Tải bản đầy đủ (.pdf) (439 trang)

Dân ca các dân tộc Pu Péo, Sán Dìu, Dao, Lô Lô, Cao Lan: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.44 MB, 439 trang )

DÂN CA DAO
sưu tầm, biên dịch

ĐỖ QUANG TỤ - NGUYỄN LIEN



ĐÔI NÉT VÈ
DÂN TỘC DAO VÀ DÂN CA DAO

xếp theo thứ tự số lượng dân số, dân tộc Dao đứng hàng
thứ chín sau các dân tộc Kinh (Việt), Tày, Thái, Hoa (Hán),
Khmer, Mường, Nùng, M ông(l); và cư trú trên các địa bàn
sau đây:
Tây Bắc: Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái.
Đông Bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng
Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên.
Trung du: Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tây.
Tây - Nam Bắc Bộ: Hòa Bình
Duyên Hải: Quảng Ninh
Bắc Trung Bộ: Thanh Hóa
Người Dao thuộc hai nhóm lớn Kiềm M iền (Đại Bản,
Tiểu Bản) và Kìm Mùn (Làn Tẻn, Quần Trắng) sinh sổng
tập trung và xen kẽ ở các địa bàn kể trên. Riêng ngirời Dao
Bình Đầu (nhóm Làn Tẻn) chi hiện diện ở Lai Châu; người
Dao Tuyển (Làn Tẻn) có mặt đông đúc nhất ở Lào Cai, Hà
Giang và Tuyên Quang.
Từ năm 1936, đồng bào Dao, tiêu biểu là các tiếu nhóm
n> Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ờ Việt Nam năm 2009, người Dao
có 75 ] .067 người (đứng hàng thứ 9).


313


Đại Ban, Tiều Bàn Cao Băng đã sớm tham gia cách mạng
do Đ ảne C ộn 2 sản Đ ông Dương lãnh đạo và thời gian liếp
theo đã cùng toàn dân V iệt N am nhất tề đứng dậy khởi
nẹhTa giành chính quyền, lập ra nước V iệt Nam dân chủ
cộnghòa

, '

Kinh qua hai cuộc kháng chicn chống thực dân xâm
lược Pháp và chốne. Mỹ cứu nước thốns nhât Tô quôc, xây
dưng chu nghĩa xã hội, dồng bào Dao đã vươn lên, liến
những bước dài trong sự nghiệp phát triển cuộc sông vật
chất và tinh thần.
Dân tộc Dao là dân tộc yêu thích văn thơ và giỏi ca
ngâm. Nam giới “Phiêu chòi” chuyên làm thơ tôn vinh lliần
thánh gia tiên, thơ nghicm huấn răn dạy con cháu và
khuvên thiện xã hội: thơ ca ngợi eiang sơn gấm vóc. Thế hệ
“Phiêu chòi đương đại” nối sót “Phiêu chòi truyên thông’kế thừa tinh hoa văn học dân gian đã sáng tác nhiều trường
thi, đoản thi ca ngợi Tổ quốc Việt Nam , Đ ảng Cộng sản và
lãnh tụ anh minh.
Thơ nừ giới đằm thám yêu thương, dạt dào khát vọng
vượt lên sô phận, nhất mực thủy chung trong tình yêu - hôn
nhân và quan hệ xã hội. Trước Cách m ạng tháng Tám , nữ
giới không có điều kiện học chữ Dao - Hán nên sáng tác
theo cam xúc. được ý nào, câu nào thì “giữ kỹ trong đầu
óc” và “chôn chặt trong tim ” đợi khi có dịp là đem ra biểu
đạt qua hát cưới, hát giao duycn sau lúc nông nhàn. Chị em

nào xuất thân gia tộc Phiêu chòi hoặc dòne họ Pháp sư, thì
có nhiêu cơ hội “học lỏm ” ông cha rồi truyền lại cho bạn bè
đồng quê hương.
314


