Tải bản đầy đủ (.docx) (146 trang)

Vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.25 KB, 146 trang )

BẢNG CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CK Chứng khoán
CP Cổ phiếu
CSHT Cơ sở hạ tầng
DN Doanh nghiệp
GPMB Giải phóng mặt bằng
HĐND Hội đồng nhân dân
KBNN Kho Bạc nhà nước
KH-CN Khoa học - công nghệ
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NSNN Ngân sách nhà nước
QSD Quyền sử dụng
TP CQĐP Trái phiếu chính quyền địa phương
TPCP Trái phiếu chính phủ
TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTTC Thị trường tài chính
UBND Uỷ ban nhân dân
XDCB Xây dựng cơ bản
XHH Xã hội hóa
2
MỤC LỤC
2
2
3
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư phát triển dài hạn, luôn luôn đóng vai
trò quan trọng hàng đầu trong sự phát triển kinh tế cả ở cấp doanh nghiệp lẫn
cấp địa phương và quốc gia, cả trong quá khứ, hiện tại lẫn trong tương lai...
Vốn đầu tư là một khái niệm mở, rộng... ở đề tài này, vốn đầu tư được tiếp
cận theo nghĩa hẹp là các nguồn lực tài chính - tiền tệ. Hơn nữa, do thực chất các


nguồn vốn huy động trên 5 năm là rất nhỏ, và ít được bóc tách trong các thống
kê hiện có, nên vốn đầu tư dài hạn ở đây được hiểu là các khoản tín dụng và đầu
tư tài chính - tiền tệ trung và dài hạn theo cách hiểu của ngành ngân hàng nước
ta, tức có thời hạn từ trên 12 tháng. Ngoài ra, đề tài cũng mới giới hạn phạm vi
nghiên cứu là ở các nguồn đầu tư dài hạn trong nước, chứ không đề cập các
nguồn vốn nước ngoài hoặc chỉ xem xét nó với tư cách nhân tố để thúc đẩy vốn
đầu tư dài hạn trong nước. Với góc độ tiếp cận trên đây, mục tiêu bao trùm của
đề tài là trên cơ sở đánh giá thực trạng bức tranh chung về việc khai thác và sử
dụng vốn đầu tư dài hạn trong nước cho phát triển Thủ đô để đề xuất một số
phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường huy động và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư dài hạn trong nước cho phát triển kinh tế của thành
phố trong thời gian tới. Để tránh trùng lặp với các đề tài khác và do nội hàm rất
rộng của tên đề tài, nên ở đây đề tài đặt trọng tâm vào nghiên cứu một số kênh
và công cụ quan trọng đối với thành phố Hà Nội như vốn XDCB tập trung,
KBNN, thị trường tài chính, thuê mua tài chính...
Vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, chắc chắn kết quả nghiên cứu
đề tài còn nhiều hạn chế, kính mong sự lượng thứ và trân trọng cảm ơn các ý
kiến đóng góp để hoàn thiện đề tài này.
3
3
4
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VỐN DÀI HẠN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I.1. Khái niệm và vai trò của vốn dài hạn
Vốn, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các nguồn lực tài chính, nhân lực, tri thức, tài sản vật chất
và cả các quan hệ đã tích lũy được của cá nhân, DN, quốc gia…
Vốn, hiểu theo nghĩa hẹp, chủ yếu là phần tiềm lực tài chính - tiền bạc của cá nhân, DN, quốc gia đó.
Vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết cấu thành và tham gia vào quá trình sản xuất và tái
sản xuất - kinh doanh hình thành và tích lũy được trong mỗi gia đình, DN, địa phương và cả quốc gia. Các nhân
tố cấu thành vốn trong nước bao gồm: vốn tài chính - tiền tệ, các dạng của cải, tài sản vật chất và tri thức, nguồn

nhân lực và các quan hệ trong nền kinh tế thị trường… Chúng có thể chuyển hóa cho nhau và được đo lường
chung bằng tiền trong điều kiện nhất định (trừ vốn - con người).
Dưới đây chỉ xin đề cập tới vốn trong nước với cách hiểu theo nghĩa hẹp nêu trên.
Vốn đầu tư phát triển kinh tế dài hạn là những khoản vốn dài hạn chi cho các hoạt động mở rộng sản
xuất - kinh doanh, những công trình xd CSHT trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ phát triển kinh tế, cũng như cho
các hoạt động khác liên quan đến sản xuất - kinh doanh và phát triển kinh tế theo chiều sâu của đất nước, địa
phương và DN. Hơn nữa, theo cách hiểu thông thường hiện nay, vốn ngắn hạn là vốn có thời gian kể từ khi huy
động đến lúc hoàn trả là dưới 12 tháng, trung hạn thì từ trên 12 tháng đến dưới 5 năm và dài hạn là trên 5 năm.
Tuy nhiên, do trên thực tế hoạt động của ngân hàng, vốn có thời hạn trên 5 năm chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nên dưới
đây, vốn dài hạn được hiểu là vốn trung và dài hạn, tức có thời hạn hoàn trả vốn từ trên 12 tháng.
Trong cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp với chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm đã không tạo
động lực quan tâm nhiều đến việc huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nói chung, vốn dài hạn nói riêng
trong nền kinh tế, cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô. Vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư cũng được quan niệm rất đơn giản.
Thậm chí chưa có sự phân định giữa vốn và tiền. Cơ chế phân phối vốn chỉ bó hẹp ở hai kênh: ngân sách nhà
nước và vay tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp. Từ đó dẫn đến những sai lầm như việc phát hành thêm tiền để
đầu tư, hay chưa chú ý đến các nguồn lực khác ngoài NSNN. Các địa phương không quan tâm đến việc tự huy
động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế, thậm chí là không được phép thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới, quyền tự chủ của các địa phương đã được coi trọng và phát huy. Những
nhận thức về vốn cũng đã thay đổi.
Mục tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay cũng như sắp tới
của Việt Nam là tạo sự chuyển biến tích cực về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tập trung đầu tư các công trình hạ
tầng cơ sở; tích cực đổi mới và nâng cao năng lực KH - CN, sức cạnh tranh của nền kinh tế và các DN, thực hiện
thành công CNH - HĐH và không ngừng cải thiện chất lượng sống của nhân dân. Để thực hiện được các nhiệm
vụ trên thì cần phải có nguồn vốn lớn, đặc biệt là vốn dài hạn. Hơn nữa, cần nhấn mạnh rằng, về lâu dài thì vốn
trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển bền vững của
cả nước cũng như của từng địa phương, trong đó có Thủ đô Hà Nội.
Chính sách huy động và sử dụng vốn là một bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính - tiền tệ
quốc gia, nó liên quan đến chính sách phân phối thu nhập trong phạm vi toàn xã hội, tác động trực tiếp đến mối
quan hệ giữa tích luỹ - tiêu dùng và các chính sách tiền tệ, tín dụng. Việc hoạch định và thực hiện chính sách huy
động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và

ổn định tiền tệ, cũng như đến tốc độ và hiệu quả phát triển KT - XH nói chung.
Thực tế phát triển thế giới cho thấy, bất kỳ nước nào cũng đều phải sử dụng nguồn lực nội bộ là chính.
Nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, dù là viện trợ, cho vay hay đầu tư từ nước ngoài cũng không thể thay thế cho
đầu tư từ các nguồn vốn trong nước. Hơn nữa, nguồn vốn nước ngoài không phải là vốn cho không, từ trên trời
4
4
5
rơi xuống mà đều có điều kiện và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Về lâu dài, vốn vay đều phải trả cả gốc lẫn lãi,
còn FDI phải dành một phần cho chuyển lãi và vốn gốc về chính quốc.
Thực tế của quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã cho chúng ta thấy: cùng với vốn bên ngoài,
bao giờ cũng phải có vốn đối ứng bên trong mới có thể triển khai công trình một cách thuận lợi. Thêm vào đó,
cần phải có vốn đầu tư cho các công trình "ngoài hàng rào" như đầu tư cho các cơ sở hạ tầng về điện, cấp thoát
nước, thông tin liên lạc và các cơ sở hạ tầng xã hội khác.
Nhiều công trình đầu tư không phát huy được hiệu quả hoặc hiệu quả thấp một phần là do các yếu tố
cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội "ngoài hàng rào" không đáp ứng được yêu cầu. Một nhà máy được xây dựng mà
không có công trình cơ sở hạ tầng kinh tế đồng bộ thì khó có thể hoạt động tốt được. Ngoài ra, đi cùng với nhà
máy tất yếu phải có các cơ sở hạ tầng xã hội như các khu dân cư, trường học, bệnh viện, cơ sở văn hoá, thể
thao... nếu không, sẽ gây không ít khó khăn cho hoạt động và ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
nhà máy. Theo kinh nghiệm của các nước, vốn đầu tư cho các công trình ngoài hàng rào đôi khi còn cao hơn vốn
đầu tư cho các nhà máy. Vì vậy, dù là công trình được đầu tư từ nguồn vốn bên ngoài thì vốn đầu tư trong nước
cũng rất quan trọng.
Về tỷ trọng giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài, xét về lâu dài, vốn trong nước phải nhiều hơn vốn
nước ngoài. Không thể mong đợi sự tăng trưởng nhanh và vững chắc nhờ vào các nguồn vốn từ bên ngoài. Kinh
nghiệm phát triển của các nước cũng đã chứng minh điều đó, ở đây chỉ có trường hợp ngoại lệ của các nước có
nguồn tài nguyên quý, với trữ lượng lớn như dầu mỏ của các tiểu vương quốc A-rập, Bruney... nhưng ngay cả
những trường hợp này thì cuối cùng vốn bên trong (dù chỉ là vốn có được do bán tài nguyên thiên nhiên) sẽ lớn
hơn vốn bên ngoài.
Cuối cùng, xét về lợi ích dân tộc, nếu không có vốn đầu tư trong nước đủ mức cần thiết thì xét về lâu
dài, nguồn của cải làm ra có thể lớn, nhưng phần của cải thực sự mà ta được hưởng (tính thông qua chỉ tiêu
GNP) lại rất ít. Như vậy, nền kinh tế có vẻ phồn vinh, sản phẩm có vẻ dồi dào nhưng của cải đó không thuộc sở

