Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

công tác bồi thường giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận tây hồ, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 113 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Giải phóng mặt bằng (GPMB) là điều kiện tiên quyết, là yếu tố quyết định
thành công cho sự phát triển của một quốc gia hay một địa phương. Muốn phát
triển thì phải tiến hành cải tạo, đầu tư, xây dựng các công trình theo hướng đồng
bộ và hiện đại; nhưng với quỹ đất như hiện nay thì công việc trước tiên cần phải
tiến hành là GPMB. Tuy nhiên tiến độ của công tác GPMB lại phụ thuộc phần
lớn vào khâu bồi thường GPMB, đây là vấn đề phức tạp mang tính chất kinh tế,
xã hội tổng hợp; không chỉ thể hiện bản chất kinh tế các mối quan hệ về đất đai
mà còn thể hiện các mối quan hệ về chính sách, xã hội. Thực tế hiện nay, công
tác bồi thường GPMB vẫn chưa thực hiện tốt, gây nhiều bức xúc trong dư luận,
dẫn đến tình trạng người bị thu hồi đất khiếu kiện, chống đối, không hợp tác với
các cơ quan chức năng, không nhận tiền bồi thường; thậm chí có lúc, có nơi xảy
ra vụ việc phức tạp, kéo dài.
Quận Tây Hồ là một quận nằm ở phía bắc nội thành thủ đô Hà Nội, được
thành lập từ các phần của quận Ba Đình và huyện Từ Liêm theo Nghị định số
69/CP ngày 28 tháng 10 năm 1995 của Chính phủ Việt Nam và được xác định là
trung tâm dịch vụ – du lịch - văn hóa, vùng có cảnh quan thiên nhiên của Hà
Nội. Theo định hướng phát triển của thủ đô Hà Nội đến năm 2020, toàn bộ quận
Tây Hồ thuộc khu vực phát triển của Thành phố trung tâm, có điều kiện đặc biệt
thuận lợi thu hút các nguồn lực vốn tài chính, nguồn nhân lực và khoa học công
nghệ để thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội của quận nói riêng và của
Hà Nội nói chung. Do đó quỹ đất Nhà nước cần phải thu hồi để thực hiện các dự
án xây dựng trên địa bàn quận Tây Hồ trong những năm gần đây được thực hiện
với số lượng lớn, nhưng phần lớn lại bị ách tắc ở khâu bồi thường GPMB cho
người bị thu hồi đất; tiến độ bồi thường GPMB một số dự án còn chậm, kéo dài,
1
gây tổn hại về kinh tế và ảnh hưởng trật tự trị an xã hội, mất nhiều thời gian và
công sức giải quyết. Nguyên nhân chủ yếu là do người dân không chấp nhận
phương án bồi thường hỗ trợ, họ thấy mình chưa được bồi thường thoả đáng, đặc
biệt là đối với những người dân trong diện di dời phải thay đổi nghề nghiệp, điều


kiện sống, học tập, thay đổi tập quán và các vấn đề tâm lý, xã hội khác.
Chính những bất cập trong công tác Bồi thường GPMB trên địa bàn quận
Tây Hồ là nguyên nhân chính gây chậm tiến độ GPMB, ảnh hưởng đến thời gian
thi công xây dựng công trình, gây thiệt hại nhiều cho Nhà nước và sự nghiệp
phát triển của Thủ đô nói chung của quận Tây Hồ nói riêng. Vì vậy có thể nói
công tác bồi thường GPMB trên địa bàn quận Tây Hồ hiện nay đang là vấn đề
trọng tâm, cần được quan tâm giải quyết, từng bước khắc phục các vấn đề còn
vướng mắc, tăng cường sự hợp tác của người bị thu hồi đất với các cơ quan chức
năng nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
Do vậy để phần nào thấy được bức tranh toàn cảnh của công tác bồi thường
GPMB đối với các dự án Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Tây Hồ trong
thời gian vừa qua và sắp tới, từ đó đề ra được những giải pháp và kiến nghị thiết
thực nhằm khắc phục các vấn đề còn tồn tại, khó khăn và vướng mắc trong công
tác bồi thường GPMB trên địa bàn quận hiện nay nhằm đẩy nhanh được tiến độ
bồi thường GPMB trong thời gian tới trên địa bàn quận, tôi xin chọn đề tài
“Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Công tác bồi thường GPMB hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội đang là
vấn đề quan trọng, được đặt lên hàng đầu cho nhu cầu phát triển của thủ đô trong
thời gian tới. Công tác bồi thường GPMB trong những năm vừa qua tuy đã đạt
được nhiều thành tựu nhưng bên cạnh đó nhiều dự án GPMB không thực hiện
2
được hoặc tiến độ chậm trễ gây thiệt hại cho nhà nước và xã hội mà nguyên nhân
chủ yếu không đâu khác chính là do ách tắc ở khâu bồi thường GPMB. Tuy công
tác bồi thường GPMB hiện nay còn nhiều bất cập, vướng mắc, khó khăn khi thực
hiện nhưng hầu như chưa có đề tài nào nghiên cứu tổng quan về thực trạng của
công tác này trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng như các địa phương của thành
phố. Phần lớn các ấn phẩm sách và đề tài nghiên cứu mới chỉ dừng ở việc phân
tích, tuyên truyền các văn bản chính sách pháp luật trong lĩnh vực bồi thường