Từ Cách mạng tháng Tám trở về đây, nữ giới ngày càng
thông thạo quốc ngữ, biết sử dụng chừ quốc ngữ làm công
cụ diễn tả nội tâm. Các bà các chị làm thơ động viên nhau
sản xuất, dũng cảm gánh vác việc bản, việc nhà đê chông
con yên tâm dánh giặc ngoại xâm. Song giữa hai giới có
một chút khác biệt: nam giới sáng tác thơ đê hát và “tộ”
(tức ngâm đọc). Nữ giới làm vãn vần để hát. Họ không
ngâm ngợi như cánh mày râu. Và họ cũng không nhận mình
là người làm thơ; danh tử thi sĩ thi nhân đối với họ hoàn
toàn xa lạ. c ầ n chỉnh sửa bài văn vần, họ dùng cách nhâm
hát để thực hiện.
Người Dao rất cảm kích trước sự quan tâm đầy đù của
Nhà nước về văn hóa dân tộc nói chung và ca hát nói riêng.
Văn hóa văn nghệ Dao được trình diễn trên khăp mọi miên
đất nước, được trân trọng bảo vệ và phát huy giá trị toàn diện.
Có ai hỏi tại sao nền thơ ca Dao dành đạt thành tựu nổi bật
như thế, đồng bào Dao rất tự hào và chân thành bộc bạch:
- Từ xa xưa người Dao đã đặc biệt coi trọng ca hát, cổ
nhân từng nói:
“Nơ - hắng dấm, nơ - hắng co, diệu nơ - hắng hồng”
nghĩa là “năng uống, năng hát, lại năng hồng” ; hồng là biểu
tượng của hạnh phúc, tình yêu, hôn nhân, thịnh vượng.
“Không ca biếng hát cũng là già”
- Căn cứ vào sự tích Bàn Vương, nhóm Dao Kiêm Miền

khăng định: Chính bà Lưu Tam là người có công làm ra
“nghìn ca khúc” để truyền dạy nhân dân mà điệu hát là Páo
Dung. Có vùng quả quyết bà là vợ ông Bàn Vương; có nưi
quan niệm bà là tiên nữ giáng trần.
315

I


Khi ra khỏi nhà, xóm bản, quê hương, người D ao có hai
điều phòng thân:
- Phòng gậy
- Phòng lời
Phòng gậy tức là kiếm gậy tốt đi đường, gậy chống đất
giúp người lấy đà leo dốc, hãm trụ khi xuống dôc. Gậy còn
là vũ khí chặn ngăn thú dữ. Gậy là bạn đường đáng tin cậy
của khách lừ hành.
Phòng lời để chủ động giao tiếp, giao lưu; sẵn sàng
hưởng ứng cuộc chơi, cuộc hát m à không bị động. Hát cho
hay, cho sắc sảo để kết nghĩa bạn bè, để tự tôn bản thân và
vinh danh dòng họ quê hương.
Người Dao khá nghiêm khắc đối với hiện tượng xa
chệch dòng “Co sang” (Ca xướng) truyền thống:
- Cợt nhả vô lối
“ Sàng ca pậy nắng quỷa súi túa
Ọuỷa liu súi tuông bêu tũa pin”
H át cợt nhả như chống g ậ y khảm nước
Qua nước rồi, vứt bỏ gậy đi.
- Trống bỏi vô luân
“ Lô vìa chỉng tong tạp pẹ huấn

Lồ liủ di - ậm toong hó phủi lìn”
Lúa cũ không giã được nên bột
Già rồi không p h ả i tuổi hát chơi
Vi đặc trưng của hát chơi là giao tình nam nữ.
- Xỏ xiên - gây chuyện - xấc xược
316


Biết người đi đường là bậc trung niên mà cô gái vẫn
buông lời:
“Anh đi đâu bảo em biết nào ”
Người đàn ông đứng tuổi hát trả tức thì:
“Ổng cỏ síp miến suông đô duẩn
Bủa mụi công cồng cán chau công
Bủa mụi công cồng cán nhiếp mía
Nhap văng mậy con mậy nhỉa nhồng”
Bo đi củng ma khe sâu về
Bảo con cố cúi làm cỏ nương
Báo con củi cúi cổ làm cỏ
Có quang goc ngô. ngô ra hoa
Câu cuối nói thanh mà ý tục. Vì vậy, người ta quy định
hai loại “Co sang” (Ca xướng) cơ bản:
- Xã hội: hát ngoài đời
- Nghi lễ: thánh ca tại lễ đàn
Trong hai loại cơ bản, lại chia ra nhiều thể loại căn cứ
vào mấy tiêu chuẩn chính:
- Nội dung chù đề
- Đối tượng phục vụ
Ví dụ:
Phục vụ xã hội:

* Hà Giang có:
- Phây quyển dưng: hát về tình yêu
- Chíp khé dung: tiếp đón khách
- Hốp tíu dung: mời rượu
317


- Phúng khé dung: tiễn khách
- Giáo miền dung: răn dạy người
- Cô hàn dung: than mồ côi
* Thái Nguyên có:
-T ồ n tòi doi lủng: hát giao duyên nam nữ
- Páo dune hợp tíu: hát khi uống rượu
- Mài pi ảo tôn tòi: dùng cho người đã thành gia thât
- Hão ton: hát ru
- Lồ sấy: ru con
* Lào Cai có:
- Hát cưới Dao Tuyển: vàn an dung
- Hát cưới Dao Đỏ: sình cha lầy
* Yen Bái có:
- Hát cưới Dao Trắng
- Páo a dẻo: hát chơi của ngưòi lớn và trỏ em
- Páo phây - Xứ de: ứng xử
- Dung om: hát đô
Phục vụ nghi lê:
* Tuycn Quang có:
- Tom đàng dung: hát lễ Châu Đàng lớn
- Piền hùng sâu co: hát cúng Bàn V ươns
* Lào Cai có:
- Um cú dung: hát cúng hồn lúa và ngũ cốc khác

- Chà phin dung: thỉnh mời gia tiên
318


* Yên Bái có:
- Sài dung: hát tưởng nhớ gia tiên trong lễ làm chay
- Châu đàng dung: thánh ca Bàn Vương
- Tẩu pi - àng dung: chuộc vía cho trẻ em
Người Dao gọi chung ca hát là “co sang” theo tiếng chữ
là ca xướng, tiếng thường là “dung” có phân biệt:
- Páo dung: ca hát cùa Dao Kiềm Miền bao gồm Đại
Bản, Tiểu Bản.
- Áy dung: ca hát của Dao Kìm Mùn bao gồm Dao Làn
Tên, Quần Trẳng, Binh Đầu.
Ca là hát lên từ một bài văn vẩn 6 từ (lục ngôn), 7 từ
(thất ngôn) với sô lượng câu dòng không hạn định. Không
có ký âm, không có nhạc cụ đệm, trừ Tồng lình nhỏ
(chuông đồng) sử dụng ở lễ đàn khi “lạ m icn” (chicu thần).
Páo dung, Áy dung là danh từ chỉ ca hát ngoài xã hội.
Bài ca lề nghi gọi tăl là “ Dung”.
“Sang” (xướng) trong tiếna Dao đồna nghĩa với "Tộ"
(đọc) nhưng có ngân nga, cao giọng. Có nơi dùng cụm lừ
“Hấp tíu dúng” (hát uống rượu) dể định nghĩa “ Sang” là
nghệ thuật đọc và ngâm, “Sang" thường dùng tại nghi lỗ tín
ngưỡng và giới hạn trong tầng lớp "phiêu chòi” khi đọc
sách vãn chươns. “ Sang" phù hợp với thể thơ 3, 4, 5 từ.
“Lạ m iên” (chiêu thần) vận dụns thể thơ 3, 4, 5 từ tương
tự Đông dao của người Kinh. Điệu Lạ miên cũng được
người già, trẻ em dùng khi đọc tam. tứ. neìi tự kinh vi nó
dồn dập sống dộng.