hữu của nhân dân trong nước. Tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp trong nước chỉ dừng lại ở mức 30-40% như
hiện nay có một lý do quan trọng là thiếu vốn đối ứng trong nước. Không ít doanh nghiệp phải dùng "quỹ đất' để
góp vốn, phần còn thiếu lại phải đi vay nước ngoài để góp vốn cho các liên doanh. Một số doanh nghiệp trong
nước mua thiết bị nước ngoài theo hình thức trả chậm, nhưng do không có vốn nên lại phải vay thương mại với
những điều kiện bất lợi, làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của công trình.
Có thể nói, vốn, đặc biệt nguồn vốn đầu tư dài hạn là một trong những yếu tố quyết định sự thành công
của sự nghiêp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Không có vốn đầu tư dài hạn
thì sẽ không có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, không đổi mới và nâng cao được năng lực KH - CN, cải thiện sức cạnh
tranh và nâng cao trình độ phát triển của đất nước, địa phương, DN.
I.2. Đặc điểm vốn đầu tư phát triển dài hạn
Vốn đầu tư dài hạn có một số đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, đòi hỏi quy mô vốn lớn và thời hạn thu hồi vốn dài
Vốn đầu tư dài hạn được sử dụng vào việc nghiên cứu và áp dụng khoa học, công nghệ mới, đổi mới và
hiện đại hóa trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh và phát triển theo chiều sâu… Đây là những lĩnh vực, dự án thường đòi hỏi
quy mô vốn đầu tư rất lớn và thời hạn hoàn vốn dài. Thậm chí, có những dự án không thể tính được thời hạn thu
hồi vốn trực tiếp, nhất là vốn đầu tư cho xây dựng đường xá, cầu cống, nghiên cứu khoa học cơ bản… Điều này
càng rõ nét đối với những quốc gia và địa phương nào đang ở giai đoạn đầu cất cánh…
Đặc điểm của nguồn vốn dài hạn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế chi
phối mạnh phưong thức huy động vốn, quá trình quản lý và sử dụng vốn. Nói cách khác nó ảnh hưởng đến chiến
lược vốn - một bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đất nước và địa phương.
5
5
6
Thứ hai, vốn đầu tư dài hạn dễ có độ rủi ro cao tùy thuộc vào tính chất của môi trường và cơ hội đầu
tư, cũng như các phương thức và chính sách huy động, sử dụng vốn.
Do thời hạn thu hồi vốn dài, nên đầu tư dài hạn dễ gặp rủi ro về kinh tế (lãi suất, lạm phát, khấu hao
vô hình, sự thay đổi cung – cầu tương lai…) và phi kinh tế (thay đổi chính sách, thể chế, thiên tai…). Đây là điều
mà các nhà đầu tư tư nhân hay e ngại. Điều này cũng giải thích vì sao tỷ trọng vốn dài hạn trong tổng vốn huy
động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thường rất thấp. Tuy nhiên, tùy theo sự hấp dẫn của môi

trường đầu tư, nhất là mức độ tự do hóa kinh doanh, sự ổn định và những thay đổi có thể dự báo được của chính
sách, độ thông thoáng về thủ tục quản lí nhà nước, và các ưu đãi khác… mà vốn đầu tư dài hạn có thể được huy
động ngày càng nhiều hơn thông qua sự phối kết hợp linh hoạt của các công cụ và kênh huy động vốn đa dạng,
thích hợp, trong đó có đầu tư trực tiếp của các DN, các nhà đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài.
Thứ ba, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư dài hạn cho phát triển cần phải nhìn trên góc độ hiệu quả kinh tế
- xã hội tổng hợp và dài hạn.
Vì là đàu tư dài hạn nên hiệu quả của vốn đầu tư dài hạn cũng chậm phát huy tác dụng. Hơn nữa, do
một số dự án được đầu tư không thể định lượng được trực tiếp và chính xác lợi ích mà nó tạo ra (nhất là các công
trình CSHT công ích), nên cần đánh giá hiệu quả vốn đầu tư dài hạn phát triển kinh tế trên góc độ hiệu quả kinh
tế - xã hội tổng hợp và dài hạn. Khi đưa ra quyết định cho mỗi dự án đầu tư cần xem xét hiệu quả với một cách
nhìn toàn diện, xem xét hiệu quả kinh tế cần đi đôi với hiệu quả xã hội. kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu
dài, lợi ích cục bộ của từng bộ phận với lợi ích tổng thể của toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế, xã hội luôn gắn liền
với nhau, tác động tực tiếp đến chính sách huy động và sử dụng vốn, đặc biệt đối với các công trình xây dựng cơ
sở hạ tầng, các dịch vụ công cộng. Vì vậy, khi đầu tư vào các dự án ngoài việc chú trọng đến hiệu quả kinh tế
của dự án cần xem xét các vấn đề xã hội như công ăn việc làm, thu nhập, mức sống của người lao động... để đảm
bảo đạt được hiệu quả tổng hợp cao nhất.
Nhằm đạt được tốc độ luân chuyển và hiệu quả cao nhất, vốn đầu tư dài hạn cần được nhìn nhận theo
một quy trình khép kín trên cả 3 phương diện: huy động, sử dụng và quản lý, cũng như phải đảm bảo thông suốt
trên cả 3 giai đoạn: tích luỹ- huy động - đầu tư, đồng thời phải hướng vào đầu tư có trọng điểm với quy mô và
phương thức thích hợp, tập trung đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên, tránh đầu tư tràn lan, đầu tư theo
kiểu phong trào, thiếu quy hoạch và nhất là không đảm bảo chất lượng xây dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật công nghệ
và môi trường, dễ để lại hậu quả nặng nề về sau.
I.3. Các phương thức huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế Thủ đô
Xét trên phưong diện tổng thể, các nguồn vốn trong nước đều được sinh ra từ quá trình tiết kiệm và tích
lũy của cá nhân, tổ chức doanh nghiệp và Nhà nước. Nguồn vốn này được huy động và sử dụng cho đầu tư phát
triển chủ yếu thông qua các kênh như Ngân sách nhà nước (mà quan trọng hơn cả là qua phần vốn XDCBTT và
qua KBNN), các ngân hàng, tổ chức tín dụng thương mại, thị trường tài chính, thuê mua tài chính và qua các
hình thức khác…
I.3.1. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua kênh Ngân sách Nhà nước
Huy động vốn qua kênh ngân sách nhà nước được thực hiện dưới các hình thức như động viên thuế, phí

và các hình thức vay nợ qua KBNN (như công trái, trái phiếu, tín phiếu...). Nói cách khác, nguồn vốn đầu tư của
NSNN được hình thành từ nguồn vốn tích luỹ của ngân sách và nguồn vốn tín dụng của nhà nước, còn việc sử
dụng cho đầu tư dài hạn chủ yếu thông qua phần vốn xây dựng cơ bản tập trung của NSNN các cấp và kiểm soát
chi qua KBNN.
Nguồn vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước bao gồm nguồn vốn tích luỹ đầu tư từ ngân sách Nhà nước
(chênh lệch giữa số thu từ thuế, phí với chi tiêu dùng thường xuyên), nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính
phủ cho đầu tư phát triển và các nguồn vốn khác như từ quỹ dự trữ tài chính, các tài sản của Nhà nước... Đây là
nguồn vốn đầu tư hết sức quan trọng trong nền kinh tế, chủ yếu dùng để đầu tư cho các công trình hạ tầng cơ sở,
tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn để khuyến khích kinh tế phát
6
6
7
triển. Với việc nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách Nhà nước trên cả hai lĩnh vực thu và chi ngân sách nhà
nước, tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước sẽ ngày càng tăng trong tổng số chi ngân sách
nhà nước và luôn giữ vai trò là nguồn vốn quan trọng trong xã hội trong quá khứ, hiện tại và những năm trước
mắt.
Tăng cường nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là tìm cách nâng cao phần tích luỹ của NSNN và
phát triển nguồn vốn tín dụng. Để tăng nguồn vốn tích luỹ của NSNN cần áp dụng các chính sách tăng thu triệt
để các nguồn thu và tiết kiệm triệt để các khoản chi, thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu dùng của ngân sách. Ngân
sách phải có tích luỹ và tích luỹ ngày càng tăng thì mới có thể góp phần nâng cao tỷ trọng tích lũy trong nước để
đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cần coi trọng giải quyết hài hòa về lợi ích kinh tế giữa Nhà
nước, doanh nghiệp và xã hội khi ban hành các chính sách, chế độ động viên vào NSNN thông qua thuế và phí;
vừa đảm bảo nguồn thu tài chính để Nhà nước thực hiện điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các chính sách
xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng, vừa phải tạo điều kiện tích luỹ, tích tụ, tập trung vốn của DN, cơ sở, địa
phương cho mở rộng sản xuất - kinh doanh, đầu tư phát triển theo chiều sâu, giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo
và mở rộng nguồn thu lâu dài.
Do vậy, việc giảm chênh lệch giữa các mức thuế suất, giảm số lượng thuế suất; giảm dần các ưu đãi và
miễn giảm thuế; mở rộng phạm vi, đối tượng nộp thuế; đảm bảo nguyên tắc công bằng về thuế giữa các thành
phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đẩy mạnh quá
trình cơ cấu lại sản xuất kinh doanh, khuyến khích đổi mới công nghệ, hướng dẫn tiêu dùng, thúc đẩy xuất khẩu,