GPMB; hoặc cũng mới chỉ đánh giá được tình hình công tác bồi thường GPMB
ở một vài dự án cụ thể của một vài quận huyện.
Đặc biệt với quận Tây Hồ hiện nay sau 15 năm xây dựng và phát triển, quận
đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên
mọi lĩnh vực. Theo định hướng phát triển của Thủ đô Hà Nội đến năm 2020,
quận Tây Hồ sẽ trở thành trung tâm dịch vụ - du lịch – văn hoá của thủ đô Hà
Nội. Căn cứ vào định hướng phát triển ấy và căn cứ vào tình hình thực tế trên địa
bàn quận, quận Tây Hồ xác định định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội trong thời gian tới trong đó có nhiệm vụ trọng tâm là “tập trung giải phóng
mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật và
xã hội”. Muốn làm được nhiệm vụ này thì công tác bồi thường GPMB phải được
đặt lên hàng đầu và phải thực hiện có hiệu quả, đi đầu trong công tác GPMB.
Nhưng cũng giống như tình hình chung của thủ đô Hà Nội công tác bồi thường
GPMB trên địa bàn quận Tây Hồ gặp rất nhiều khó khăn, vướng phải sự chống
đối của không ít các hộ dân bị thu hồi đất. Tuy nhiên cho đến hiện nay chưa có
đề tài nghiên cứu nào đánh giá về công tác bồi thường GPMB trên địa bàn quận
Tây Hồ để từ đó có thể thấy được rõ hơn nhưng bất cấp, vướng mắc trong công
tác này nhằm tìm được những giải pháp thiết thực để đẩy nhanh tiến độ và ngày
càng hoàn thiện hơn công tác bồi thường GPMB trên địa bàn quận.
3
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về công tác bồi thường GPMB
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác bồi thường GPMB trên địa bàn
quận Tây Hồ trong thời gian vừa qua
- Đứng trên phương diện cấp quận đề xuất các giải pháp, kiến nghị cho
lãnh đạo quận Tây Hồ nhằm khắc phục những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc,
tồn tại trong công tác bồi thường GPMB trên địa bàn quận để nâng cao hiệu quả
của công tác này, đáp ứng được nhu cầu cần phải bồi thường GPMB trên địa bàn
quận trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu công tác bồi thường GPMB trên địa bàn quận Tây
Hồ - Hà Nội đối với các dự án được Nhà nước thu hồi đất.
Thời gian phân tích tập trung vào năm 2010 và 2011
Loại đất bị thu hồi tập trung chủ yếu phân tích đất nông nghiệp và đất ở
của hộ gia đình cá nhân bị thu hồi đất.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp thống kê, phân tích,
tổng hợp và điều tra xã hội học; phương pháp dự báo, phương pháp chuyên gia
và một số phương pháp khác để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề đặt ra.
6. Ý nghĩa đóng góp của luận văn:
Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về thực trạng công tác bồi thường
GPMB trên địa bàn quận Tây Hồ - một trong những quận đang ngày càng phát
triển của thủ đô Hà Nội, nhu cầu cần bồi thường GPMB trong tương lai là rất
lớn. Luận văn sẽ góp phần giúp cho các ban ngành chức năng thấy được toàn
cảnh công tác bồi thường GPMB trên địa bàn quận trong thời gian vừa qua,
4
những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc trong công tác
này. Những giải pháp mà luận văn đưa ra sẽ giúp khắc phục được phần nào
những hạn chế trong công tác bồi thường GPMB trên địa bàn quận để công tác
này trong thời gian tới đạt hiệu quả hơn, đảm bảo yêu cầu đề ra.
Ngoài ra những nghiên cứu trong luận văn về tình hình công tác bồi
thường GPMB trên địa bàn quận Tây Hồ cũng cho thấy được một vài nét về tình
hình chung của công tác bồi thường GPMB trên toàn địa bàn thành phố Hà Nội.
Những giải pháp và kiến nghị của luận văn đối với quận Tây Hồ cũng có thể áp
dụng đối với các quận huyện khác của Thành phố.
7. Kết cấu của luận văn:
Chương 1: Cơ sở lý luận của Bồi thường GPMB khi Nhà nước thu hồi
đất
Chương 2: Thực trạng công tác Bồi thường GPMB khi Nhà nước thu

hồi đất trên địa bàn quận Tây Hồ - thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp trong công tác Bồi thường GPMB khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn quận Tây Hồ
5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BỒI THƯỜNG GPMB
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Tính tất yếu của công tác bồi thường GPMB:
1.1.1 Các khái niệm:
- Giải phóng mặt bằng là quá trình thực hiện các công việc liên quan đến
việc di dời nhà cửa, cây cối, các công trình xây dựng và một bộ phận dân cư trên
một diện tích đất nhất định để thực hiện việc cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng một
công trình mới. Quá trình giải phóng mặt bằng được tính từ khi bắt đầu hình
thành Hội đồng giải phóng mặt bằng đến khi giải phóng xong và giao cho chủ
đầu tư mới. Đây là quá trình đa dạng và phức tạp thể hiện sự khác nhau giữa các
dự án và liên quan trực tiếp đến các bên tham gia và toàn xã hội
- Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền
sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn
quản lý theo quy định của Luật đất đai. (Khoản 5 Điều 4 Luật đất đai 2003)
- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
(Khoản 6 Điều 4 Luật đất đai 2003)
- Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu
hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời
đến địa điểm mới. (Khoản 6 Điều 4 Luật đất đai 2003)
- Theo Điều 5 Nghị định 197/2004/NĐ-CP, Điều 17 Nghị định
69/2009/NĐ-CP thì bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi đất bao gồm:
+ Bồi thường hoặc hỗ trợ đối với toàn bộ diện tích đất Nhà nước thu hồi;
+ Bồi thường hoặc hỗ trợ về tài sản có gắn liền với đất và các chi phí đầu
tư vào đất bị Nhà nước thu hồi.
6

+ Hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi
nghề và các hỗ trợ khác cho người bị thu hồi đất;
+ Hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời sống tại khu tái định cư.
Vậy có thể thấy bản chất của công tác GPMB, BT, HT và TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất hiện nay không chỉ đơn thuần là việc BT trả lại về giá trị vật
chất mà còn đảm bảo lợi ích chính đáng cho người có đất bị thu hồi. Nhà nước sẽ
đảm bảo cho họ có một cuộc sống mới ổn định, một điều kiện sống tốt hơn hoặc
ít nhất bằng với điều kiện sống nơi ở cũ, HT chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc
làm… để họ yên tâm sinh sống, sản xuất, làm việc và cống hiến cho xã hội ngày
càng tốt hơn.
1.1.2. Sự cần thiết của công tác bồi thường GPMB
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu; Nhà
nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng thông qua hình thức giao đất,
cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn
định. Người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất có các quyền và nghĩa vụ
gắn với mảnh đất của mình, trong đó có quyền được bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng, phát triển kinh tế.
Mặt khác khi được giao đất để sử dụng, người dân đã thực hiện việc khai
thác, sử dụng đất đai để phục vụ cho cuộc sống của mình. Con người đã chủ
động lựa chọn cho mình phương thức sử dụng đất mang lại hiệu quả kinh tế cao,
họ sẵn sàng đầu tư sức lao động, tiền của để cải tạo mảnh đất nhằm mang lại
nhiều lợi ích, tăng giá trị của đất. Thực tế có nhiều hộ gia đình đã chuyển đổi
mục đích sử dụng và cải tạo hàng trăm ha đất trồng lúa năng suất thấp thành đất
vườn, đất trồng màu, đất trồng cây lâu năm; đất trồng lúa nhiễm mặn ven biển
thành mặt nước nuôi trồng thuỷ sản; đất đồi trọc thành đất rừng, đất trồng cây ăn
7
quả đem lại hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy khi Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất
của người dân cần phải bồi thường cân xứng với công đầu tư cải tạo đất và khả
năng sinh lời của mảnh đất đó.

Đối với các dự án thu hồi đất nông nghiệp, người dân bị thu hồi đất chủ yếu
là nông dân, họ sinh sống chủ yếu dựa vào diện tích đất nông nghiệp đó, vì vậy
khi bị mất đất sản xuất buộc phải chuyển đổi nghề nghiệp cho họ. Tuy nhiên đối
tượng người nông dân trình độ phần lớn là thấp, khả năng chuyển đổi nghề khó
khăn, do vậy cùng với việc bồi thường GPMB phải thực hiện việc hỗ trợ giúp đỡ
họ ổn định cuộc sống đặc biệt quan tâm đến việc hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp mới,
bố trí việc làm nhằm đảm bảo cuộc sống lâu dài cho người bị thu hồi đất.
Đối với các dự án thu hồi đất ở thì việc BT GPMB có khó khăn hơn do đất
ở có giá trị lớn hơn, gắn bó lâu dài với đời sống và sinh hoạt của người dân gây
nên tâm lý ngại di chuyển chỗ ở. Khi đó cùng với chính sách bồi thường, hỗ trợ
thoả đáng thì việc bố trí tái định cư là vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến
công tác GPMB. Yêu cầu của khu tái định cư là có điều kiện hơn hoặc bằng khu
ở cũ để tránh thiệt thòi cho người bị thu hồi đất, giúp họ nhanh chóng ổn định
cuộc sống.
Như vậy có thể thấy đối với bất kỳ loại đất nào khi bị thu hồi cũng tạo nên
những khó khăn nhất định cho người bị thu hồi đất do vậy công tác BT GPMB là
không thể thiếu nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho người dân, đảm bảo lợi
ích hợp pháp của người sử dụng đất. Công tác BT GPMB nếu được thực hiện tốt
sẽ góp phần quan trọng giúp cho việc GPMB được thực hiện suôn sẻ, rất cần
thiết để xây dựng các công trình mới đáp ứng nhu cầu đổi mới của xã hội; nhằm
sử dụng đất đai hợp lý và hiệu quả hơn.
1.1.3. Yêu cầu đối với công tác bồi thường GPMB
- Phải thực hiện theo các quy định của Nhà nước:
8
Công tác GPMB nói chung, BT GPMB nói riêng được thực hiện trong một
khoảng thời gian tương đối dài, có nhiều dự án có thể lên đến vài năm; trải qua
nhiều khâu, nhiều giai đoạn khác nhau; tác động đến nhiều đối tượng do vậy việc
BT GPMB cần phải tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục pháp lý theo quy định
của Nhà nước. Có như vậy mới hạn chế được sự khiếu kiện của người bị thu hồi
đất, đẩy nhanh tiến độ GPMB; tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, giám sát,

kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
- Đảm bảo hài hoà lợi ích hợp pháp của các đối tượng liên quan
Đây là yêu cầu quan trọng trong BT GPMB vì công tác này tác động trực
tiếp tới lợi ích của nhiều đối tượng: người bị thu hồi đất, chủ đầu tư và Nhà
nước. Đối với người bị thu hồi đất tuy góp phần đóng góp cho sự phát triển
chung của đất nước nhưng họ lại bị thiệt thòi do việc thu hồi đất ảnh hưởng trực
tiếp tới cuộc sống. Trong khi đó chủ đầu tư là người được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất để thực hiện dự án và họ phải chịu chi phí BT GPMB theo quy định.
Nhà nước là người có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, tiến hành BT
GPMB, ban hành các quy định có tính chất pháp lý cho việc BT GPMB. Do vậy
việc BT GPMB cần thực hiện đảm bảo sự cân đối, hài hoà lợi ích giữa các bên,
tránh tình trạng mất cân đối lợi ích ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện dự án gây ra
những thiệt hại lớn cho cá nhân và xã hội.
- Đảm bảo đúng tiến độ thực hiện và chính xác:
Tiến độ thực hiện BT GPMB quyết định phần lớn tiến độ GPMB; tiến độ
thực hiện dự án dó đó ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế, xã hội của dự án đầu tư.
Công tác bồi thường thiệt hại được thực hiện nhanh chóng, kịp thời sẽ đảm bảo
tiến độ bàn giao mặt bằng cho chủ dự án, tránh lãng phí, đẩy nhanh việc thực
hiện xây dựng công trình và đưa vào khai thác sử dụng theo đúng kế hoạch.
Ngoài ra cần đảm bảo tính chính xác, đầy đủ của số liệu thống kê đất đai
9
và các tài sản trên đất vì đó là cơ sở thực hiện việc BT GPMB, đảm bảo quyền
lợi cho người có đất bị thu hồi.
- Đảm bảo thực hiện dân chủ, công khai, công bằng:
Dân chủ trong công tác BT GPMB có nghĩa là tạo điều kiện thuận lợi để
người dân phát huy quyền làm chủ của mình, được tham gia nhiều khâu của quá
trình BT GPMB, đóng góp ý kiến và được trả lời các vấn đề còn chưa rõ nhằm
tạo sự đồng thuận và thống nhất cao với những người bị thu hồi đất.
Qúa trình thực hiện BT thiệt hại khi GPMB cần phải tiến hành công khai;
các văn bản pháp lý, các chế độ chính sách BT và HT, phương án BT và HT phải

