Tải bản đầy đủ (.docx) (133 trang)

Thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại ủy ban nhân dân cấp huyện, tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………./………….
…………./………….
………
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM THI MAI LIÊN

THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA,
MỘT CỬA LIÊN THÔNG TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN
HUYỆN, TỈNH CAO BẰNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Mục lục
HÀ NỘI – NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………./………….
…………./
………….


HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM THỊ MAI LIÊN

THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA,
MỘT CỬA LIÊN THÔNG TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN
HUYỆN, TỈNH CAO BẰNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 8 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH.NGND. NGUYỄN VĂN
THÂM

HÀ NỘI – NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và là thành quả lao động khoa học của chính tác giả, không sao chép từ các công
trình có liên quan đã được công bố.
Các trích dẫn, số liệu trung thực, chính xác, từ các nguồn thông tin hợp
pháp./.

Tác giả Luận văn

Phạm Thị Mai Liên


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến quý thầy, cô giáo của Học viện
Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện tốt nhất cho tác giả trong thời gian học tập và
nghiên cứu tại trường.
Để hoàn thành luận văn này tác giả đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều cơ

quan, tổ chức, cá nhân ở 12 huyện và tỉnh Cao Bằng. Sự hướng dẫn nhiệt tình, tận tụy
của Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Văn Thâm. Tác giả xin
trân trọng cám ơn Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Văn Thâm
với những giúp đỡ tận tình, quý báu để tác giả hoàn thành tốt công trình nghiên cứu
của mình. Đồng thời xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến UBND tỉnh Cao Bằng, Sở Nội
vụ tỉnh Cao Bằng, UBND các huyện trên địa bàn tỉnh Cao Bằng và bạn bè, đồng
nghiệp đã quan tâm, tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thiện luận văn.


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn


3

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

7

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

8

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

9

7. Kết cấu luận văn

9

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN
THÔNG

1.1. Khái niệm, nội dung thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế
một cửa, một cửa liên thông
1.1.1. Thủ tục hành chính, thực hiện thủ tục hành chính theo cơ
chế một cửa, một cửa liên thông

1.1.2. Sự hình thành và khái niệm cơ chế một cửa, một cửa liên
thông ở Việt Nam

10
10
10
13

1.1.3. Bản chất, mục tiêu của cơ chế một cửa, một cửa liên
thông

18

1.1.4. Vai trò của việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên
thông cấp huyện

21

1.1.5. Những vấn đề cơ bản trong thực hiện thủ tục hành chính
theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông cấp huyện

1.2. Các
yếu
tố
tác


động đến hiệu quả hoạt động của cơ chế một cửa, một cửa
liên thông
1.2.1. Hiệu quả và và tiêu chí xác định hiệu quả thực hiện thủ tục

hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông
1.2.2. Các yếu tố tác động đến hiệu quả thực hiện thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông
1.3. Kinh nghiệm nước ngoài về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa
liên thông
1.3.1. Kinh nghiệm cải cách cung ứng dịch vụ công của Chính
phủ Hoa Kỳ
1.3.2. Mô hình một cửa của thành phố Liverpool (Anh)
1.3.3. Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức
1.3.4. Mô hình một cửa của thành phố Sydney (Úc)
1.3.5. Mô hình một cửa tại Thái Lan
1.3.6. Một số bài học kinh nghiệm
Tiểu kết Chương 1
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO
CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG TẠI ỦY BAN
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH CAO BẰNG

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, văn hóa tỉnh
Cao Bằng.

27
29
29
33
37
37
42
44
45
46

47
49
50

2.1.1 Về điều kiện tự nhiên.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội.
2.2. Thực trạng thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa,
một cửa liên thông tại UBND huyện tỉnh Cao Bằng .
2.2.1. Thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa (theo
Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 của Thủ
tướng Chính phủ) tại UBND huyện tỉnh Cao Bằng.

50
50
51
55

55


2.2.2. Thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một
cửa liên thông (theo Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày
22/6/2007, Quyết định 09/2015/QĐ-TTg ngày 25/3/2015

62

của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định 61/NĐ-CP ngày
23/4/2018 của Chính phủ) tại UBND huyện tỉnh Cao
Bằng.
2.2.3. Đánh giá tổng quan thực trạng thực hiện cơ chế một cửa,

một cửa liên thông tại UBND các huyện tỉnh Cao Bằng 69 qua
khảo sát, nghiên cứu thực tế.
2.3. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện thủ tục hành chính
theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại UBND huyện tỉnh
81
Cao Bằng.
2.3.1. Những tồn tại và hạn chế, vướng mắc cần khắc phục
81
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc

82

2.3.3. Một số bài học kinh nghiệm thực tế

84

Tiểu kết Chương 2

86

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG
TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN TỈNH CAO BẰNG

87

3.1. Yêu cầu và phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của
cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại UBND huyện tỉnh Cao 87
Bằng
3.1.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ chế một

cửa, một cửa liên thông tại UBND huyện tỉnh Cao 87
Bằng
3.1.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ chế
một cửa, một cửa liên thông tại UBND huyện tỉnh Cao 95
Bằng
3.2. Giải pháp và đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả cơ chế
98
một cửa, một cửa liên thông tại UBND huyện tỉnh Cao Bằng
3.2.1. Giải pháp

98

3.2.2. Đề xuất, kiến nghị với Trung ương và các cấp chính 103
quyền địa phương tỉnh Cao Bằng


Tiểu kết Chương 3

105

KẾT LUẬN

106

TÀI LIỆU THAM KHẢO

108

PHỤ LỤC


117


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đổi mới hoạt động của nền hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu quản lý đối
với mọi mặt của đời sống xã hội trong thời kỳ mới của đất nước là một yêu cầu tất
yếu, khách quan trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động này cần được thực hiện một
cách thường xuyên, liên tục, đặc biệt trong bối cảnh trước thềm cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0, khi mà sự tác động của khoa học, công nghệ ngày càng tạo ra những thay
đổi nhanh chóng, toàn diện đối với mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng…của đất nước. Trong nhiều năm qua công cuộc cải cách hành chính đã
được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo thực hiện với quyết tâm cao, nhằm xây
dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 của
Chính phủ (Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 –
2010) đã được tổng kết, đánh giá và đưa ra nhiều bài học kinh nghiệm, cũng như các
mô hình hành chính tốt, giải quyết được nhiều yêu cầu, đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn nền
hành chính Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước. Không dừng lại đó, Chính
phủ đã ban hành Chương tình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai 2011-2020
(Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính Phủ ban hành Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020) nhằm tiếp tục xây dựng
hoàn thiện nền hành chính nhà nước hiện đại, đáp ứng được yêu cầu quản lý về mọi
mặt đời sống xã hội.
Trong quá trình triển khai các giải pháp về cải cách hành chính, một trong
những mục tiêu có tác động nhiều và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội chính
là thể chế hành chính Nhà nước, trong đó có hệ thống thủ tục hành chính hiện vẫn
còn nhiều phức tạp, chồng chéo, rườm rà. Đó là nguyên nhân trực tiếp gây ra không ít
phiền hà cho người dân, tổ chức. Nhận thức được sâu sắc vấn đề này và để thể hiện rõ

quyết tâm thực hiện cải cách hành chính Nhà nước, Chính phủ Việt Nam đã chọn việc
thực hiện cơ chế một cửa tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương


để tiến hành cải cách thủ tục hành chính (Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày
04/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ). Theo đó đối với cấp huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) Chính phủ đã quyết định triển
khai thực hiện đồng bộ từ ngày 01 tháng 01 năm 2004. Tiến thêm một bước, đến năm
2007, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định 93/2007/QĐ-TTg ngày
22/6/2007 về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các cơ quan hành
chính nhà nước địa phương. Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ một lần nữa ban hành
Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg ngày 25/3/2015 về thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế
một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và mới đây, ngày
23/4/2018 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2018/NĐ-CP quy định về việc
thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính nói
chung.
Cơ quan hành chính Nhà nước cấp huyện hiện nay đang thực hiện quản lý
nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống người dân và tổ chức, trong đó có
những vấn đề nhạy cảm, phức tạp như đất đai, giải phóng mặt bằng, giao thông, xây
dựng, chính sách xã hội, dân chủ cơ sở v.v…Cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện
mạnh, có phương thức phục vụ dân tốt sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện cơ chế một cửa, một
cửa liên thông trong giải quyết các công việc cho cá nhân, tổ chức tại Ủy ban nhân
dân (UBND) cấp huyện không những là bước chuyển biến căn bản, quan trọng trong
hoạt động của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương mà còn góp phần
nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, người dân về một nền hành chính chuyển
từ cai trị sang nền hành chính phục vụ, đồng thời làm cho người dân và chính quyền
gần nhau hơn, nâng cao vị thế của chính quyền cấp huyện.
Tại tỉnh Cao Bằng, cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở cấp huyện được triển
khai thí điểm từ năm 2002 và đồng loạt từ năm 2004. Trong quá trình thực hiện cơ

chế này thực tiễn đang đặt ra không ít vấn đề mới phát sinh, thuận lợi có, nhưng cũng
không ít khó khăn và thách thức. Trên thực tế, hoạt động của cơ chế một cửa, một cửa
liên thông cấp huyện chưa phát huy hết hiệu quả như mong muốn.