điều tiết thu nhập,... là hết sức quan trọng và cần thiết trong chính sách thuế, phí của Nhà nước khi động viên
NSNN.
Tuy nhiên, trong điều kiện, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân còn thấp, nguồn thu của ngân sách
Nhà nước (chủ yếu là thuế) còn có hạn; trong khi đó nhu cầu chi ngân sách và vốn cho đầu tư phát triển kinh tế
rất lớn, nguồn vốn huy động thông qua thu thuế, phí cho ngân sách nhà nước không thể đáp ứng nhu cầu vốn
ngày càng lớn cho đầu tư phát triển. Do vậy, vay nợ của Chính phủ là biện pháp rất quan trọng để bù đắp thiếu
hụt ngân sách Nhà nước và bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu Chính phủ và cho phép các địa phương phát hành trái phiếu (trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu
đô thị) là biện pháp hữu hiệu nhất để bù đắp thiếu hụt ngân sách, đồng thời còn tập trung được lượng vốn nhàn
rỗi trong xã hội để tăng nguồn chi cho phát triển kinh tế xã hội do nó đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu của ngân
sách mà không phải dùng biện pháp phát hành - lạm phát và không lệ thuộc vào vay nợ nước ngoài, dễ gây nên
bất ổn về kinh tế. Biện pháp này được sử dụng tại hầu hết các nước trên thế giới, ngay cả các nước phát triển có
nguồn thu tương đối lớn. Tuy nhiên, cũng không thể lạm dụng biện pháp này bởi lẽ khi vay nợ quá lớn thì sẽ tạo
ra gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong trả gốc và lãi, đặc biệt việc cung cấp lượng tín dụng ròng từ hệ
thống ngân hàng cho ngân sách Nhà nước lớn cũng sẽ gây nên áp lực lạm phát cao. Vì vậy, cần phải nắm vững
nhu cầu vay vốn, mục đích sử dụng vốn, khả năng cung ứng nguồn vốn, từ đó xây dựng chiến lược và kế hoạch
huy động vốn cho hiệu quả và phải quản lý vay nợ tốt để tránh gây nên sự bất ổn định về tài chính.
Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng có thể huy động vốn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng đô thị, thông
qua việc vay từ các ngân hàng thương mại và vay trực tiếp từ thị trường tài chính thông qua phát hành trái phiếu
qua KBNN.
Cơ sở pháp lý cho việc khai thác và sử dụng vốn dài hạn thông qua KBNN đó đã được xác lập khá đồng
bộ.
Luật NSNN số 01/2002/QH11 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các tỉnh thành phố trực thuộc TW quyền
chủ động huy động và sử dụng vốn dài hạn cho đầu tư phát triển địa phương. Khoản 3 Điều 8 Luật NSNN qui
định: "Trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc TW có nhu cầu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi
ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp tỉnh quyết định,
nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động trong nước và
phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy
động không vượt quá 30% vốn đầu tư XDCB trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh". Tuy nhiên, Hà
7

7
8
Nội và TP.Hồ Chí Minh được thực hiện theo qui định riêng của Chính phủ, nghĩa là không nhất thiết phải tuân
theo giới hạn 30% này.
Theo Quyết định 235/2003/QĐ-TTg ngày 13.11.2003, KBNN thực hiện chức năng: (1) quản lý nhà
nước về Quĩ NSNN, các quĩ tài chính nhà nước và các quĩ khác của nhà nước; (2) thực hiện việc huy động vốn
cho NSNN, cho đầu tư phát triển qua hình thức phát hành công trái, trái phiếu theo qui định của pháp luật. Chính
chức năng thứ hai của KBNN qui định phạm vi và hình thức khai thác, sử dụng vốn dài hạn thông qua KBNN
Hà Nội. Khoản 10 Điều 2 Quyết định này khẳng định KBNN có nhiệm vụ: "Tổ chức huy động vốn trong nước
và ngoài nước cho NSNN và cho đầu tư phát triển thông qua phát hành công trái, trái phiếu theo qui định của
pháp luật". Điều 3 Quyết định 235 nêu rõ "KBNN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, thành hệ
thống dọc từ TW đến địa phương, theo đơn vị hành chính. Theo đó, KBNN Hà Nội chỉ được phép huy động cho
NSNN và cho ĐTPT bằng hai công cụ công trái và trái phiếu.
Ngày 20/11/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP về việc phát hành TPCP, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương, cụ thể hoá hoạt động huy động thông qua
KBNN, thay thế Nghị định số 01/2000/NĐ-CP về Qui chế phát hành TPCP. Trái phiếu Chính phủ hay trái phiếu
chính quyền địa phương đều là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ hay UBND cấp tỉnh phát hành, có thời
hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của người phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Trái
phiếu Chính phủ bao gồm 6 loại: Tín phiếu Kho bạc, Trái phiếu Kho bạc, Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu
đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ và Công trái xây dựng Tổ quốc. Ngoại trừ Tín phiếu và Trái phiếu Kho bạc phát hành
để bù đắp thiếu hụt của NSNN trong năm tài chính hoặc theo dự toán hàng năm, 5 loại Trái phiếu Chính phủ còn
lại và Trái phiếu của Chính quyền địa phương (đối với Hà Nội là trái phiếu đô thị) đều có thể là những công cụ
để KBNN Hà Nội huy động vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển Thủ đô. Trái phiếu được phát hành bằng cả
đồng Việt Nam và ngoại tệ tự do chuyển đổi dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, có ghi tên hoặc không
ghi tên.
Các loại Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ, Công trái XDTQ đều có thời
hạn trên 1 năm và do Chính phủ, Bộ Tài chính quyết định nên KBNN Hà Nội chỉ đóng vai trò tham gia khai thác
và sử dụng "gián tiếp", nghĩa là theo chỉ tiêu nhiệm vụ thu chi được TW giao. Công cụ trực tiếp huy động và sử
dụng vốn đầu tư của KBNN Hà Nội được qui định trong Nghị định 241/2003/NĐ-CP chính là Trái phiếu chính
quyền địa phương - loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn trên 1 năm do UBND cấp tỉnh uỷ quyền cho KBNN hoặc tổ

chức tài chính, tín dụng trên địa bàn phát hành, nhằm huy động vốn cho các dự án, công trình thuộc nguồn vốn
đầu tư của NSĐP, đã ghi trong kế hoạch năm nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Điều kiện phát
hành TPCQĐP là:
(1) dự án công trình phải thuộc Kế hoạch đầu tư 5 năm;
(2) có phương án phát hành, kế hoạch sử dụng và phương án trả nợ;
(3) Chủ tịch UBND ra quyết định uỷ quyền cho KBNN hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn
chịu trách nhiệm phát hành, thanh toán trái phiếu.
Trái phiếu CQĐP được phát hành theo 3 phương thức:
1. Đấu thầu: lựa chọn các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu trái phiếu
2. Bảo lãnh phát hành: tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi phát hành
trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại
hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết.
3. Đại lý phát hành: tổ chức phát hành uỷ thác cho một tổ chức khác thực hiện bán trái phiếu cho các nhà
đầu tư. Chỉ có các Công ty chứng khoán, Quĩ đầu tư, Công ty Tài chính và các ngân hàng được phép bảo lãnh
hoặc đại lý phát hành trái phiếu.
Đáng lưu ý là TPCQĐP không được phép phát hành bằng phương thức bán lẻ, dù là qua hệ thống
KBNN hay không. Lãi suất TPCQĐP do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định hoặc hình thành theo kết quả đấu
8
8
9
thầu trong giới hạn biên độ do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định và mặt bằng lãi suất thực tế của TPCP cùng kỳ
hạn tại thời điểm phát hành. Khoản thu từ TPCQĐP được ghi thu vào ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp tỉnh
chịu toàn bộ trách nhiệm thanh toán gốc lãi và các chi phí liên quan tới TPCQĐP. Việc thanh toán được thực hiện
thông qua các tổ chức tài chính, tín dụng nhận uỷ thác do TPCQĐP chỉ được phát hành bằng phương thức đấu
thầu, bảo lãnh hay đại lý phát hành. Người sở hữu TPCQĐP cũng có các quyền lợi tương tự như người sở hữu
các loại TPCP, đó là: (1) được thanh toán đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi khi đến hạn; (2) được bán, tặng, cho, thừa
kế, cầm cố, chiết khấu trái phiếu; (3) được miễn thuế thu nhập đối với khoản thu nhập từ trái phiếu. TPCQĐP
cũng được mua bán trên thị trường tiền tệ hoặc chiết khấu, cầm cố tại NHNN, được niêm yết và giao dịch trên
thị trường chứng khoán. KBNN còn nhận ký gửi trái phiếu theo yêu cầu của người sở hữu trái phiếu với mức phí
do Bộ Tài chính qui định.

Đồng bộ với việc tạo ra khuôn khổ pháp lý tăng cường quyền chủ động chi địa phương, thực hiện đẩy
mạnh phân cấp ngân sách theo Luật NSNN, cho phép chính quyền địa phương khai thác các nguồn lực cho đầu
tư phát triển, các qui định pháp lý đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đã khai thác được cũng
liên tục được hoàn thiện.
Dù là tham gia phát hành TPCP, một phần được sử dụng thông qua chi ĐTPT và tín dụng nhà nước hay
phát hành TPCQĐP trực tiếp sử dụng vào các công trình dự án đầu tư của Thành phố thì các nguồn vốn đều
được phản ánh vào ngân sách Thành phố nên việc sử dụng phải đảm bảo hiệu quả, tuân thủ các qui định của Luật
NSNN, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP và Thông tư số 59/2003/TT-BTC qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật NSNN,... và các văn bản pháp qui liên quan tới quản lý đầu tư hiện hành như Nghị định số 52/1999/NĐ-CP,
Nghị định số 12/2000/NĐ-CP, Nghị định 07/2003/NĐ-CP về Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng. Việc quản lý,
cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn của KBNN Hà Nội thực hiện theo Thông tư số 44/2003/TT-BTC, Thông tư
45/2003/TT-BTC và Thông tư số 100/2003/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý, cấp phát, thanh
toán, quyết toán vốn đầu tư từ nguồn TPCP. Theo đó, cần đặc biệt lưu ý lập kế hoạch riêng cho các dự án đầu tư
bằng nguồn TPCP khi lập kế hoạch vốn đầu tư hàng năm, Sở Tài chính thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu
tư cho KBNN Hà Nội. Đối với các dự án do địa phương quản lý, căn cứ vào kế hoạch thanh toán vốn đầu tư và
tiến độ thực hiện các dự án, Bộ Tài chính chuyển vốn từ nguồn TPCP về Sở Tài chính, Sở lại chuyển vốn sang
KBNN Hà Nội để thanh toán cho các dự án. Chủ đầu tư quyết toán vốn đầu tư hàng năm theo chế độ hiện hành
về vốn đầu tư nguồn NSNN nhưng quyết toán riêng nguồn vốn TPCP. KBNN tổ chức hạch toán và theo dõi
riêng nguồn vốn TPCP, KBNN Hà Nội quyết toán với Sở Tài chính, Sở lại quyết toán với Bộ Tài chính riêng
nguồn vốn này, không quyết toán vào NSĐP. KBNN Thành phố phải giúp cơ quan quản lý trong việc mở hồ sơ
theo dõi, nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo qui định đối với các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn
TPCP, thực hiện chế độ kiểm tra định kỳ và đột xuất, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra việc thực hiện tiến
độ, khối lượng, chất lượng công trình, tình hình sử dụng vốn, không được dùng nguồn vốn TPCP để chi cho các
nhiệm vụ, dự án ngoài danh mục, không để tình trạng vượt vốn đầu tư của dự án đã được duyệt và tình trạng
lãng phí, thất thoát, tiêu cực.
Như vậy khuôn khổ pháp lý cho việc khai thác và sử dụng các nguồn vốn đầu tư thông qua hệ thống
KBNN đã tương đối đầy đủ, chi tiết và đồng bộ. Khuôn khổ pháp lý cho việc KBNN Hà Nội huy động vốn trong
dân thông qua phát hành TPCQĐP cũng đã có, nhưng còn thiếu qui định cụ thể về việc quản lý sử dụng nguồn
vốn TPCQĐP. Về cơ bản, nội dung của các qui định này tương tự như nội dung quản lý vốn đầu tư từ nguồn
TPCP, song có những điểm khác biệt nhất định liên quan tới phân cấp ngân sách và quyền chủ động của các cấp