Một số nhạc gia cho biết: Qua ký âm hóa Páo dung, điều
319


dễ cảm nhận là ca điệu Páo dung ít phong phú vê âm điệu,
âm giai. Hiệu quả chuồi âm thanh rất hạn chê vê phương
diện âm sắc và âm vực, tạo ra nhạc điệu trầm giãi. Páo dung
chỉ thu hút người nghe chủ yếu từ ngôn từ văn học.
Xin giới thiệu cùng bạn đọc m ột số bài Co sang truyên
thống và hiện đại của hai nhóm Dao K iềm M iền và Kìm
Mùn bước đầu sưu tầm ở các tỉnh Yen Bái, Lào Cai, Hà
G iang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái N guyên, Tuyên Quang,
Phú Thọ, H òa Bình, Sơn La, Lai Châu m à 60% là “Co
sang” Yên Bái, thuộc hai loại cơ bản xã hội và nghi lễ.
Thơ và dân ca cổ hầu hết không có tên bài. Noi gương
tác giả Dao đương đại, các vị Chủ thư và Phiêu chòi đã sử
dụng mấy từ chủ đề của từng bài để đặt tên. Tên riêng của
các bài trong sách này là kết quả chọn lựa giữa nhà sưu tầm
và người cung cấp.

T ÌN H V À C Ả N H
N H Ụ T TÀU TÔ N G KHÓI
N hụt tàu tông khói sa chiều choáng
Chùn tuông súi m ịn sởi sinh dơm
Phàn dĩ hùng là vần chang pụa
Phicu chòi tài sới kít mầu phiêm.
Dịch:
Mặỉ trời biển Đ ông soi khắp bãi
M ặt nước thuyền trôi, sóng động thuyền
320



Ba tấc chỉ hồng văn chương dệt
Tú tài nhập cuộc dạ vô tâm.
(Trích từ sách “Páo dung sâu”
của người Dao Tiền
xã Toàn Sơn, Đà Bắc, Hòa Binh).
CO SAI CO SÍN
Quà goi chạu tàu síu phiểm ti - eng
Chào sâu ấy sấu sâu dầm tủ
Co sai co sín chỉm niêm niêm
Meng dăm chúi phẩn cùn nìn sẩy.
Dịch:
Hoa nở trên cây lòng vui thích
Giơ tay muốn lấy, lấy chẳng được
Kẻ đẩy người đây dạ vấn vương
Số mệnh không cùng, chỉ hoài thương.
(Ghi theo người Dao Bỉnh Đầu xã Hồ Thầu,
huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu).
H ự u PHONG YẾN CA
DI ÂU PỎNG DÌN CÓ

*

Tủi cha tỉnh ghì bù quản chay

D ật quần tết tỉng dêm hùi tàu.
* Chùy chay cháu dồn bù bàn nộ
321



Chu làu tàm m ây tai tỏng sẻng
D ất nhẩy choóng dì bịt tay tin
Tin chẳn nhôn mạn quây tám lâu.
* Tạp anh tảm quản m ây tò tau
Teu sắm dăm con cha coóng đoòng
Cọôc đắn sìu sẻng ban tôi nhộn
Diều ngò hù ây dặn sìu toòng.
* Bù tu dàng đàu tỉm dăm ây
p ẻ c tim ký nếm phãm hòng chau
Tếu bịt và toòng hò com tan
Tàm sìu tay tin va bàm mằn.
Bài hát diễn ra ở đám cưới Dao Tuyển lúc săp chia tay
rước dâu lên đường giữa ba ông nhà gái và ba cô nhà trai.
Có đôi chút bịn rịn sau một ngày m ột đêm “lời ca đẹp, rượu
nồng say” .
HÁT M ỪNG TIỆC RƯỢU
* Thôi tạ ơn xong, không việc trọng
Tạm biệt chư óng để trở về.
* Mọi sự chu toàn không phẫn nộ
Song muôn ba cô lưu lại đây
M ột hai nghiêm biệt nơi đế điện


Ngàn vàng muốn mua quỷ tam dương 'Ij.
* Đáp ứng ba ông em vui tấu
Tiểu kim không dám ngồi cung đường(2>
Nước thuận nội triều vạn năm nhuận
Kiều Nga hòa ỷ tận triều đình<3).
* Vô số hương đào lòng không hợp

Trăm tim chỉ nghĩ tới hồng châu .
Tiêu biệt hoa đường không dám thán
Ba ngày sau để hóa dán thường5’
(Ghi theo người Dao Tuyển thôn Xuân Hòa,
xã Tân Dương, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai).