niêm yết công khai để người dân biết và tin tưởng vào chủ trương thu hồi đất của
cấp có thẩm quyền. Có như vậy mới tạo được niềm tin trong nhân dân và khiến
người bị thu hồi đất tự giác thực hiện.
Việc BT GPMB được thực hiện với nhiều đối tượng, do đó phải đảm bảo
công bằng giữa tất cả các đối tượng; không thiên vị, ưu tiên đối tượng nào; tránh
tình trạng khiếu kiện gây bất bình trong nhân dân.
1.1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác bồi thường GPMB:
Trong thời gian vừa qua công tác BT GPMB ở nước ta có nhiều vấn đề bất
cập, Nhà nước đã có nhiều chính sách và giải pháp để tháo gỡ các khó khăn
vướng mắc trong khâu BT cho người bị thu hồi đất tuy nhiên đây vẫn là vấn đề
hết sức nhạy cảm và phức tạp, tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, tới
mỗi người dân và cộng đồng dân cư. Chỉ cần một yếu tố tác động tới công tác
BT GPMB được thực hiện không đúng sẽ dẫn tới những bế tắc trong quá trình
thực hiện, gây chậm trễ khiếu kiện pức tạp, kéo dài trong nhân dân, các yếu tố đó
bao gồm:
1.1.4.1. Cơ chế chính sách trong BT GPMB và tổ chức thực hiện:
Đất đai là đối tượng quản lý phức tạp, luôn biến động theo sự phát triển
10
của nền kinh tế - xã hội do vậy để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về
đất đai đòi hỏi các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này phải mang tính
ổn định cao và phù hợp với tình hình thực tế. Ở nước ta, do đặc điểm lịch sử,
kinh tế xã hội của đất nước trong mấy thập kỷ qua có nhiều biến động lớn, nên
các chính sách về đất đai cũng theo đó không ngừng được sửa đổi, bổ sung trong
đó chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng cũng luôn được Chính phủ không
ngừng hoàn thiện, sửa đổi nhằm giải quyết các vướng mắc trong công tác bồi
thường GPMB, phù hợp với yêu cầu thực tế triển khai.
Với những đổi mới về pháp luật đất đai nói chung, trong công tác BT
GPMB nói riêng, thời gian qua công tác GPMB đã đạt những kết quả đáng khích
lệ, cơ bản đáp ứng được yêu cầu trong thực tế. Tuy nhiên bên cạnh đó, do tính
chưa ổn định, chưa thống nhất của chính sách BT GPMB qua các thời kỳ mà

công tác bồi thường GPMB gặp nhiều khó khăn và cản trở.
Ngoài ra việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật trong công tác BT
GPMB trên thực tế cũng có những nhược điểm như số lượng văn bản nhiều, mức
độ phức tạp cao, không thuận lợi trong sử dụng, gây lúng túng trong xử lý và tạo
kẽ hở trong thực thi pháp luật. Nhận thức về các quy định của pháp luật nói
chung ở cấp cơ sở còn yếu, từ đó dẫn tới tình trạng có nhầm lẫn trong việc áp
dụng pháp luật. Trong khi đó việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật của các cơ
quan có trách nhiệm cho người dân chưa được thực hiện nghiêm túc, sát sao.
Vậy để đạt được kết quả cao trong công tác BT GPMB thì cơ chế chính
sách, các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này cần không ngừng thay
đổi trong từng giai đoạn để phù hợp với thực tế. Nếu cơ chế chính sách BT đã
lạc hậu, không còn phù hợp nữa mà vẫn thực hiện sẽ dẫn đến việc kéo dài thời
gian thực hiện BT, cản trở dự án gây tổn thất lớn về mặt vật chất cho Nhà nước.
Vì vậy vấn đề đặt ra là Nhà nước cần xây dựng cơ chế, chính sách BT vừa phù
11
hợp với thời cuộc, vừa đảm bảo lợi ích chính đáng của người dân, đồng thời phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.1.4.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của nơi có đất bị thu hồi:
Điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương nơi có đất bị thu hồi có ảnh
hưởng tới công tác BT GPMB. Dựa vào các quy định của Nhà nước mỗi địa
phương tự xây dựng cho mình một chính sách BT GPMB phù hợp nhất với điều
kiện thực tế của địa phương mình, nhưng phải đảm bảo tính thống nhất, không
trái với các quy định của Nhà nước. Chính do đặc điểm kinh tế, xã hội, trình độ
dân trí của từng địa phương khác nhau nên công tác BT thiệt hại khi GPMB cũng
có những đặc trưng riêng ở từng nơi.
1.1.4.3. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
Quy hoạch sử dụng đất không chỉ là công cụ tạo cung đất đai cho thị
trường mà còn là phương tiện quan trọng góp phần đảm bảo công bằng, dân chủ,
văn minh trong công tác BT GPMB. Bất kỳ phương án BT GPMB nào cũng phải
dựa trên một quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất để đạt được các yêu cầu về hiệu