chính quyền địa phương, tính chất của các dự án đầu tư đa dạng phụ thuộc vào đặc thù của từng địa phương nên
cần có qui định riêng.
Tóm lại, xuất phát từ nhu cầu thực tế và tiềm năng huy động vốn của địa phương, căn cứ vào những cơ
sở pháp lý quan trọng, KBNN Hà Nội hoàn toàn có điều kiện và triển vọng tăng cường huy động và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn dài hạn trong dân cho đầu tư phát triển Thủ đô thông qua hai công cụ là Trái phiếu Chính
phủ và TPCQĐP.
9
9
10
I.3.2. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua các ngân hàng thương mại
và tổ chức tín dụng
Ngoài kênh huy động vốn dài hạn thông qua ngân sách còn có các kênh huy động thông qua công cụ
vay và cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
Về truyền thống và thực tại, với chức năng trung gian huy dộng vốn từ nơi cung ứng đến nơi có nhu cầu
đầu tư để giải quyết các quan hệ cung cầu về vốn đầu tư trên pham vi toàn xã hội và là trung tâm thanh toán
trong toàn bộ nền kinh tế, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng có vai trò hết sức quan trọng trong việc
góp phần thoả mãn nhu cầu bổ sung vốn đầu tư của các doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh qua trình tích tụ và
tập trung vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên, việc huy động và cho vay vốn dài hạn từ các ngân hàng thương mại càng ngày càng khó đáp
ứng nhu cầu thực tế xã hội do có một số hạn chế sau:
- Nhu cầu vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng nói riêng, đầu tư phát triển dài hạn nói chung là rất lớn, song
các ngân hàng lại bị giới hạn trong việc cho vay tối đa đối với một khách hàng, một dự án;
- Nguồn vốn của các ngân hàng chủ yếu là các nguồn vốn ngắn hạn, song nhu cầu đầu tư phát triển dài
hạn, trong đó có các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng lại đòi hỏi các nguồn vốn có tính dài hạn.
- Việc huy động và cho vay vốn dài hạn của ngân hàng đòi hỏi các thủ tục và điều kiện ngặt nghèo (nhất
là về tài sản thế chấp) mà nhiều dự án và đơn vị có nhu cầu vay khó đáp ứng trên thực tế. Hơn nữa, vốn tự có của
ngân hàng cũng không phải là nhiều, vì vậy, khả năng huy động vốn của ngân hàng cũng bị hạn chế theo các quy
định nhằm đảm bảo an toàn chung cho hệ thống ngân hàng.
I.3.3. Huy động và sử dụng vốn thông qua thị trường tài chính
Với tư cách là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua - bán quyền sử

dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch, các công cụ
và dịch vụ tài chính nhất định, thị trường tài chính (TTTC) là tổng hòa các quan
hệ cung - cầu về vốn và được phân thành 2 loại: thị trường vốn ngắn hạn (thị
trường tiền tệ) và thị trường vốn dài hạn.
- Thị trường vốn ngắn hạn, hay còn gọi là thị trường tiền tệ, là các hoạt động
về cung- cầu vốn ngắn hạn (dưới một năm) diễn ra chủ yếu thông qua các hoạt
động của hệ thống ngân hàng các cấp.
- Thị trường vốn dài hạn là nơi diễn ra các hoạt động về cung - cầu vốn dài
hạn cho Chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình. Thị trường vốn dài hạn bao
gồm thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán.
Nhìn chung, TTTC dù ngắn hạn hay dài hạn, đều ngày càng mang tính mở
và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại cả ở cấp quốc
gia, cũng như quốc tế. Chúng tạo ra các kênh và công cụ huy động vốn cho đầu
tư phát triển từ các nguồn trong và ngoài nước, từ doanh nghiệp và trong dân;
cung cấp cho các nhà đầu tư những cơ hội và hình thức đầu tư đa dạng, phù hợp;
làm tăng khả năng thanh khoản của các công cụ tài chính và giúp đánh giá xác
10
10
11
thực hơn giá trị của doanh nghiệp và nền kinh tế; đồng thời giúp thực hiện hiệu
quả hơn các chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng thị trường mở...
Phát hành trái phiếu là hình thức phổ biến để huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển ở tất cả các địa
phương trên thế giới và nó luôn là phương thức huy động vốn quan trọng không chỉ đối với chính chính quyền
địa phương, mà đối với cả các doanh nghiệp (ngoài cổ phiếu).
Xét về tổng thể, huy động vốn của chính quyền địa phương từ việc phát hành trái phiếu đô thị là một
trong những lựa chọn ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của chính quyền đô thị trên khắp thế giới do
những lợi ích mà nó đem lại vượt ra ngoài mục đích ban đầu là huy động vốn.Việc cho phép và buộc chính
quyền địa phương phát hành trái phiếu để bù đắp nguồn vốn ngân sách nhà nước thiếu hụt cho đầu tư phát triển
dài hạn sẽ tạo ra áp lực buộc các chính quyền địa phương phải cải tiến, tăng cường tính minh bạch và công khai
hoá trong quản lý ngân sách địa phương, nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư công cộng, giúp phát triển thị

trường tài chính, tạo sự chủ động trong việc hoạch định chiến lược phát triển.
Tuy nhiên để phát hành trái phiếu được thành công phải có nhiều yếu tố đi liền với nó làm nền tảng
như:
- Phải có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát thấp;
- Lòng tin của các nhà đầu tư vào trái phiếu;
- Tồn tại một thị trường thứ cấp vận hành tốt và năng động để giảm bớt rủi ro cho nhà đầu tư vì trái phiều đô
thị thường là trái phiếu dài hạn,
- Chất lượng tín nhiệm cao trong việc trả nợ, điều này đòi hỏi chính quyền nguồn thu thuế, lợi tức, bảo lãnh...
đủ để nhà đầu tư tin vào việc có thể thu lợi từ trái phiếu đô thị,
- Hệ thống thông tin chất lượng cao về các hoạt động ngân sách của chính quyền địa phương, các dự án có
bán trái phiếu, hệ thống kế toán, kiểm toán công khai theo tiêu chuẩn quốc tế
Tuỳ theo cơ sở pháp lý xác định nghĩa vụ và phương thức điều hàng các khoản nợ huy động dưới hình
thức trái phiếu này, trái phiếu đô thị có 2 loại cơ bản sau đây:
Trái phiếu công ích (General Obligation Bonds -GOs)
Đây là loại trái phiếu đô thị được bảo đảm cả tiền gốc và lãi bằng toàn bộ các nguồn thu tài chính và
quyền lực thu thuế của chủ thể phát hành. Trái phiếu này có mức độ đảm bảo thanh toán cao, mức độ rủi ro thấp,
do vậy thông thường mức lãi suất của loại trái phiếu này thường thấp. Một số điểm đáng chú ý khi tham khảo
loại trái phiếu này là: Giới hạn theo luật về lượng nợ mà chính quyền địa phương được phép huy động. Giới
hạn này được Nhà nước cho phép hoặc do Hội đồng nhân dân địa phương quyết định.
Trái phiếu thu nhập hay trái phiếu công trình
Trái phiếu thu nhập (Revenue Bonds) là loại trái phiếu đô thị có lãi và gốc được trả dựa theo thu nhập
của công trình mà trái phiếu tài trợ, Ví dụ dễ thấy nhất của loại trái phiếu thu nhập là các trái phiếu tài trợ cho
các dự án về cầu dường có thu phí, các chương trình phát triển nhà ở, mở rộng bến cảng, sân bay...
Tại các nước công nghiệp phát triển, lịch sử phát triển của họ có phần đóng góp quan trọng của những
loại trái phiếu này. Đây là loại trái phiếu tập trung chủ yếu để phát triển hạ tầng, giúp Chính phủ và chính quyền
địa phương nhẹ gánh ngân sách.
Trái phiếu thu nhập được xem là loại có chất lượng thấp hơn trái phiếu công ích. Bởi vì mỗi công trình
có những rủi ro khác nhau và tuỳ thuộc vào điều kiện khai thác công trình đó có hiệu quả hay không. Thu nhập
thu được dùng để trả nợ từ các công trình tuỳ theo loại, nhưng nó chính là tiền thu từ việc sử dụng từ các tiện
11