H ự u PHONG CHÍNH ĐƯỜNG
DI Á u PÓNG CHÁNH ĐOÒNG
* Dạc họp sám làu pèng nhắt phun
Nghền nhụy ấn tình tàng mạn thỉn.
0) Hát trêu đùa ba cô trong hôn đoàn nhà trai.
<2) Các cô đáp lời: Chúng em còn bé không dám ngồi sánh vai cùng
quý ông tại cung đường.
'3) Nơi nhà gái, chỗ ba ông ngồi, coi như triều đình đang thịnh; tại đây
có nhiều Kiều Nga (các cô gái đẹp ở bên nhà gái) rất họp với ba õng
sao các ông không đặt vấn đề.
<4) Nhiều cô đẹp thật nhưng các ông chỉ nghĩ tới ba cô nhà trai.
<5) Từ biệt địa điểm tổ chức hôn lễ qua ba ngày cưới, hết chức năng
nhiệm vụ quan “tam phẩm”, ba ông lại là dân.

323


* M ụng hòa chàng hò pôi cô quây
Tòi lọ nàn cánh họp gong nhảng.
Tổng chánh vàn nhồn tay tòi cha
Tài chảnh hò chùy hi tỉu nhiêu.
HÁT Ở M ÂM ỒNG CH ÁN H ĐOÒ N G
Ông Chánh Đoòng đáp 3 cô nhà trai đón dâu:
* Ta mới gặp nhau ngày đêm trọn

Ngôn ngữ ân tình chưa thỏa tâm.
* Những m ong hóa thành bao vật quý
Theo các cô về tới Nam Châu (nhà trai).
Tiễn thánh vể nguồn, đế xa giả
Còn ta nào biết về xử nào.
(Ghi theo người Dao Tuyển thôn Xuân Hòa
xã Tân Dương, huyện Bảo Yen, tỉnh Lào Cai)
Hai bài thơ ca cùa hai thanh niên Dao Đại Bản dưới đây
thê hiện tâm trạng và cách ứng xử cua họ.
- Hàn tan (Đơn thân) là chàng trai nông dân nghèo hiện
dương.
- Co sin (Cô thân) là nhà quý tộc trẻ tuổi ở âm gian.
324


HÀN TAN
Hàn tan phắng tài mậu vắng phẩy
Pơi cù pin súi mịn phấy buây
Bủa phin mài ên danh chùn tang
Mậu ên sùi pịn súi thùi buây
Bủa phin mài cha pin quây diếu
Tan cháy mậu cha mộng súi sing di âu.
Dịch:

ĐƠN THÂN
Một mình tưởng nhớ đến em
Chang dám dối lời như bồ câu nọ
Trên mặt nước hồ bay hoài mãi
Nhủ em có lòng bơi thuyên tới
Không có lòng mặc nước cháy trôi

Có chồng rỗi thì nên về sớm
Bên hồ vô vọng xanh xanh
Không nhà không cửa mình anh sầu buồn.
(Sưu tầm tại Quang Minh - Châu Quế
Phong Dụ Thượng - Văn Yên - Yên Bái)
CO SIN

(Bài Co sin này không kịp chép nguyên bản vì:
- Chủ sách ở Khai Trung đem sách đi cúng xa.
- Chủ sách ở Trung Tâm cho họ hàng mượn sách chưa kịp
lay về.
325


CÔ THÂN
M ặt trời qua sông không qua sớm
Rọi sáng nhà tôi ánh dương xa
Thiên gia vạn nhà trời không chiếu
Chiếu m ỗi mình ta kẻ không nhà.
M ặt trời sang sông chẳng sang sớm
Rọi sáng buồng tôi ánh minh dương
Nghìn ph òng vạn ph òng trời đâu chiếu
C hỉ chiếu mình tôi kẻ không buồng
(Buồng còn có nghĩa thứ hai: vợ hoặc người yêu)
Chàng lặng ỉm và cậy nhờ số mệnh.
Theo sách Bàn Vương các xã Khai Trung,
Trung Tâm - Lục Y ên - Yên Bái - Dao Đỏ)

