ thâm hụt NSNN ở nớc ta thấp xa so với mức phổ biến trên
30%GDP của toàn thế giới, chẳng hạn của ấn Độ 27%GDP, Brazil 52%GDP, Tây Ban Nha 46%GDP, Thổ Nhĩ Kỳ
58%GDP, Anh 30%GDP, Ba Lan 25%GDP và đặc biệt là Trung Quốc lên tới 160%GDP.
Th hai, c cu huy ng vn cũn nhiu bt cp: Tuy đã có nhiều cố gắng trong việc nâng dần thời
hạn trái phiếu, song tính đến 31.12.2000 d nợ trái phiếu kỳ hạn 1-2 năm chiếm 65%, trái phiếu kỳ hạn 3 năm
chiếm 10% tổng d nợ, còn lại là công trái kỳ hạn 5 năm. Tính chung c cu k hn giai on 1996-2002 cho
thy vn k hn 1-2 nm vẫn chim ti 87%, trong ú k hn 1 nm chim 47% cũn k hn 2 nm chim 40%,
k hn trờn 2 nm ch chim cú 13% nờn doanh s vay n mi tr n c rt ln, hn ch t trng vn huy
ng thc s dng cho NSNN. Vn cú k hn 1 nm thc cht l nhm bự p thiu ht tm thi ca NSNN,
ch cú loi k hn 2-5 nm mi cú ý ngha i vi u t phỏt trin. Chỳng tụi tỏn thnh ý kin cho rng k hn
TPCP 2 nm l quỏ ngn, khụng hoc ch va thi gian thc hin cụng trỡnh cha th thu hi vn tr
n. C cu kỳ hạn làm cho việc quản lý điều hành công tác huy động vốn gặp nhiều khó khăn, nhất là việc phải
huy động nợ mới để trả nợ cũ. Đặc biệt là trong thời điểm đáo hạn nợ, thị trờng vốn - tiền tệ sôi động, cầu vợt
cung buộc Chính phủ phải đẩy lãi suất lên cao mới đảm bảo khối lợng huy động theo kế hoạch, tăng thêm gánh
nặng cho NSNN. Tổng số vốn huy động giai đoạn 1996-2001 là 44.850 tỷ đồng, nhng có đến 38.494 tỷ đồng,
chiếm 85,8% dùng để trả gốc và lãi nợ cũ đến hạn thanh toán. Số vốn thực sử dụng cho NSNN chỉ có 6.356 tỷ
đồng, chiếm 14,2%. Thậm chí năm 1996 và 2001, số vốn huy động cha đủ để trả nợ đến hạn thanh toán. Do đó
làm tăng chi phí huy động và hạn chế hiệu quả huy động vốn thực sử dụng cho NSNN.
Thứ ba, hạn chế trong lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn: Kế hoạch huy động TPCP phát hành
theo phơng thức bán lẻ qua KBNN còn một số bất cập nh: (1) qui mô chỉ tiêu phân bổ cho từng địa phơng cha
thật phù hợp với đặc điểm tình hình của từng địa phơng; (2) thiếu qui định gắn trách nhiệm cụ thể của các cấp
chính quyền địa phơng và Thủ trởng KBNN địa phơng trong công tác huy động vốn. Bên cạnh đó, kế hoạch tiến
độ huy động và việc sử dụng vồn cha hợp lý, còn để tồn đọng vốn ở KBNN.
Thứ t, xác định lãi suất TPCP còn bất hợp lý: Tuy có nhiều cố gắng trong việc điều chỉnh lãi suất theo
hớng giảm dần, nhng lãi suất TPCP kỳ hạn 2-5 năm cha đợc hoạch định theo chiến lợc ổn định, thiếu sự linh
hoạt, nhạy bén và cha thật hấp dẫn các nhà đầu t, nhiều trờng hợp cạnh tranh lãi suất không lành mạnh với các tổ
chức tín dụng. Lãi suất TPCP thờng ở thế bị động, đôi khi phải điều chỉnh nhiều lần, gây tâm lý hoài nghi và chờ
đợi tăng lãi suất. Lãi suất TPCP cha thể làm cho việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp và các hoạt động đầu t
khác trên thị trờng tài chính nh thông lệ quốc tế. Sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN trong xác định lãi suất
TPCP còn nhiều hạn chế. Một số ý kiến còn cho rằng lãi suất TPCP thấp và không phản ánh đầy đủ các rủi ro nh
rủi ro lạm phát, rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro khả năng thanh toán và rủi ro kỳ hạn.