11
12
ích đó. Trái phiếu thu nhập được huy động và điều hành bởi các tổ chức xây dựng và khai thác do chính quyền
địa phương chọn và quản lý.
Các trái phiếu thu nhập thường có mức lợi tức hấp dẫn nhưng có thể bị rủi ro cao, vì chúng không được
bảo trợ hay bảo đảm bằng bất cứ nguồn vốn nào khác ngoài thu nhập từ chính công trình mà chúng góp phần tạo
ra thu nhập.
Trái phiếu đô thị là loại trái phiếu dài hạn và có những tích chất chung của chứng khoán, đó là tính
thanh khoản (chuyển nhượng, mua bán; tính rủi ro; và tính sinh lời . Với những tính chất này trái phiếu đô thị
trở thành công cụ rất có hiệu quả để các chính quyền địa phương thu hút các nguồn vốn nhà rỗi trong dân cư
phục vụ cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của địa phương. Điều quan trọng là đỏi hỏi chính quyền địa phương
cần chủ động xây dựng chiến lược phát hành trái phiếu có hiệu quả và phải chứng minh cho các nhà đầu tư về
tính hiệu quả của dự án cần huy động vốn; đưa ra mức sinh lời hấp dẫn mà trái phiếu tạo ra; tạo ra nhiều tiện ích
đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư.
Ngoài ra, để phát hành trái phiếu đô thị đạt hiệu quả cao, thu hút được các nguồn vốn trong xã hội thì
việc đa dạng hóa loại hình trái phiếu có vị trí quan trọng. Loại trái phiếu phát hành sẽ phụ thuộc vào mục tiêu
huy động và chủ thể phát hành trái phiếu. Đối với các chương trình trọng điểm, công trình mà nhiều người dân
cùng được hưởng lợi thì phù hợp với việc phát hành trái phiếu công ích. Đối với các công trình hay dự án có
nguồn thu cụ thể thì có thể phát hành trái phiếu thu nhập (trái phiếu công trình hay trái phiếu doanh nghiệp). Hơn
nữa, về nguyên tắc lãi suất của trái phiếu phải cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ, lãi suất trái phiếu thu nhập phải
cao hơn lãi suất trái phiếu công ích, có như vậy mới thu hút được các nhà đầu tư trái phiếu.
Song để việc phát hành trái phiếu được thuận lợi thì cần có một thị trường thứ cấp phát triển, cụ thể là
thị trường chứng khoán. Phát triển thị trường chứng khoán và huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là
một trong những nội dung lớn của chiến lược huy động vốn cũng như quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường ở Việt nam nói chung, ở Hà Nội nói riêng trong thời gian tới.
Đối với DN, việc huy động vốn trên thị trường tài chính thường thông qua phát hành cổ phiếu và trái
phiếu DN phù hợp với Luật doanh nghiệp và các quy đinh pháp lí hiện hành khác. Ngoài ra, các ngân hàng
thương mại còn có thêm các chứng khoán khác như kỳ phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi và các giấy tờ có giá
khác tùy theo sự phát triển dịch vụ và nghiệp vụ của mình, phù hợp với luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng…
I.3.4. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua hình thức thuê mua tài

chính
I.3.4.1. Khái niệm và cơ cấu thuê mua tài chính
Thuê mua tài sản đã xuất hiện khá sớm trong lịch sử nhân loại (từ vài
nghìn năm trước công nguyên) với các hình thức sơ khai (tương tự như phương
thức thuê vận hành ngày nay), đến đầu thế kỷ XIX, đã xuất hiện hình thức thuê
mua và phát triển trở thành công cụ tài trợ vốn được chấp nhận rộng rãi. Đến
những năm 50 của thế kỷ XX, giao dịch thuê mua đã có bước phát triển nhảy
vọt nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn trung và dài hạn. Nghiệp vụ tín dụng thuê
mua thuần hay còn gọi là thuê mua tài chính được sáng tạo ở Mỹ vào năm 1952
và nhanh chóng phát triển ở Châu Âu vào thập kỷ 60, Châu á và nhiều khu vực
khác vào thập kỷ 70 do đây là hình thức tài trợ vốn có tính an toàn cao, hiệu quả
và tiện lợi cho các bên giao dịch (Hiện nay ở Mỹ, thuê mua thiết bị chiếm
khoảng gần 1/3 tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị). Các loại
12
12
13
hình thuê mua cũng phát triển rất phong phú, có loại thuê ngắn hạn, dài hạn,
thuê mua có quyền mua tài sản sau thời hạn thuê… các hình thức này đen xen
nhau. Từ những điểm chung nhất của các loại hình thuê mua, người ta đi đến
định nghĩa tổng quát về thuê mua như sau:
Thuê mua (leasing) còn có nhiều tên gọi khác nhau như cho thuê tài
chính, tín dụng thuê mua, thuê mua vốn… nhưng đều có những nội dung cơ bản
giống nhau, vì vậy ở đây xin được gọi chung là thuê mua tài chính. Về thực
chất, đây là một loại hình nghiệp vụ tín dụng thuê mua của ngân hàng, các tổ
chức tài chính phi ngân hàng và các công ty thuê mua tài chính. Thuê mua tài
chính là loại tín dụng có hiệu quả và thường được các doanh nghiệp ưa chuộng,
góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt là với các quốc
gia đang phát triển.
Thuê mua tài chính là một thoả thuận thuê mua thông qua một hợp đồng
giữa hai hay nhiều bên liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người thuê mua

chuyển giao tài sản cho người thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Đổi
lại, người thuê phải trả một số tiền cho người thuê mua, số tiền thuê thông
thường cả tiền gốc về hao mòn tài sản cộng với tiền lãi.
Đặc trưng của thuê mua tài chính là:
- Người thuê lựa chọn thiết bị từ nhà cung cấp, thương lượng với người
cung cấp về phương thức bảo đảm, bảo trì, giao nhận, lắp đặt, giá cả và phương
thức thanh toán.
- Người thuê mua thiết bị trực tiếp từ nhà cung cấp; người thuê mua vẫn
giữ quyền sở hữu thiết bị trong thời gian người thuê sử dụng.
- Hợp đồng thuê mua thường không được phép huỷ bỏ ngang chừng.
Việc thuê mua tài chính cho phép người thuê được lựa chọn tài sản thuê
trong tương lai vào thời điểm ký hợp đồng thuê thiết bị; thuê mua với thời hạn
nhất định để bên thuê mua thu hồi được vốn đầu tư và có lãi; hao mòn thiết bị
do bên thuê chịu, bên thuê có toàn quyền sử dụng thiết bị; bên thuê chịu trách
nhiệm sửa chữa, bảo dưỡng và bảo hiểm thiết bị; thiết bị có phù hợp hay không
thuộc trách nhiệm bên thuê. Thuê mua tài chính thường được áp dụng đối với
thiết bị dùng cho sản xuất, thương mại, dịch vụ.
Một nghiệp vụ tài trợ thuê mua được coi là thuê mua tài chính nếu thoả
mãn các tiêu chí sau:
13
13
14
- Đối với người đi thuê: (1) cuối thời hạn thuê mua, người đi thuê được
chuyển quyền sởt hữu tài sản; (2) hợp đồng thuê mua có điều khoản về quyền
chọn mua tài sản theo giá thoả thuận; (3) thời hạn hợp đồng xác định từ hoá
đơn, trên cơ sở giá trị của tài sản (điều này chỉ áp dụng với tài sản mới, giá trị
được xác định ít nhất bằng hoặc cao hơn 90% giá thị trường của tài sản thuê).
- Đối với người cho thuê: ngoài việc thoả mãn các tiêu chí trên, còn phải
thoả mãn các điều kiện: (1) việc thu tiền thuê tối thiểu có thể tính trước và phải
hợp lý; (2) người cho thuê không chịu trách nhiệm thanh toán những chi phí

không được hoàn trả trong những trường hợp ngoài dự tính.
Ngày nay, sau nhiều năm phát triển, hình thức thuê mua tài chính đã có
những bước tiến nhất định và chiếm được ưu thế trong một số ngành kinh tế
trọng điểm có nhu cầu vốn đầu tư ban đầu lớn như ngành hàng hải, hàng
không… và không dừng lại ở các tài sản là những động sản mà còn phát triển
sang cả bất động sản (nhà cửa, đất đai…) với nhiều hình thức khác nhau và
mang tính chất xuyên quốc gia. Ví dụ như hình thức tín dụng thuê mua lại (lease
back): ở hình thức này người thuê mua (khách hàng) là những người có tài sản
chuyên dùng và có nhu cầu sử dụng loại tài sản này, nhưng lại cần có khoản tiền
nhất định để sử dụng vào việc khác. Lúc này, họ mang bán tài sản đó cho công
ty thuê mua tài chính (chuyển quyền sở hữu) và xin thuê lại để sử dụng, rồi sau
đó sẽ mua lại những tài sản này khi kết thúc hợp đồng thuê mua.
Cơ cấu giao dịch thuê mua như sau:


Lựa chọn thiết bị


14
Công ty thuê
mua (người
thuê mua)
H p ng thuê muaợ đồ
Hợp đồng mua thiết bị
Nh cung c pà ấ Ng i i thuêườ đ
14
15
Chuyển giao tài sản
Ở Việt Nam, sau một thời gian xuất hiện, khái niệm tín dụng thuê mua đã
được đưa ra ở thể lệ tín dụng thuê mua: tín dụng thuê mua là một hoạt động thuê

mua máy móc thiết bị và các động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh
được tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên thuê, bên thuê thanh toán tiền
thuê cho các tổ chức tín dụng trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả
thuận và không được huỷ bỏ. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền
sở hữu tài sản thuê, hoặc được mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản theo
các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê mua.
Khái niệm này đã từng bước được hoàn thiện và đã có một số khái niệm
khác nhau, nhưng những nội dung cơ bản đều có sự thống nhất. Cụ thể như:
- Về phương diện hoạt động tín dụng: Tín dụng thuê mua là một phương
thức thuê mua tài sản dài hạn mà trong thời hạn đó, người thuê mua chuyển giao
tài sản cho người đi thuê sử dụng. Bên thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê
và được quyền: hoặc sở hữu tài sản sau khi kết thúc hợp đồng thuê; hoặc được
quyền mua tài sản bất cứ lúc nào cho đến khi kết thúc hợp đồng thuê; hoặc được
quyền thuê tiếp tài sản.
Theo định nghĩa này, tín dụng thuê mua ở Việt Nam có một số giới hạn
như: không áp dụng thuê mua với bất động sản; người thuê mua là sở hữu chủ
tài sản, như vậy không áp dụng phương thức thuê rồi thuê mua lại.
- Về phương diện thuê mua tài chính: Thuê mua tài chính là một hoạt
động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc thuê mua máy móc thiết bị và các
động sản khác; bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt
thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước
thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, hoặc
tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Theo định nghĩa này, thuê mua tài chính là một hình thức thuê mua tài sản
có kèm theo lời hứa bán lại cho người thuê khi kết thúc hợp đồng với giá cả
được thoả thuận từ trước. Như vậy, thuê mua tài chính (hay tín dụng thuê mua)
khác hẳn với hình thức thuê mua tài sản đơn thuần hay hình thức bán hàng trả
chậm , trả góp về phương thức sở hữu, tính chất cũng như mối quan hệ giữa các
bên tham gia.
15