quả kinh tế xã hội cao nhất. Khi xây dựng quy hoạch phải có tầm nhìn xa, hiện
đại, đồng bộ từ cấp cơ sở đến cả nước, phải gắn quy hoạch sử dụng đất với quy
hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết có như vậy mới có được sự đồng tình ủng
hộ của người dân khi thực hiện thu hồi đất GPMB. Việc xây dựng kế hoạch sử
dụng đất nếu không gắn với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và các dự án đầu
tư xây dựng sẽ ảnh hưởng tới tiến độ GPMB tái định cư khi có dự án.
Ngoài ra cần công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trước nhân dân
để lấy ý kiến đóng góp tại ra sự thống nhất trong tổ chức thực hiện đối với người
dân vùng có quy hoạch. Khi quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt phải tiến
hành thu hồi đất và triển khai dự án ngay nhằm tránh tình trạng để lâu khiến
người dân trong phạm vi quy hoạch sống trong cảnh tạm bợ, không ổn định.
12
1.1.4.4. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thống kê,
kiểm kê đất đai:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là căn cứ pháp lý quan trọng để tiến
hành việc BT GPMB, đặc biệt trong việc xác định diện tích cần phải BT.
Công tác giao đất, cho thuê đất, cấp GCN QSDĐ đã xác định tính pháp lý
cho việc sử dụng đất của người dân, thiết lập và bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của
các chủ sử dụng đất. Nếu các công tác này được tiến hành đầy đủ và tuân thủ
theo đúng các quy định của pháp luật sẽ tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng cho
việc lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; tránh được những khiếu
kiện tranh chấp liên quan đến khu đất bị thu hồi.
Công tác thống kê đất đai được tiến hành hàng năm và công tác kiểm kê
đất đai được thực hiện 5 năm một lần nếu được thực hiện đầy đủ, chính xác sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác BT GPMB.
1.1.4.5. Công tác định giá đất và tài sản trên đất để thực hiện BT
GPMB:
Thực tế việc định giá đất, giá BĐS để BT GPMB là vấn đề hết sức nan
giải, là nguyên nhân chính làm chậm tiến độ BT GPMB của các dự án, gây
khiếu kiện trong công tác GPMB. Hàng năm Nhà nước ban hành một khung giá

đất mới đối với từng khu vực và địa phương trong cả nước, tuy nhiên khung giá
này không đáp ứng được trước những thay đổi diễn ra liên tục trên thị trường
BĐS. Định giá đất của ta hiện nay còn nhiều bất cập, chưa phản ánh được quan
hệ cung cầu của thị trường tại thời điểm định giá nên khung giá của Nhà nước
đưa ra hàng năm đều thấp hơn nhiều so với giá đất thực tế trên thị trường.
Chính điều này làm ảnh hưởng lớn tới công tác BT GPMB vì không nhận được
sự đồng tình, chấp nhận của người bị thu hồi đất khi họ thấy mình được BT với
giá quá thấp.
13
1.1.4.6. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng cán bộ làm công
tác GPMB:
Đội ngũ cán bộ làm công tác GPMB nói chung, BT GPMB nói riêng
đóng vai trò không nhỏ góp phần đảm bảo tiến độ GPMB. Nếu coi nhẹ việc đào
tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho họ thì sẽ phát sinh những việc làm sai khi tổ
chức thực hiện do cách hiểu các quy định khác nhau, hoặc cũng có thể do cách
hiểu méo mó của những người thực thi pháp luật. Vì vậy ở các cấp bộ ngành,
địa phương phải thường xuyên tập huấn, phổ biến nghiệp vụ chuyên môn cho
đội ngũ cán bộ làm công tác GPMB nhằm đào tạo nâng cao kiến thức, cập nhập
được thông tin thường xuyên, có sáng tạo trong công việc từ đó giải quyết các
vấn đề trong công việc một cách nhanh chóng hơn.
1.1.4.7. Sự hợp tác của người bị thu hồi đất:
Có thể nói chiếm trên 50% quyết định sự thành công của công tác BT
GPMB ở sự hợp tác, đồng thuận của người bị thu hồi đất. Hầu hết các dự án bị
bàn giao mặt bằng chậm là do người dân phản ứng lại các quyết định của cơ
quan có thẩm quyền, gây khó khăn cho tổ công tác trong việc điều tra khảo sát,
không chấp nhận chính sách bồi thường GPMB, không nhận tiền bồi thường,
không chịu di dời, khiếu kiện phức tạp kéo dài……Do vậy nhiệm vụ của các
cấp, các ngành chính quyền địa phương cần tăng cường công tác tuyên truyền
phổ biến pháp luật đến người dân; đội ngũ cán bộ làm công tác GPMB phải giải
thích rõ, cụ thể, mềm dẻo để người dân thấy được việc thu hồi đất là phục vụ

cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng. Đồng thời nên kết hợp sức mạnh của các tổ chức, đoàn thể như Mặt trận
tổ quốc, chi bộ Đảng, Hội phụ nữ, Hội nông dân, tổ dân phố….trong việc tuyên
truyền, vận động người bị thu hồi đất chấp hành các quyết định của cấp có
thẩm quyền.
14
1.2. Hệ thống pháp lý trong công tác bồi thường GPMB
1.2.1. Khái quát hệ thống chính sách Bồi thường GPMB trước Luật
đất đai 2003:
Hiến pháp năm 1980 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do vậy
không được BT về đất khi GPMB mà chỉ được BT thiệt hại về tài sản trên đất và
những thiệt hại do việc thu hồi đất gây nên; trong trường hợp người bị thu hồi
đất cần có đất để sử dụng thì được cấp đất khác. Sau đó Luật đất đai năm 1988
ban hành cũng dựa trên những điều cơ bản này.
Hiến pháp năm 1992 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lý, sau đó Luật đất đai 1993 ra đời thay thế cho Luật đất đai
1988 đã đánh dấu sự thay đổi lớn trong chính sách thu hồi đất và BT GPMB.
Theo Điều 12 Luật đất đai 1993 quy định: “Nhà nước xác định giá các loại đất
để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất,
tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất. Chính
phủ quy định khung giá các loại đất đối với từng vùng và theo từng thời gian”.
Điều 27 quy định: “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang
sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt
hại”
Sau Luật đất đai 1993, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản dưới Luật
nhằm cụ thể hoá các điều luật, quy định chi tiết cụ thể và chặt chẽ hơn về vấn đề
thu hồi đất và bồi thường thiệt hại bao gồm:
- Nghị định của Chính phủ số 87-CP ngày 17-8-1994 quy định khung giá
các loại đất.