Thứ năm, phơng thức phát hành còn nhiều bất cập: Tuy không ngừng đợc cải tiến theo thông lệ quốc
tế nhng nhìn chung phơng thức phát hành TPCP cha đa dạng, cha liên tục, còn ngắt quãng nên cha tạo đợc thị tr-
ờng TPCP thật sự sôi động, hấp dẫn. Việc phát hành các loại tín phiếu, trái phiếu đấu thầu qua NHNN và
TTGDCK, việc bảo lãnh và đại lý phát hành trái phiếu còn nhiều hạn chế, số lợng thành viên tham gia đấu thầu
và bảo lãnh còn ít, khối lợng phát hành từng đợt còn thấp, thậm chí có những phiên đấu thầu không phát hành đ-
ợc. Thị trờng trái phiếu, tín phiếu mới dừng ở thị trờng sơ cấp, thị trờng thứ cấp hầu nh không phát triển. Hiện
nay TPCP phát hành thờng xuyên hơn qua đấu thầu tại TTGDCK, tuy nhiên hình thức phát hành TPCP qua bảo
lãnh phát hành và bán lẻ qua hệ thống KBNN phát triển kém. Đến nay, KBNN mới chỉ thực hiện duy nhất 1 đợt
phát hành trái phiếu kỳ hạn 5 năm thông qua hình thức bán lẻ trị giá 50 tỷ đồng và số trái phiếu này đ ợc niêm
yết tại TTGDCK TP.Hồ Chí Minh. Trái phiếu kỳ hạn 2 năm đợc phát hành theo phơng thức bán lẻ lại đạt mức
cao, khoảng 2.000-3.000 đồng/năm. TPCP phát hành theo phơng thức bảo lãnh cũng đạt kết quả thấp, đến cuối
2002 mới chỉ thực hiện đợc 3 đợt phát hành với tổng trị giá 750 tỷ đồng. Hiện có 20 đơn vị đợc công nhận bảo
lãnh phát hành TPCP gồm 14 NHTM và 6 công ty chứng khoán. Nguyên nhân chính một mặt là do cơ chế phát
hành nh tính thanh khoản của TPCP còn thấp, các điều khoản, điều kiện của trái phiếu cha đợc chuẩn hoá, công
nghệ thanh toán lạc hậu, cơ chế chuyển nhợng trái phiếu gò bó, cứng nhắc, mặt khác, các NHTM vẫn có tâm lý
coi trái phiếu là khoản đầu t dài hạn, ít muốn đa ra trao đổi trên thị trờng thứ cấp. Thêm vào đó, chúng ta cha có
thị trờng chứng khoán phi tập trung (OTC) trong khi theo kinh nghiệm quốc tế, trái phiếu đ ợc giao dịch chủ yếu
trên thị trờng này chứ không phải là trên thị trờng chứng khoán tập trung.
Thứ sáu, công khai hoá thông tin rất hạn chế: Thông tin của các chủ thể phát hành TPCP hầu nh cha
đợc công khai hoá. Thông tin có liên quan tới các đợt phát hành TPCP cha đủ sức thuyết phục các nhà đàu t,
không có các bản cáo bạch của chủ thể phát hành TPCP để công bố thông tin rộng rãi cho công chúng. Các nhà
đầu t rất thiếu thông tin về tình trạng tài chính của Chính phủ, kế hoạch vay nợ, kế hoạch sử dụng vốn vay, cam
kết về sử dụng vốn và trả nợ, v.v. Nhiều đợt phát hành TPCP đợc niêm yết trên TTGDCK nhng không có công bố
thông tin đã làm cho nhiều nhà đầu t nghi ngờ về khả năng trả nợ của Chính phủ và do đó còn ngần ngại đầu t.
T thc t khai thỏc và sử dụng vn di hn qua KBNN H Ni cú th rỳt ra mt s nhn xột sau:
1. KBNN H Ni ó rt thnh cụng trong t chc huy ng cỏc ngun vn di hn trờn a bn cho u t
phỏt trin thụng qua cỏc t phỏt hnh cụng trỏi XDTQ, trỏi phiu chớnh ph. H Ni luụn l mt trong
nhng a phng i u trong trin khai v thc hin vt mc k hoch ch tiờu phỏt hnh trỏi phiu
chớnh ph c giao.