15
16
Quan hệ giữa thuê mua tài chính (tín dụng thuê mua) với các loại hình tín
dụng:
- Là một trong những hình thức tài trợ vốn cho kinh doanh, ra đời và phát
triển song song với nghiệp vụ cấp tín dụng của ngân hàng, những nghiệp vụ này
bổ sung và hỗ trợ vốn cho nhau, tạo nên sự phong phú, đa dạng trong cung ứng
vốn cho nền kinh tế. Đối với các lĩnh vực kinh doanh có vốn đầu tư lớn, các
doanh nghiệp mới thành lập hay sắp xếp lại thì phương thức đầu tư này tỏ ra
hữu hiệu và chiếm ưu thế.
- Thuê mua tài chính là hình thức đặc biệt của tín dụng trung và dài hạn.
Về hình thức, thuê mua mang đầy đủ các yếu tố đặc trưng của tín dụng, đó là
tính hoàn trả, tính thời hạn và lãi suất, do tài sản thuê mua thường có gía trị lớn
và tuổi thọ dài nên thời gian hợp đồng thường là trung và dài hạn. Như vậy,
trong thuê mua, vai trò của người cho thuê là người cung cấp tài chính. Tuy
nhiên, thể hiện dưới hình thức tài sản, nên tín dụng thuê mua không phải là
phương pháp thay thế tín dụng trung và dài hạn mà nó là hình thức đặc biệt, bổ
sung tham gia tài trợ trong những trường hợp mà tín dụng trung và dài hạn
không thể thực hiện được.
Sự khác nhau giữa thuê mua tài chính với thuê mua thông thường:
- Đối với người thuê mua thông thường:
+ Người cho thuê mua không cam kết bán lại tài sản cho người đi thuê
khi chấm dứt hợp đồng thuê.
+ Người cho thuê mua phải gánh chịu phần lớn các rủi ro đối với tài sản
thuê mua.
+ Thời hạn thuê mua thường ngắn so với thời gian hữu dụng của tài sản.
+ Hiện giá của các khoản tiền thuê của một hợp đồng thường nhỏ hơn
nhiều so với giá trị tài sản.
- Đối với thuê mua tài chính:
+ Người cho thuê mua cam kết bán lại tài sản sau khi chấm rứt hợp đồng

thuê mua của giai đoạn cơ bản. Trường hợp người đi thuê không muốn mua thì
trả lại cho người cho thuê mua hoặc ký tiếp hợp đồng thuê giai đoạn sau.
+ Người đi thuê phải chịu những rủi ro liên quan đến tài sản.
16
16
17
+ Thời hạn thuê mua thường dài hơn hoặc gần bằng thời gian hữu dụng
của tài sản.
+ Hiện giá các khoản tiền thuê của một hợp đồng gần bằng giá trị tài sản.
Theo kinh nghiệm của một số nước, người ta thường quy định 3 tiêu
chuẩn của thuê mua tài chính như sau:
+ Một là, quyền sở hữu tài sản thuê mua có thể chuyển giao cho người đi
thuê sau khi chấm dứt hợp đồng thuê mua.
+ Hai là, thời hạn thuê mua khoảng 75% thời gian hữu dụng của tài sản.
+ Ba là, hiện giá của tổng các các khoản tiền thuê bằng 90% hoặc cao hơn
giá trị tài sản. Nhưng trong thực tế cần lưu ý việc xác định kỳ hạn sao cho tiền
thuê phải trả mỗi kỳ ở mức vừa phải, không ảnh hưởng lớn đến tình hình tài
chính của người đi thuê; đồng thời sau khi chấm rứt hợp đồng thuê mua, người
thuê mua có thể bán được tài sản.
Tổ chức thuê mua tài chính là một doanh nghiệp đứng ra thực hiện nghiệp
vụ thuê mua, tuỳ theo định chế của mỗi nước mà cho phép ngân hàng thương
mại, công ty tài chính, công ty thuê mua thực hiện nghiệp vụ này. Một số nước
không cho phép ngân hàng thương mại trực tiếp thực hiện đầu tư thuê mua
nhưng lại cho phép ngân hàng thành lập công ty thuê mua tài chính để thực hiện
nghiệp vụ thuê mua (Một số ngân hàng thương mại của nước ta cũng đang thực
hiện theo mô hình này).
Đối với công ty thuê mua tài chính là công ty con của ngân hàng, giữa
ngân hàng và công ty thuê mua tài chính có mối quan hệ rất chặt chẽ. Ngân
hàng đứng ra giới thiệu khách hàng cho công ty thuê mua tài chính của mình;
ngân hàng bảo lãnh cho các doanh nghiệp khi thực hiện việc thuê mua (tức là

ngân hàng sẽ gánh chịu một phần rủi ro cho công ty thuê mua tài chính); ngân
hàng tái cấp vốn cho công ty thuê mua tài chính trên các hợp đồng thuê mua.
Có thể phân biệt giữa thuê mua tài chính với tín dụng trả góp và bán trả
góp qua bảng so sánh sau:
Tiêu thức so sánh Thuê mua tài chính Tín dụng trả góp Bán trả góp
Chủ thể cấp vốn Ngân hàng, công ty
thuê mua
Ngân hàng thương mại,
công ty tài chính, quỹ
tiết kiệm, tổ chức bán lẻ.
Doanh nghiệp sản
xuất (hoặc có thể
thông qua công ty tài
chính)
17
17
18
Tiêu thức so sánh Thuê mua tài chính Tín dụng trả góp Bán trả góp
Hình thức vốn tài trợ Vốn hiện vật (thiết bị, tài
Sản)
Vốn bằng tiền Vốn hiện vật
Tính chất pháp lý đối
với tài sản
Người thuê mua là chủ sở
hữu tài sản và chuyển
quyền sử dụng cho người
đi thuê
Người được cấp vốn sở
hữu tài sản mua được từ
vốn tín dụng

Người nhận được
tài
sản là người sở hữu
Tính chất tài sản Máy móc thiết bị có giá
trị lớn, tuổi thọ lâu dài.
Vốn tín dụng thường sử
dụng cho việc tiêu dùng:
Mua ô tô, cho vay lưu thông, cho
vay chuyển nhà…
Hàng hoá tiêu dùng,
ô tô, vật dụng gia
đình…
Thời hạn hoàn trả vốn Thời hạn thuê gần bằng
Thời gian hữu dụng của
tài sản và cuối hợp đồng
thuê, người đi thuê có
quyền chọn mua, thuê
tiếp hay trả lại tài sản.
Thời hạn vay ngắn. Thời hạn ngắn.
Vấn đề rủi ro Là hình thức ít rủi ro vì tài
sản thuê mua vẫn thuộc
quyền ở hữu của người
thuê mua. Người đi thuê
không được sửa chữa,
làm giảm giá trị tài sản
hay thế chấp.
Nếu vi phạm những
quy định trong hợp đồng,
người thuê mua có quyền
thu hồi tài sản.

Rủi ro lớn do quyền sở
hữu tài sản thuộc về người
đi vay nên khó có thể
kiểm soát được việc sử
dụng tài sản. Có những
trường hợp người đi vay
không trả được nợ, ngân
hàng tịch biên tài sản
nhưng giá trị còn lại
thường thấp do đã sử dụng.
Rủi ro rất lớn.
Tóm lại, xét về mục đích cuối cùng (hành động cho vay) thì thuê mua tài
chính cũng là tín dụng đầu tư, thông qua đầu tư vốn thuê mua (thay cho vay)
nhằm thu lãi suất và lợi nhuận. Nhưng xét về bản chất nghiệp vụ thì thuê mua
tài chính có một số đặc điểm phân biệt với các loại hình tín dụng. Thuê mua tài
chính có nhiều ưu điểm hơn hẳn các loại tín dụng khác như: thời hạn thanh toán
mềm dẻo hơn (thoả thuận tự nguyện); mức độ đáp ứng về vốn/ tổng nhu cầu vốn
đầu tư cao hơn; thủ tục đơn giản, chấp thuận và thực hiện hợp đồng nhanh
chóng; trong trường hợp có vấn đề phát sinh ngoài mong muốn thì việc thu hồi
tài sản cũng nhanh và tiện lợi hơn. Thuê mua tài chính có mối quan hệ bởi cấu
trúc ba bên: người thuê mua (cho vay), người đi thuê (đi vay) và nhà cung cấp
18
18
19
tài sản, thiết bị. Ngược lại, tín dụng thông thường chỉ có mỗi quan hệ song
phương giữa người cho vay và người đi vay.
I.3.4.2. Các hình thức thuê mua:
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân loại các hình
thức thuê mua như sau:
- Căn cứ vào loại tài sản tài trợ thuê mua, theo truyền thống người ta phân