CỘ N G Đ Ò N G X Ã HỘI
DÁM CHOÀNG CH IẾU

Dất nhật dấm chiếu phăm nhật chuối
Phăm nhật dấm chuối dấm choàng chiếu
Chiếu chín chiếu hô pại miền siên
Chiếu chấn tó pui dào sệt nhi àn.
326


Dịch:

KHÔNG THÀNH RƯỢU
Một ngày nống rượu say ba ngày
Không say ba ngày không thành rượu
Rượu trước rượu sau hại thản người
Rượu lắm chén, buồn chết người.
(Rút từ sách Bàn Vương
ở xã Toàn Son - Đà Bắc - Hòa Bình).

Thời phong kiến, tai họa thường xuyên giáng xuống
đầu người Dao song cũng có thời kì trời lành đất dịu, vua
quan và thứ dân một dạ hợp hòa. Người Dao ứng dụng thời
khắc quý hiếm này vào hôn nhân hôn lễ.

CHỨC ẢNH DƯƠNG QUAN
“CHỌC ENG DÀNG CUỐNG”
Bàng ghi-ẹng chủn tết eng sắc nộn
Mằn có lọ nghiếp tai pèng đì
Chọc eng dòng cuống tay bong lêt
Hòng đì nhuy chang cang đàn hì
Tủ on nhuy phùn ỏn dằn hí
Mằn óc quốc thai sinh lùi mành

Ngụ hi sìu nhùn goạng dẹc nhùn
Nghi loòng lo khói sinh doòng lằn.
327


Dịch: DƯ ƠNG Q U A N G R Ạ N G N G Ờ I
Vạn trượng tiết xuân sắc trời dịu
Dân hát m ừng vui cảnh thái bình
D ương quang rạng ngời xe vua xuồng
N gọc tướng ánh hồng giáng trần gian
Thánh thần thảy ngự nơi ngọc án
Dân yên nước thịnh nghe sấm vang
Năm khí nguyên tạo m uôn loài thuận
N ghi lang giáng hải trông vảy rồng.
(Sưu tầm tại X uân H òa - Tân Dương
Bảo Y ên - Lào C ai - D ao Tuyển)
Thảm họa động đất hai năm D ao, M ão đã tàn phá xã hội
cộng đồng Dao dưới triều Nguyên Thuận Đe Trung Hoa (năm
1368). Tai nạn khủng khiếp này được người Dao đưa vào
sách cúng, sach hát, sách sử đế con cháu ghi nhớ suốt đời.
Tên bài hát rất khác nhau, vừa dùng ca vừa dùng ngâm.
Bài “Diệu tom han dung phây” trích dưới đây của đồng
bào Dao Đại Bản, D ao Tiểu Bản ở Yên Bái, Phú Thọ,
Tuyên Quang, Thái N guyên, Cao B ằn g ...
+ Được rút ra ở các sách Bàn Vương, Bàn Vương thư,
Bàn H oàng ca thư:
Diần M ao nhậy nin thin tải han
Xiềm sên tũa mụa tricn chiu in
Tháo sấu quyền xoong mậu liệp mai
Tháo sấu họ toòng puấn mậu kinh

328


Tháo sấu xiềm cán mẩu súi lậu
Diếu phấy phái nhiều mầu mản sin
Diần mao nhậy min thin tải han
Xiềm sên tũa mụa trien chiu khâu
Tháo sấu siềm sên mẩu súi lậu
Tháo sấu pèng tín khúng khán mầu
Kẽ mụa chậu tào xuất khuýa in
Chiu mụa xuất tài iên tũ khuýa
Sủi đía sình tòi xui xuất in
Súi đía sình tòi xui khuýa âu
Đồ mà con đía xuất sình in
Tông pin ỏm
Ù dùn diệu pá pã pin tài
Nhần vả pã pin tú pải lìu
Chiều chiêu guyền guyến xuất tài khán
Thin tẩy tông
Thin sái phía sâu quây búa king
Thin sái trụ xi - em thin chảng liệp
rô S i l l irụ \ i - em tài pái phing
Tliin tàv Tông
Thin sai số sâu quây búa chiêu
Thin sái trụ xi - em thin chảng liệp
Tồ sái trụ ây tẩy dịa chiều.
Dịch:
Dân, Mão hai năm, trời họa lớn
Tre gỗ, chuối rừng ra khỏi hết
329