2. KBNN H Ni cú t chc b mỏy rng khp, hp lý vi i ng cỏn b cú chuyờn mụn nghip v vng
vng, phm cht o c trong sch, cú uy tớn nờn ó rt thun li trong vic huy ng cỏc ngun vn di
hn trong nc cho TPT.
3. Thnh ph v KBNN cha thc hin phỏt hnh TPCQP (trỏi phiu ụ th) nờn cha phỏt huy c nhng
th mnh ca mt thnh ph ln, ụng dõn, mt trung tõm kinh t ca c nc, ng thi hn ch trong vic
ch ng khai thỏc ngun lc phc v cỏc mc tiờu phỏt trin kinh t - xó hi ca a phng. (Trong khi
ú, TP.H Chớ Minh ó mnh dn hn H Ni rt nhiu trong cụng tỏc ny. Ngay t nm 1994 TP.H Chớ
Minh ó phỏt hnh TPCQP tr giỏ 30 t ng vi lói sut 15%/nm v thi hn 3 nm u t xõy dng
ng Nguyn Tt Thnh. Nm 1996 TP.H Chớ Minh i u c nc thnh lp Qu u t Phỏt trin ụ
th thc hin huy ng di hỡnh thc vn gúp hoc vn vay trung v di hn. Ngy 1.9.2003, Qu ny ó
phi hp vi KBNN Thnh ph, Cụng ty C phn Chng khoỏn Thnh ph, Cụng ty dch v tit kim Bu
in v cỏc NHTMCP phỏt hnh Trỏi phiu ụ th Thnh ph 2003, ngay ngy u tiờn ó thu c 18,62
t ng, riờng ti TP.H Chớ Minh thu c 7,92 t ng. Nm 2003 huy ng ti trên 2.000 t ng TPT
k hn 2 v 5 nm di 2 hỡnh thc bỳt toỏn ghi s v chng ch TPT ghi danh hoc khụng ghi danh
nhm b sung vn xõy dng c s h tng theo k hoch ngõn sỏch nm ca thnh ph). H Ni rt cn hc
tp nhng kinh nghim phỏt hnh TPCQP ca TP.H Chớ Minh trong quỏ trỡnh trin khai huy ng v s
dng cỏc ngun vn trong nc. Vic cha mnh dn trin khai phỏt hnh TPCQP bt ngun t s thn
trng ca chớnh quyn Thnh ph. Do v trớ kinh t - xó hi quan trng ca H Ni trong c nc nờn chớnh
quyn Thnh ph cũn e ngi trc nhng gii phỏp mi, cha c chớnh quyn TW hon ton ng h,
cha hay ớt cú tin l. Kinh nghim thc tin trong nc cũn ớt v cha hon ton thuyt phc nờn H Ni
ó cha trin khai c kờnh huy ng vn di hn trong dõn rt quan trng ny.
4. Theo đánh giá của KBNNTW, do cơ chế sử dụng nguồn vốn phát hành trái phiếu không rành mạch, không
gắn với những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định và những định hớng cụ thể nên không đánh giá hết đợc
những hiệu quả của nó. Trong nhiều thời kỳ, công tác phát hành TPCP đợc coi nh một giải pháp tình thế để
giải quyết các nhu cầu chi cấp bách của NSNN, chủ yếu là chi thờng xuyên. Chính vì vậy KBNN Hà Nội
cũng thờng xuyên lúng túng và bị động trớc kế hoạch phát hành TPCP đợc giao.