thành 2 loại: thuê mua động sản và thuê mua bất động sản. Tuy nhiên, do sự
phát triển mạnh mẽ của hoạt động thuê mua, đã xuất hiện thêm loại thứ 3 là thuê
mua vốn thương mại, trong đó người ta thuê mua nguyên cả một cơ sở sản xuất
kinh doanh hoàn chỉnh, có đầy đủ nhà xưởng, văn phòng, kho bãi, máy móc
thiết bị, thiết bị văn phòng… bao gồm cả động sản và bất động sản; người đi
thuê chỉ lo về vốn lưu động và tiến hành sản xuất kinh doanh.
- Căn cứ vào phương thức tài trợ, có các loại như:
+ Thuê mua thuần: là loại hình thuê mua có sự tham gia của cả ba bên:
người đi thuê, nhà cung cấp và người thuê mua. Đây là loại hình thuê mua
chuẩn nhất, thể hiện đầy đủ nét đặc trưng của thuê mua. Có thể tóm tắt phương
thức này như sau: Người đi thuê chọn thiết bị và nhà cung cấp, người đi thuê và
người thuê mua ký hợp đồng thuê mua; người thuê mua ký hợp đồng và mua
thiết bị của nhà cung cấp; người thuê mua chuyển quyền sử dụng thiết bị cho
người đi thuê.
+ Bán rồi thuê lại: ở hình thức này, người đi thuê lúc đầu chính là chủ sở
hữu tài sản thuê mua, họ bán tài sản này cho tổ chức thuê mua để rồi sau đó thuê
mua lại chính tài sản đó, cuối thời hạn hợp đồng, họ lại là chủ sở hữu tài sản.
Phương thức này thường áp dụng đối với bất động sản, hình thức này mang đến
cho người đi thuê những lợi ích nhất định như: Bù đắp những thiếu hụt về vốn;
tái tài trợ các tài sản trên cơ sở trung hạn mà trước đó đã mua bằng cách vay nợ
trên thị trường, có thể giảm chi phí vốn bằng cách sử dụng vốn khác (của người
thuê mua) với mức lãi suất thấp hơn mà người đi thuê vẫn được sử dụng những
tài sản do chính mình xây dựng, thiết kế hoặc đang sử dụng có hiệu quả.
+ Thuê mua hợp tác: là loại hình thuê mua có sự tham gia của 4 bên:
người đi thuê, người thuê mua, người cho vay và nhà cung cấp. Phương thức
này giống như thuê mua thuần nhưng khác ở chỗ người thuê mua tài sản không
19
19
20
hoàn toàn bằng vốn của mình mà một phần từ vốn vay của người cho vay, các

cổ đông hay của các nhà cung cấp tài sản, thiết bị.
+ Hình thức thuê mua trả góp: là hình thức tài trợ có sự lai tạo giữa 2 loại
hình thuê mua và trả góp. Theo phương thức này, người cho thuê mua sẽ tiến
hành mua tài sản mà người đi thuê yêu cầu để thuê mua, khi đó người cho thuê
mua vẫn là chủ sở hữu tài sản và người đi thuê chỉ có quyền sử dụng tài sản. Sau
khi thuê mua một thời gian nhất dịnh, người đi thuê mua đã hoàn vốn (bằng
hình thức thanh toán tiền thuê từng kỳ) đến một tỷ lệ nào đó thì người cho thuê
mua sẽ tiến hành chuyển quyền sở hữu tài sản cho người đi thuê, nhưng người
đi thuê vẫn còn trong tình trạng phải thực hiện những điều khoản trong hợp
đồng, tức là vẫn phải thực hiện việc bảo dưỡng tài sản và thanh toán đủ số tiền
còn lại.
+ Hình thức thuê mua nợ bán: là hình thức mà trong đó một người sản
xuất ra các tài sản, thiết bị bán cho công ty thuê mua, công ty này vẫn để cho
người sản xuất nắm giữ tài sản và yêu cầu họ cho người thứ 3 thuê. Sở dĩ gọi là
thuê mua nợ bán vì người cho thuê mua không chỉ tài trợ cho người đi thuê mà
còn trợ giúp vốn cho người sản xuất thông qua quá trình cấp vốn tín dụng bằng
việc mua tài sản, nhà sản xuất có điều kiện giải phóng vốn trong giai đoạn dự
trữ thành phẩm.
+ Thuê mua giáp lưng: là hình thức thuê mua mà không qua sự đồng ý
của người thuê mua, người đi thuê thứ nhất cho người đi thuê thứ hai thuê lại tài
sản mà trước đó họ đi thuê. Người đi thuê thứ nhất mặc dù không chịu những
rủi ro liên quan trực tiếp đến tài sản nhưng vẫn chịu trách nhiệm như một người
thuê thật sự theo những điều khoản đã ghi trong hợp đồng. Vai trò người thuê
thứ nhất vừa là người đi thuê, vừa là người thuê mua tài sản, người thuê mua
ban đầu chỉ biết đến người thuê thứ nhất mà không cần biết đến người thuê thứ
hai.
+ Thuê mua quốc tế: Là hình thức thuê mua mà người sở hữu tài sản và
người sử dụng tài sản thuê cư trú ở các nước khác nhau.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng, có hai loại thuê mua là thuê mua cho sản
xuất và thuê mua cho tiêu dùng.

- Căn cứ và tính chất biến động của lãi suất áp dụng trong nghiệp vụ thuê
mua có 2 loại:
20
20
21
+ Thuê mua theo giá cố định, là hình thức thuê mua trong đó lãi suất được
quy định cố định trong hợp đồng thuê mua.
+ Thuê mua theo giá thả nổi: là hình thức thuê mua trong đó 2 bên thoả
thuận lãi suất được điều chỉnh theo từng kỳ phù hợp với lãi suất thị trường.
I.3.4.3. Tính chất pháp lý của tài sản thuê mua:
Khác với phương thức tài trợ cổ điển dưới hình thức tiền tệ, tài trợ thuê
mua được thực hiện dưới hình thức tài sản. Tài sản thuê mua gồm cả động sản
và bất động sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài.
- Tính chất pháp lý liên quan đến tài sản thuê mua:
Người cho thuê mua là chủ sở hữu của tài sản trong mọi thời điểm khi
người đi thuê chưa mua tài sản (hay người cho thuê mua chưa thực hiện việc
chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người đi thuê theo hợp đồng), khi đó
người đi thuê chỉ được quyền sử dụng tài sản mà không được:
+ Bán, giao, thế chấp tài sản thuê;
+ Thay đổi hình dáng hoặc chuyển thiết bị thuê khỏi nơi đã được lắp
đặt đúng địa điểm trong hợp đồng mà không có thông báo bằng văn bản cho
người thuê mua.
+ Xoá hoặc thay đổi sổ xác nhận thiết bị thuê mua.
+ Sử dụng thiết bị thuê với những mục đích không được thiết kế hoặc
không mong đợi.
Nếu người đi thuê tài sản vi phạm những quy ước trên thì người cho thuê
mua dễ dàng lấy lại tài sản với cương vị là sở hữu chủ về mặt pháp lý đối với tài
sản thuê mua. Nhưng người đi thuê có quyền lựa chọn thuê tiếp, mua hay trả lại
tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng.
- Tính chất kinh tế của tài sản thuê mua:

Mặc dù người cho thuê mua là sở hữu chủ về mặt pháp lý nhưng họ
không trực tiếp sử dụng tài sản, quyền này được trao cho người đi thuê, là người
đứng ra khai thác tính hữu ích của tài sản và cam kết gánh chịu mọi rủi ro liên
quan đến thiết bị thuê như:
+ Người đi thuê phải đền bù cho người cho thuê mua mọi mất mát hoặc
thiệt hại về thiết bị với bất cứ nguyên nhân nào.
21
21
22
+ Người đi thuê phải bảo hiểm tài sản theo yêu cầu cụ thể của người cho
thuê mua và duy trì việc bảo hiểm cho đến khi hết thời hạn thuê và phải cung
cấp cho người cho thuê mua các tài liệu làm chứng cho việc bảo hiểm.
+ Người đi thuê phải thanh toán cho người cho thuê mua mọi chi phí về
tiền thuê và các loại phí (bao gồm cả phí quản lý) của người cho thuê mua liên
quan đến việc chuẩn bị và thực hiện hợp đồng, chi phí vận chuyển hoặc nhập
khẩu thiết bị và các chi phí khác có thể phát sinh.
+ Người đi thuê phải giữ gìn, bảo quản, sửa chữa thiết bị, bảo đảm các
tính năng của thiết bị, phải đào tạo cán bộ vận hành và có các hợp đồng bảo
dưỡng, dịch vụ thích hợp.
I.3.4.4. Thời hạn thuê mua:
Hợp đồng thuê mua có khái niệm thời hạn cơ bản, được xác định bằng
phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê và hiện giá của các khoản thanh
toán, tiền thuê mà người cho thuê mua nhận được tối thiểu phải lớn hơn hay gần
bằng giá trị tài trợ (đầu tư). Hiện nay trên thế giới có nhiều kiểu quy định thời
hạn cơ bản, có thể quy định thời hạn cụ thể hoặc theo tỷ lệ trên thời gian hữu
dụng ước tính của tài sản và cũng có thể kết hợp cả 2 loại này (Hàn Quốc quy
định thời hạn thuê cơ bản là 60% cho các tài sản có tuổi thọ kinh tế trên 5 năm
và 70% đối với tài sản có tuổi thộ kinh tế dưới 5 năm ; ở Mỹ quy định thời hạn
thuê cơ bản ít nhất phải đạt 75% thời hạn ước tính sử dụng tài sản và tổng hiện
giá của các tài khoản tiền thuê ít nhất bằng 95% giá trị tài sản). Các quy định