- Nghị định của Chính phủ số 90-CP ngày 17-8-1994 ban hành quy định
về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
15
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
- Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về việc đền
bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Nghị định này đã thay thế cho Nghị
định số 90-CP ở trên với điểm mới trong việc tính giá đất đền bù thiệt hại được
xác định trên cơ sở giá đất của địa phương ban hành theo quy định của Chính
phủ nhân với hệ số K để đảm bảo giá đất tính đền bù phù hợp với khả năng sinh
lợi và giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở địa phương.
- Thông tư 145/1998/TT-BTC ngày 04/11/1998 của Bộ tài chính về việc
hướng dẫn thi hành Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ
đã quy định cụ thể các phương pháp xác định hệ số K để định giá đất đền bù
thiệt hại.
Tóm lại chính sách về BT GPMB quy định trong Luật đất đai 1993 được
cụ thể hoá tại Nghị định 22/1998/NĐ-CP đã bước đầu đạt được những thành tựu
trong giai đoạn đầu thực hiện. Tuy nhiên với sự phát triển và thay đổi nhanh
chóng của đất nước, đã phát sinh nhiều vấn đề trong quá trình GPMB mà những
quy định của pháp luật hiện hành không thể giải quyết được như: giá đất BT thấp
hơn nhiều so với giá thực tế trên thị trường, các vấn đề trong việc hỗ trợ cho
người dân bị thu hồi đất… Phương pháp xác định giá đất bồi thường bằng hệ số
K đã được chỉnh sửa nhiều lần để phù hợp với thực tế đảm bảo lợi ích cho Nhà
nước và người bị thu hồi đất, tuy nhiên trên thực tế khi sử dụng hệ số K đã gặp
nhiều phát sinh như tuỳ tiện, chủ quan trong việc áp dụng gây thắc mắc khiếu
kiện trong nhân dân.
Chính vì vậy Luật đất đai 2003 ra đời và các văn bản dưới Luật được ban
hành đã đưa ra được những chính sách thoả đáng, khắc phục được những hạn
chế trên và ngày càng phù hợp hơn khi áp dụng vào thực tế của nước ta.
16

1.2.2. Hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến công tác BT GPMB từ
sau Luật đất đai 2003:
- Luật Đất đai 2003: đã đưa ra một bước tiến dài trong công tác BT
GPMB. Điều 42 Luật đất đai 2003 đã quy định một số vấn đề trong công tác BT
GPMB cho người bị thu hồi đất như đã chỉ rõ người dân bị thu hồi loại đất nào
thì được nhận loại đất tương đương có cùng mục đích sử dụng góp phần đảm bảo
lợi ích xứng đáng cho người bị thu hồi đất. Trong trường hợp không có đất để
BT thì được “bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết
định thu hồi”
Người bị thu hồi đất được tái định cư trước khi bị thu hồi đất và khu tái
định cư phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Đây là những nét
mới rất quan trọng trong Luật đất đai 2003, đã mở rộng quyền lợi của người bị
thu hồi đất. Ngoài ra Luật còn quan tâm đầy đủ hơn tới lợi ích của các cá nhân bị
thu hồi đất với việc quy định trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân
trực tiếp sản xuất mà không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì
ngoài việc được bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi đất còn được Nhà nước
hỗ trợ để ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới.
Những quy định về BT thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật đất
đai 2003 đã góp phần giải quyết những khó khăn trong công tác GPMB gặp phải
trước kia, tuy nhiên trong thực tế việc thi hành các chính sách này còn nảy sinh
nhiều vấn đề mà bản thân các điều khoản của Luật chưa quy định rõ ràng. Do đó
đã có nhiều văn bản dưới luật để bổ sung hoàn thiện cho công tác BT GPMB
như Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ (hướng dẫn
cụ thể tại Thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 và Thông tư
69/2006/TT-BTC ngày 02/8/2006 của Bộ Tài chính) trong đó đã cụ thể hoá các
điều trong Luật đất đai 2003 về công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
17
Nhà nước thu hồi đất; hướng dẫn cụ thể và có thêm một số nội dung về BT, HT
về đất, BT HT về tài sản, các chính sách HT, TĐC ,việc chi trả tiền BT, HT và
TĐC; hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho các hộ gia đình,

Sau đó tại Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ (cụ
thể hoá tại Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLB-BTC-BTNMT ngày
31/01/2008 của Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên & Môi trường ) đã quy định chặt
chẽ, minh bạch hơn về thời hạn thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; bổ
sung việc lập phương án tổng thể và phương án chi tiết BT – HT – TĐC; bổ sung
thêm khâu kê khai, kiểm kê và xác định nguồn gốc đất được tiến hành trước khi
lập phương án BT nhằm xác định giá BT và chính sách HT một cách khách
quan. Ngoài ra Nghị định đã bãi bỏ một số điều khoản của các Nghị định trước
đây được xem là không còn mang tính chất hợp lý.
Tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định
bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư trong đó đã tách bạch được giữa bồi thường và hỗ trợ ngoài ra cũng khắc
phục được những bất cập trong hỗ trợ và ổn định đời sống, sản xuất cho người
dân bị thu hồi đất nông nghiệp với mức bồi thường, hỗ trợ tăng lên rất nhiều so
với các quy định trước đây
Do có thêm nhiều Nghị định và Thông tư dưới Luật đất đai 2003 thay đổi
và bổ sung một số quy định trong công tác BT GPMB, vì vậy để dễ dàng trong
việc triển khai thực hiện Bộ tài nguyên và môi trường đã ban hành Thông tư
14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất.
Hiện nay trên địa bàn Thành phố Hà Nội.công tác bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích công cộng, mục đích phát triển kinh tế được thống nhất thực hiện tại
18
Quyết định số 108/2009/QĐ-UBND ngày 29/9/2009 của UBND Thành phố.
Quyết định này được xây dựng dựa trên cơ sở Luật Đất đai 2003, các quy định
của pháp luật liên quan và các văn bản hướng dẫn của cơ quan Nhà nước cấp
trên.
1.3. Trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư

Trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất được quy định tại Điều 29, 30, 31 của Nghị định
69/2009/NĐ-CP; đối với công tác BT GPMB tại Thành phố Hà Nội được quy
định chi tiết, cụ thể tại chương VI Quyết định 108/2009/QĐ-UBND. Cụ thể như
sau:
Công tác Chuẩn bị thu hồi đất
Chủ đầu tư liên hệ với UBND cấp xã và Phòng Tài nguyên Môi trường cấp
Huyện để trích lục bản đồ địa chính; lập danh sách các thửa đất bị thu hồi (số
hiệu tờ thửa bản đồ, tên người sử dụng , diện tích thửa và mục đích sử dụng của
thửa đất) để làm cơ sở ban hành Thông báo Thu hồi đất.
Thông báo thu hồi đất
Đồng thời với việc ban hành văn bản giới thiệu địa điểm đầu tư hoặc giao
nhiệm vụ cho Tổ chức phát triển quỹ đất thực hiện thu hồi đất theo quy hoạch đã
được duyệt và công bố, UBND Thành phố ủy quyền cho UBND cấp huyện ký
ban hành thông báo thu hồi đất.
Thông báo thu hồi đất là căn cứ pháp lý để tổ chức được giao nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng và nhà đầu tư thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư theo trình tự, thủ tục quy định.
Nội dung thông báo thu hồi đất gồm: lý do thu hồi đất, diện tích và vị trí khu
19
đất thu hồi trên cơ sở hồ sơ địa chính hiện có hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng
được duyệt và dự kiến về kế hoạch di chuyển.
Việc thông báo thu đất được thực hiện trên phương tiện thông tin đại chúng và
niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất, tại địa điểm sinh hoạt
chung của khu dân cư có đất bị thu hồi.
Chuẩn bị thành lập Hội đồng BT, HT và TĐC
Sau khi được UBND Thành phố chấp thuận chủ trương đầu tư, chủ đầu tư hoặc
tổ chức được giao nhiệm vụ giải phóng mặt bằng có trách nhiệm gửi văn bản
đến UBND cấp huyện nơi có đất thuộc phạm vi dự án đề nghị thành lập Hội
đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đồng thời gửi Ban chỉ đạo giải phóng mặt

bằng Thành phố để theo dõi, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện.
Thành lập Hội đồng BT, HT và TĐC; thành lập Tổ công tác
- Trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc kể từ khi nhận được văn bản đề
nghị, Ban bồi thường giải phóng mặt bằng cấp huyện có trách nhiệm thẩm tra hồ
sơ, trình UBND cấp huyện ký quyết định thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư và thành lập Tổ công tác.
- Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và Tổ công tác tự chấm dứt hoạt
động sau khi hoàn thành việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và bàn giao đất cho
chủ đầu tư.
* Thành phần Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện gồm có:
- Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch UBND cấp huyện là chủ tịch Hội đồng;
- Trưởng Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng làm Phó Chủ tịch thường trực
của Hội đồng;
- Trưởng Phòng Tài nguyên và môi trường - ủy viên;
- Trưởng Phòng Tài chính Kế hoạch - ủy viên;
20
- Trưởng Phòng Quản lý đô thị - ủy viên;
- Trưởng Phòng Kinh tế - ủy viên;
- Chủ tịch UBND cấp xã nơi có đất thuộc phạm vi dự án - ủy viên;
- Chủ đầu tư - ủy viên;
- Đại diện cho lợi ích hợp pháp của những người có đất thuộc phạm vi dự án (từ
1 đến 2 người) do UBND và Mặt trận tổ quốc cấp xã nơi có đất thuộc phạm vi
dự án giới thiệu được tham gia khi thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện làm việc theo
nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số; trường hợp biểu quyết ngang nhau
thì thực hiện theo phía có ý kiến của Chủ tịch Hội đồng.
* Thành phần của Tổ công tác gồm:
- Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cấp xã làm tổ trưởng;
- Đại diện của Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng cấp huyện – tổ phó;
- Cán bộ địa chính cấp xã – tổ viên;

- Cán bộ quản lý đô thị cấp xã – tổ viên;
- Tổ trưởng dân phố hoặc trưởng thôn nơi có đất thuộc phạm vi dự án – tổ viên;
- Đại diện Mặt trận Tổ quốc cấp xã nơi có đất thuộc phạm vi dự án – tổ viên;
- Đại diện chủ đầu tư – tổ viên.
Trên cơ sở yêu cầu thực tế tổ chức công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của
dự án, Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng cấp huyện có thể trình UBND cấp
huyện quyết định bổ sung một số thành viên khác tham gia Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư và Tổ công tác.
Lập, phê duyệt kế hoạch tiến độ chi tiết giải phóng mặt bằng
- Sau khi có quyết định thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư,
Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng cấp huyện chủ trì phối hợp với chủ đầu tư
21
và UBND cấp xã nơi có dự án đầu tư lập kế hoạch tiến độ chi tiết giải phóng mặt
bằng, thông qua Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để trình UBND cấp
huyện phê duyệt.
- Thời gian lập kế hoạch tiến độ chi tiết giải phóng mặt bằng và thông qua Hội
đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để trình UBND cấp huyện phê duyệt tối
đa là 05 ngày làm việc.
- Trong thời gian không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được tờ trình của
Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng, UBND cấp huyện có trách nhiệm ký quyết
định phê duyệt.
Thẩm tra dự toán chi phí tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư
- Căn cứ quyết định phê duyệt kế hoạch tiến độ chi tiết giải phóng mặt bằng của
UBND cấp huyện và dự toán chi phí phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư của chủ đầu tư, trong thời gian không quá 05 ngày làm việc phòng Tài
chính Kế hoạch có trách nhiệm thẩm tra, trình UBND cấp huyện phê duyệt dự
toán chi phí phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
- Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được tờ trình của
phòng Tài chính Kế hoạch, UBND cấp huyện có trách nhiệm ký quyết định phê