Đến nỗi công kho gạo chắng còn
Đen nôi trường học, sách cũng không
Đến nỗi đầm sâu không luồng lạch
K iệt cạn khiến chết nghìn vạn cá
Dần, M ão hai năm trời đại hạn
Rừng sâu, nứa chuối chảy hết khô
Luồng lạch đầm sâu cũng chẳng còn
Đen noi ruộng bằng không nhìn thấy
Khói lửa xuyên thân bổc ngọn cây
Lửa từ cây chuối p h ụ t ra
Rêu xanh đáy nước phun ra khói
Đáy nước rêu đả phụt lửa âen
Gốc cây gai rừng bốc khói xanh
Bên Đ ông ảm đen
M ây đen từ ph ía Đ ông đến
Người nói bên Đ ông thiệt hại rồi
Châu châu huyện huyện chạy lại xem
Trời đất động
Nhà vua viết giấy báo về kinh
Vua mặc áo lập đàn lễ trời
Tháy trò pháp sư mặc áo lễ sao
Trời đất động
330


Vua thảo văn thư báo về châu
Vua mặc áo lập đàn lễ trời
Đạo tử mặc áo cầu dưới đất.

TỒM HAN
Chạng thảo cô sên di ảm chiến thiên
Ký sì tũ tháo thai phình nin
Thám nìn mậu í thin tá hán
Liệp mả vuầy tào duẩn chổng miền
Nhụt quái chiệp hửm quang mành phiu
Luồng quây tá khói phủng quây thiên.
Dịch:

ĐẠI HẠN
Lên đinh núi cao chẳng thấy trời(l>
Bao giờ thấy được năm yên vui
Ba năm không mua trời đại hạn
Thẳng ngựa truyền báo dân khắp nơi
Trăng đã qua rằm thì ít sáng
Rồng về biển cả, phượng về trời(2>.
(Tân Lĩnh - Lục Yên - Yên Bái - Dao Đỏ)

(1) Bài này nguồn gốc ở sách cúng Bàn c ổ , phát âm bằng hai thứ
tiếng Quan Hỏa và Dao. Do bài có liên quan đến vận mệnh cùa cộng
đông - xã hội nên nó được đồng bào nam nữ thuộc lòng và hát than khi
gặp vận hạn.
(2) Hoạn nạn đã đến, ai đi đâu thì đi. Cũng có bài nói “về núi” tiếng
Dao là “Quây sên”.

331


PỤ A M Ù N M Ù I


Mùn mùi chà tuông chia có làng
Chia có chái cha dũ giải chia
Chia có hèng dàu tài sía soong.
Dịch:

HỎI CÔ EM
Hỏi cô trong nhà mấy gái trai
Có mấy ở nhà giúp cha mẹ?
Mấy đi xa tìm vợ tìm đôi?
(Lản Nhì Thàng - Phong Thổ - Lai Châu - Dao Đỏ)
VẤM SỐ GAI GHÌU
Dang mân tại tầu long tra đón
Dam ghìu cha chiáng sit dâu pẻ
Dãm pấu trán trèo chú nhàn mại
Thấy chú dang cản nàn dăn hùi
Dam cố sáng tàu dâu pé quây
Púng sáu chi - ăn tàu nhân tốt chá
Chấu veng vếu vặt chầy loong đăm
vấm số gai ghìu chầy loong hùi.