5. ỏnh giỏ kt qu s dng vn u t B trng Nguyn Sinh Hựng cho rng: "u t XDCB tht thoỏt
nhiu, kim soỏt chi tiờu khụng cht ch ang l mt vn nhc nhi". Nm 2003, h thng KBNN ó
thc hin kim soỏt khong 70.000 t ng chi thng xuyờn ca NSNN, phỏt hin khong 25.000 khon
chi ca 10.500 lt n v cha chp hnh ỳng qui nh, t chi thanh toỏn trờn 140 t ng chi khụng
ỳng ch , chi sai mc, cha cú d toỏn c duyt, khụng h s, th tc u thu. V gii ngõn vn
u t XDCB, KBNN ó kim soỏt thanh toỏn khong 37.321 t ng vn tp trung, t 80% k hoch
giao. Tuy nhiờn, "tin gii ngõn mt s chng trỡnh mc tiờu cũn chm nh chng trỡnh 5 triu ha
rng, chng trỡnh kiờn c hoỏ trng lp hc t ngun vn cụng trỏi giỏo dc. Nguyờn nhõn ch yu l do
phớa c quan qun lý chng trỡnh phõn khai k hoch rt chm". Tuy KBNN Hà Nội cũng gặp nhiều khó
khăn và thuận lợi tơng tự nh KBNN ở nhiều tỉnh thành phố khác nhng đã có những đóng góp xứng đáng vào
thành tích phát triển kinh tế của Thủ đô, góp phần cải thiện và xây dựng CSHT thành phố theo hớng văn
minh hiện đại.
Thực trạng trên là kết quả của nhiều nhân tố:
- KBNN H Ni nhn c s quan tõm giỳp ca cỏc c quan TW, trc tip l ca B Ti chớnh v
KBNN TW trong mi mt cụng tỏc. Cỏc t chc ti chớnh tớn dng úng trờn a bn bng s phi hp ó
úng gúp khụng nh vo thnh tớch ca KBNN H Ni.
- Ch trng phỏt hnh TPCP tng i hp lý, u t cú mc tiờu, khụng dn tri, hp lũng dõn vi lói sut
khỏ cao, thi hn phự hp vi thc t tỡnh hỡnh ti chớnh - tin t ca t nc, thanh toỏn nhanh gn, thun
tin, to c nim tin trong nhõn dõn nờn ó tranh th c s ng h nhit tỡnh ca tt c cỏc tng lp
nhõn dõn.
- Hà Nội tập trung nhiều định chế tài chính nên rất thuận lợi cho phát triển thị trờng vốn nói chung, khai thác
và sử dụng các nguồn vốn trong nớc thông qua phát hành TPCP nói riêng. Theo số liệu của NHNN, tính đến
31.5.2003, có 33 trong tổng số 91 ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng (không kể các quỹ tín
dụng) trên toàn quốc đặt trụ sở chính tại Hà Nội. Đó là NHNN, 5/6 NHTMNN, 5/25 NHTMCP, 13/27 chi
nhánh ngân hàng nớc ngoài, 1/4 NHLD, 3/6 công ty tài chính, 5/8 công ty thuê mua tài chính, 13/891 quỹ
Tín dụng nhân dân. Ngoài ra Hà Nội còn có trụ sở của KBNNTW, Quỹ Hỗ trợ phát triển, Công ty tiết kiệm
Bu điện, các quỹ bảo hiểm, các công ty chứng khoán và quỹ đầu t. Bên cạnh đó, các NHTMCP có trụ sở
chính ở các tỉnh thành phố khác rất tích cực mở các chi nhánh cấp I, cấp II, phòng giao dịch tại Hà Nội.
Tính riêng từ quí IV năm 2002 đến cuối năm 2003 đã có trên 20 chi nhánh các NHTM mở trên địa bàn Hà
Nội. 11 tháng đầu năm 2003, riêng các NHTM và TCTD đã đóng góp tới 70% số tiền ngân sách thu đ ợc từ
phát hành TPCP. Các định chế tài chính đều tích cực tham gia đấu thầu và bảo lãnh phát hành TPCP. Thị tr-
ờng đấu thầu tín phiếu chính phủ ra đời từ 1994 đến nay đã có 47 thành viên gồm 5 NHTMNN, 18
NHTMCP, 4 NHLD, 13 chi nhánh ngân hàng nớc ngoài, 6 công ty bảo hiểm và 1 quỹ đầu t. Đây là tiền đề
rất quan trọng phát triển thị trờng công cụ vay nợ của Chính phủ theo thông lệ quốc tế, tuy sự tham gia của
các tổ chức bảo hiểm và quỹ đầu t còn rất hạn chế.
- Sau khi nhn c nhim v, KBNN H Ni ó t chc tt kờnh v trin khai mnh cú kt qu nhim v
huy ng thụng qua TPCP.