duyệt dự toán chi phí phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Người có đất bị thu hồi thực hiện kê khai hiện trạng nhà đất
- Trong thời gian không quá 07 ngày, kể từ ngày thành lập Hội đồng Bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư cấp huyện và Tổ công tác theo quy định tại Điều 50 của bản
quy định này, Chủ tịch UBND cấp xã và Tổ công tác tổ chức họp công khai với
các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đất và tài sản thuộc phạm vi dự án, phát tờ
khai theo mẫu quy định chung và thực hiện kê khai.
22
- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc (đối với hộ gia đình, cá nhân);
không quá 10 ngày làm việc (đối với tổ chức) kể từ ngày nhận được tờ khai,
người bị thu hồi nhà, đất có trách nhiệm kê khai theo mẫu tờ khai và nộp tờ khai
cho Tổ công tác hoặc bộ phận tiếp nhận hồ sơ theo quy chế một cửa của UBND
cấp xã nơi có đất thuộc phạm vi dự án. Quá thời hạn trên, Tổ công tác phối hợp
với UBND cấp xã và chủ đầu tư lập biên bản và lưu vào hồ sơ GPMB
Tổ chức điều tra hiện trạng, xác minh nội dung kê khai
- Hết thời hạn mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nằm trong phạm vi thu hồi đất
phải nộp tờ kê khai,Tổ công tác phối hợp với UBND cấp xã tổ chức lập biên bản
điều tra, xác minh số liệu kê khai đối vói từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có
nhà, đất trong phạm vi thu hồi.
* Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày hoàn thành việc điều tra, xác minh
nội dung kê khai, các cơ quan, đơn vị sau có trách nhiệm:
- Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản xác nhận các nội dung:
+ Xác định nhà, đất trong phạm vi thu hồi của hộ gia đình, cá nhân có tranh chấp
hay không có tranh chấp;
+ Căn cứ hồ sơ quản lý đất đai, xây dựng lưu trữ theo quy định tại UBND cấp xã
để xác định các điều kiện được bồi thường hoặc không được bồi thường theo
quy định.
+ Căn cứ hồ sơ quản lý đất đai, xác nhận thời điểm đất bắt đầu sử dụng theo mục
đích sử dụng hiện trạng; thời điểm xây dựng nhà, công trình trên đất nằm trong
chỉ giới giải phóng mặt bằng của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong phạm vi

thu hồi đất. Trường hợp không có hồ sơ thì tổ chức thu thập ý kiến của Mặt trận
tổ quốc cấp xã và những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng
đất để làm căn cứ xác nhận.
23
- Công an phường, xã, thị trấn có văn bản xác minh về hộ khẩu, nhân khẩu cư
trú tại nơi thu hồi nhà, đất của hộ gia đình, cá nhân;
- Chi Cục Thuế có văn bản xác nhận về thu nhập sau thuế;
- Phòng Lao động thương binh và xã hội có văn bản xác nhận về đối tượng
chính sách được hưởng hỗ trợ theo quy định;
- Cơ quan quản lý vốn, tài sản Nhà nước theo phân cấp có văn bản xác nhận về
nguồn, cơ cấu vốn có nguồn gốc ngân sách nhà nước đối với đất, tài sản nằm
trong chỉ giới giải phóng mặt bằng của tổ chức.
Lập phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Sau khi dự án đầu tư được xét duyệt hoặc chấp thuận, Ban bồi thường, giải
phóng mặt bằng cấp huyện có trách nhiệm hướng dẫn chủ đầu tư lập phương án
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chi tiết cho từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
có nhà, đất trong phạm vi dự án.
Niêm yết công khai, lấy ý kiến về phương án BT, HT, TĐC và quy chế bắt
thăm căn hộ, lô đất tái định cư.
- Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, quy chế bắt thăm căn hộ, lô đất tái
định cư phải được niêm yết công khai tại trụ sở UBND cấp xã và điểm sinh hoạt
khu dân cư nơi có đất thuộc phạm vi dự án trong thời hạn ít nhất là 20 ngày kể
từ ngày đưa ra niêm yết.
- Tổ công tác có trách nhiệm tiếp nhận toàn bộ các ý kiến đóng góp, báo cáo Hội
đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện để xem xét, giải quyết
Hoàn chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Hết thời hạn niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư, Ban bồi thường giải phóng mặt bằng có trách nhiệm hướng dẫn Chủ đầu tư
24
điều chỉnh lại các phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, trình Hội đồng

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thẩm định.
Thẩm định phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
- Sau khi nhận được phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, Ban bồi
thường giải phóng mặt bằng cấp huyện có trách nhiệm báo cáo Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện để thẩm định phương án bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư. Thời gian thẩm định tối đa là 07 ngày làm việc.
- Trường hợp phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chi tiết cần phải tiếp tục
hoàn chỉnh lại theo biên bản thẩm định của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư cấp huyện thì Ban bồi thường giải phóng mặt bằng cấp huyện phối hợp
với chủ đầu tư hoàn thiện trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày
có biên bản thẩm định của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện.
- Sau khi nhận lại phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chi tiết đã hoàn
thiện lại, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện có trách nhiệm
trình Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định phê duyệt.
Quyết định thu hồi đất
- UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài
- UBND cấp huyện quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở Việt Nam
Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định thu hồi
đất, giao đất hoặc thuê đất, Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định phê duyệt
25

×