Dịch:

NƯỚC MÁNG CẠN HẾT
Dương trần thăm nhau đưa trà đón
Uống chè nhạt mới phải anh em

332


Ấm phủ mât tiền mua trà chén

Nhớ tiếc dương gian khó trở về
Ở xa liên tưởng anh em quý
Phóng chân tới nhà nhận đúng nhà
Đường đến nhẵn thực là anh tới
Nước máng cạn anh p hải múc th ô i(l>
Trước khi lên nhà sàn, nước hết chu nhà phải múc vào
cho đầy, nhưng là khách đến chơi mà anh tự múc thì mới
phải là bạn.
XUẤT SỚI
Thơ ca lịch sử dân tộc Tiểu Bản (Dao Tiền) thể thất
ngôn cùa họ Bàn thôn Suối Bí, xã Mường Cơi, huyện Phù
Yên, tỉnh Sơn La nói về bốn họ lớn được phân ra:
Puôn suất Piền cha tài dất lầu
Puôn suất Trêu cha tài nhẩy lầu
Puôn suất Lại cha phàm có lầu
Puôn suất Tảng cha phay có lầu.
Dịch:

XUẤT THẾ
Phân
Phẫn
Phản
Phàn

ra
ra
ra
ra

họ

họ
họ
họ

Bàn thờ bát hương thử nhất
Triệu thờ bát hương thứ hai
Lý thờ bát hương thứ ba
Đặng thờ bát hương thử bốn.

(U Máng đựng nước dưới cầu thang.

333


TÌNH Y ÊU
GHING SANG QUÁ GỎI
Ghing sang quả gỏi mụi chấy eng
Nọi gậy tòng đềm mậu sa chấy
Thíng tàu mặn tỉn quá m ạn tây
Phùn bây gậy đầu chấy phổi chấy
Tham nhột quả gỏi dằm dàng mi
Pé nệu dàm lành cóc nhen gỏi
Cóm che song cắn sâu pêu bấu
Tủi tau thám tóng pêu bâu đềm
Tham nhột kẻng đền đòi thai chóng
Tủi tạu dòng dàng tú m ăn thím.
Dich:

TRÊN R Ù N G HO A NỞ
Trên rừng hoa nở cây tươi tốt

Không p h á i m ọi cày đều có mật
Trên trời đầy sao, dưới rừng đầy hoa
Ban truyên trai g á i được y êu thương
Chim chóc muôn loài đều m ở m ắt
Cảv mía chờ đến vụ thu hoạch
Đợi mùa thu, mía ngọt đến ngọn
Tháng Ba cày bừa, m ọi người trồng cấy
Tháng Chín ỉúa vàng, dạ yên vui.
(Sưu tầm ở Phong Niên - Bào Thắng L 3 0 Cai - Dao Tuyên)

334


MÀI PHIÊM LÂY THÔNG(1)
Mài phiêm phiêm lây thông
Mầu phiêm ghẽ pí quả tàng lồng
Mài phiêm dất nin kỉn pham kỉn
Mầu phiêm dất thẩy điệm phang puồng
Dất nin pham pé lụa chiệp nhât
Diêm tan chiêm dỉa tú phàng puồng
Hải nhất phang puồng mặn nỏi thỉng
Hỏa mấy diều chai thin dịa thing
Lầy nhiều diều than hắng pẹ trị
Kỉn chiếm puồng liều hắng tỏi luồng
Mìu mài chiền phiêm mị mài ấy
pển chằng thúi đía dất thong luồng.
Dịch: CÓ TÌNH LÒNG AI THANH THẢN
Có tình lòng ai thanh thản
Không tình như ngọn đèn cách bóng
Có tình một năm thấy nhau ba lần

Không tình nghĩa, suốt đời chảng nhìn thay nhau
Một năm có 360 ngày
Không đâu chi gặp có đêm nay
(l) Bài: Dân ca Dao Nga Hoàng (Quần Chẹt) do hai vợ chồng nghệ
nhân Triệu Thị Loan - Dương Đức Chính quê xã Cát Thịnh, huyện
Văn Chấn, tinh Yên Bái trình diễn và đoạt Huy chương Bạc tại Liên
hoan Hát Dân ca và Giao duyên toàn quốc lần thứ nhất (1994).

335


×