này nhằm đảm bảo quyền lợi và là điều kiện ràng buộc cả hai chủ thể ở chỗ:
+ Người đi thuê có thể trả lại tài sản khi hết hạn hợp đồng, lúc này người
cho thuê mua sẽ gặp nhiều khó khăn do không bán tài sản được vì giá cả của tài
sản luôn nhỏ hơn giá trị còn lại của chúng do hao mòn vô hình, vì thế quy định
tổng hiện giá các khoản thanh toán tiền thuê phải lớn hơn hay gần bằng giá trị
tài sản sẽ giúp người cho thuê mua giảm thiểu thiệt hại này. Hơn nữa, nó là yếu
tố mang tính kỹ thuật, ràng buộc người đi thuê chọn mua tài sản vì họ cảm thấy
có lợi khi chỉ bỏ ra một khoản tiền nhỏ (phần còn lại của giá trị tài trợ sau khi
trừ đi tổng hiện giá các khoản thanh toán tiền thuê) họ sẽ sở hữu một tài sản có
giá trị còn lại lớn hơn số tiền phải trả.
+ Việc quy định thời hạn thuê mua bằng phần lớn thời gian hữu dụng của
tài sản thuê là yếu tố đảm bảo quyền lợi cho người đi thuê. Vì khi đi thuê bản
thân họ cũng có ít nhiều khó khăn về tài chính (không thể mua ngay tài sản) cho
22
22
23
nên một khoảng thời gian đủ dài cho món nợ là yếu tố giúp họ có điều kiện tăng
số vòng quay vốn tạo lợi nhuận trước khi đến hạn.
Thời hạn thuê cơ bản theo nguyên tắc là thời hạn không thể huỷ bỏ. Tuy
nhiên, do khả năng kinh tế, người đi thuê có thể thoả thuận một thời hạn phù
hợp, hoặc do tốc độ lỗi thời của thiết bị mà người cho thuê mua có thể đề ra một
thời hạn ngắn hơn.
Như vậy, thời hạn thuê mua phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Thời hạn hữu dụng của tài sản;
+ Quy chế tài trợ thuê mua của nhà nước;
+ Khả năng tài chính của người đi thuê;
+ Tốc độ hao mòn vô hình của tài sản.
I.3.5. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua các kênh khác
I.3.5.1. Khuyến khích các doanh nghiệp phát huy nội lực hoặc liên doanh liên kết, tăng đầu tư dài hạn.
Không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là mở rộng tự do hóa đầu tư, đưa ra các ưu đãi hấp

dẫn liên qua đến việc giảm chi phí đầu vào và tạo độ tin cậy để kích thích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư dài
hạn là một trong các kênh chủ yếu để khai thác và sử dụng vốn đầu tư phát triển dài hạn xã hội tốt nhất cả trong
quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp: bao gồm nguồn vốn tự có, khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận
tái đầu tư, các nguồn vốn huy động thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vốn liên doanh, liên kết. Trong nền
kinh tế thị trường, nguồn vốn này hết sức quan trọng, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, năng lực sản xuất
của nền kinh tế và giá trị tổng sản phẩm xã hội. Trong xu hướng phát triển chung, nguồn vốn này sẽ tăng lên
nhanh chóng và ngày càng trở thành nguồn vốn chủ đạo trong nền kinh tế.
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, là nơi trực tiếp sử dụng thiết bị công nghệ, thể hiện trình độ
phát triển của nền kinh tế. Để thúc đẩy sự phát triển và áp dụng khoa học công nghệ của doanh nghiệp, mỗi
doanh nghiệp cần có vốn dài hạn để mua sắm thiết bị và đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động. Song phần
tích tụ vốn của doanh nghiệp tăng lên không thể kịp nhu cầu đầu tư cho thay đổi thiết bị và áp dụng những tiến
bộ khoa học công nghệ đang thay đổi với tốc độ chóng mặt. Bởi vậy, doanh nghiệp cần phải tập trung được một
lượng vốn đủ lớn được bổ sung từ các doanh nghiệp khác thông qua liên doanh liên kết, hay nguồn vốn từ dân
cư bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Liên doanh, hợp tác trong nước là phương thức tập trung vốn giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh gắn liền với việc chuyển giao công nghệ, thiết bị giữa các bên tham gia. Qua liên doanh, hợp tác, một
lượng vốn lớn được tập trung, đáp ứng được nhu cầu mua sắm trang thiết bị công nghệ, đáp ứng được những đòi
hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhờ đó doanh nghiệp có thể trụ vững được trên thương trường.
Việc liên doanh, liên kết trong nước đống một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển. Nó khai thác được
những lợi thế của các bên tham gia, tạo nền tảng cho việc xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh. Liên doanh liên
kết có thể thông qua tái cấu trúc DN, qua hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc sáp nhập, mua lại cổ phần… Phát
hành cổ phiếu làm tăng vốn của doanh nghiệp từ nhiều chủ sở hữu, còn phát hành trái phiếu làm tăng vốn vay
của doanh nghiệp, đồng thời làm tăng hệ số nợ của doanh nghiệp. Mỗi phương thức huy động vốn này đều có
ưu điểm và nhược điểm riêng, song đối với doanh nghiệp thì cả hai cách này đều là phương thức tập trung vốn
23
23
24
dài hạn được sử dụng nhiều ở các nước phát triển, nó đáp ứng kịp thời cho nhu cầu đầu tư chiều sâu của doanh
nghiệp.

I.3.5.2. Mở rộng xã hội hóa và tự do đầu tư kinh doanh
XHH cần được hiểu theo nghĩa vừa kêu gọi vốn đầu tư tham gia liên doanh liên kết của doanh nghiệp
ngoài nhà nước vào các lĩnh vực vốn do NSNN hoặc DNNN đảm nhận đầu tư, vừa phải là việc không ngừng tự
do hóa đầu tư, cho phép các thành phần kinh tế ngoài nhà nước trực tiếp đầu tư kinh doanh các lĩnh vực, sản
phẩm, địa bàn vốn bị đóng cửa hoặc hạn chế đối với họ
Mở rộng phạm vi, hình thức xã hội hóa đối với một số lĩnh vực (như giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa,
thể thao...) sẽ giảm được một khối lượng vốn NSNN dài hạn đầu tư cho những ngành đó, do vậy sẽ tập trung vốn
NSNN đầu tư cho các ngành khâu dự án trọng điểm, có ý nghĩa chiến lược ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế
xã hội nói chung mà tư nhân không muốn và không thể đầu tư.
Đặc biệt, cần sớm hoàn thiện cơ chế XHH cho phép các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác
cùng tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng; Từng bước thay thế phương thức cấp kinh phí trực tiếp
cho các đơn vị cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích bằng việc Nhà nước mua sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn
thành theo giá cả phù hợp với chất lượng và tiến độ hoàn thành; Thực hiện công khai hóa tài chính để đảm bảo
xã hội hóa lành mạnh.
I.3.5.3. Tăng cường đấu giá quyền sử dụng đất và phát triển các quỹ đầu tư…
Đây là những phương thức huy động còn kha mới mẻ nhưng chắc chắn sẽ ngày càng phổ biến ở nước ta
và cả thành phố Hà Nội trong tương lai, nhất là các quỹ đầu tư.
Nói tóm lại, để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm tới, mỗi địa
phương cần tìm những phương cách thích hợp để phát huy những lợi thế của mình nhằm huy động ngày càng
nhiều và ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn sẵn có ngay trên địa phương cho đầu tư dài hạn phát
triển kinh tế.
24
24
25
CHNG II:
THC TRNG HUY NG V S DNG VN DI HN CHO U T PHT TRIN
KINH T H NI
II.1. ỏnh giỏ chung thc trng khai thỏc v s dng vn di hn u t phỏt trin kinh t H Ni nhng
nm gn õy
H Ni l trung tõm ti chớnh - tin t ln nht Min Bc v ng th hai

ca t nc (sau TP HCM). Nhng nm qua, H Ni ó thu hỳt c khỏ nhiu
ngun vn phc v phỏt trin kinh t - xó hi. Vn u t nc ngoi, vn huy
ng trong nc u tng vi mc cao qua cỏc nm v u vt cỏc ch tiờu ó
t ra trong cỏc chng trỡnh huy ng ca Thnh ph.
* Giai on 1996 - 2000:
Trong thi gian t 1996 n 2000, tng vn u t xó hi trờn a bn H ni t khong 69.510 t
ng, bỡnh quõn 1 nm u t gn 14.000 t ng. Trong ú: Vn u t trong nc l 43.056 t ng, bỡnh
quõn 1 nm u t gn 8.600 t ng, chim t trng 61,9%; vn u t nc ngoi l 26.453 t ng, bỡnh quõn
1 nm u t gn 5.300 t ng, chim t trng 38,1%. Tc tng vn u t xó hi bỡnh quõn hng nm t
4,62%/nm.
* Giai on t nm 2001 n nay:
Trong hai nm 2001-2002 vn u t xó hi trờn a bn Thnh ph t
tc tng cao v khỏ n nh, tng vn u t xó hi t 39,3 ngn t ng,
tng 17,2%/nm
1
(k hoch 10%/nm). Huy ng vn u t xó hi trờn a bn
9 thỏng u nm 2003 t kt qu tt. c tớnh 9 thỏng u nm, tng vn u
t xó hi t 16.565 t ng, tng 11,6% so vi cựng k nm 2002. u t trong
nc c huy ng tt hn, nm 2002 chim 85% tng vn u t xó hi; u
t nc ngoi c phc hi.
Huy ng vn trung v di hn ca cỏc NHTM phỏt trin v ngy cng cú
vai trũ quan trng trong phỏt trin kinh t - xó hi ca Th ụ v c nc.
Ngun vn cho vay trung v di hn ca cỏc NHTM trờn a bn H Ni ch yu l vn t huy ng,
vn u thỏc u t v mt phn vn t Ngõn sỏch Nh nc u t cho cỏc cụng trỡnh theo KHNN (tuy nhiờn
vi nm tr li õy cỏc NHTM ch cho vay i vi cỏc cụng trỡnh chuyn tip, cũn cỏc cụng trỡnh d ỏn mi
chuyn v qu h tr phỏt trin cho vay).
- Vn ti tr u thỏc u t:
Vn ti tr u thỏc u t qua h thng NHTM H Ni bao gm ngun vn ti tr u thỏc t cỏc t
chc ti chớnh tin t quc t, ngun vn u thỏc ca Chớnh ph cỏc NHTM cho vay i vi cỏc cụng trỡnh
trng im ca Nh nc.

1 Bình quân 2 năm 2001-2002 vốn đầu t xã hội cả nớc tăng 10,3%/năm, Thành phố HCM tăng 12,2%/năm
25
25

×