Nhiều nơi vẫn còn hình thức và chưa đáp ứng được tốt những yêu cầu mới của công
cuộc cải cách hành chính Nhà nước. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần có sự nghiên cứu,
đánh giá khách quan, khoa học về mô hình đang áp dụng. Bên cạnh đảm bảo triển
khai các quy định của pháp luật cần tính đến yếu tố phù hợp với đặc thù địa phương.
Đồng thời xác định đúng mức độ và hiệu quả đạt được của cơ chế này, những cách
làm thành công, những kinh nghiệm tốt cần chia sẻ, nhân rộng và những tồn tại, bất
cập cần sửa đổi, bổ sung điều chỉnh cho phù hợp. Trong quá trình đó cần nhận diện
được các rủi ro, thách thức đặt ra hiện nay và trong giai đoạn tiếp theo để từ đó xác
định chính xác các giải pháp có tính khả thi, những điều kiện cần thiết cho mô hình
một cửa, một cửa liên thông hoạt động hiệu quả, giải quyết được những vấn đề thực
tiễn đang đặt ra. Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần có sự nghiên cứu một cách
nghiêm túc dưới góc độ khoa học và khảo sát thực tế đầy đủ.
Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào giải quyết nhiệm vụ đó tại tỉnh Cao
Bằng, tác giả quyết định chọn vấn đề “Thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một
cửa liên thông tại Ủy ban nhân dân huyện, tỉnh Cao Bằng” làm đề tài nghiên cứu viết
luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý công của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Cho đến thời điểm hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu khoa học đầy
đủ nào về cơ chế một của cấp huyện tại tỉnh Cao Bằng. Mặc dù vậy, trong các báo
cáo về công tác cải cách hành chính (CCHC) hàng năm và Báo cáo tổng kết chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, Báo cáo tổng kết
công tác cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2015 và phương hướng, nhiệm

vụ cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020 của UBND các huyện và
UBND tỉnh Cao Bằng đều có các tổng kết, đánh giá về công tác cải cách hành chính
của địa phương. Trong các báo cáo đó có đề cập đến việc thực hiện cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại UBND các huyện trên địa bàn
tỉnh. Tuy nhiên, những tổng kết, đánh giá của các báo cáo này chưa có điều kiện đi
sâu đánh giá toàn diện về thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa
liên thông tại cấp huyện. Trong báo cáo đánh giá kết thúc Dự án


CCHC tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2 (Dự án do Chính phủ Thụy Điển tài trợ thực hiện từ
năm 2009 đến 2013), đã đề cập đến một số vấn đề về thực hiện cơ chế một cửa, một
cửa liên thông tại UBND cấp huyện của tỉnh Cao Bằng. Tuy nhiên, công trình chủ
yếu đề cập đến sự hỗ trợ có hiệu quả từ Dự án CCHC tỉnh Cao Bằng đối với việc
thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cấp huyện, chưa có điều kiện đi sâu
phân tích các bài học kinh nghiệm, tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân tác động đến
chất lượng của cơ chế này, cũng như những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực
hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông và sự phát triển bền
vững của mô hình này.
-

Về các nghiên cứu trên bình diện lý thuyết gắn với vấn đề cải cách hành

chính nhà nước nói chung và thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một
cửa liên thông nói riêng đã được nhiều tác giả trong nước nghiên cứu. Nhiều đề tài
khoa học, bài viết và các bài tham luận đã được công bố. Một số công trình nổi bật có
thể kể ra như sau:
+ Tác giả Nguyễn Văn Thâm (Chủ biên), Thủ tục hành chính – Lý luận và
thực tiễn. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2001 [58];
+ Tác giả Đào Trí Úc, Đánh giá kết quả của cải cách hành chính và các giải
pháp tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta, Nhà xuất bản Công an nhân

dân, Hà Nội năm 2007 [73];
+ Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Ngà, đề tài “Hiệu quả thực hiện
cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông của UBND
phường ở quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội”. Bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia, năm 2010 [43];
+ Luận văn Thạc sỹ của tác giả Lê Thị Hằng, đề tài “Cơ chế một cửa, một cửa
liên thông, cơ chế một cửa, một cửa liên thông liên thông tại uỷ ban nhân dân cấp xã
của thành phố Huế hiện nay”. Bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia,
năm 2010 [36];


+

Luận văn Thạc sỹ của tác giả Mai Đức Khánh, đề tài “Cải cách thủ tục

hành chính theo cơ chế một cửa tại UBND cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình”.
Bảo vệ tại Học viện hành chính Quốc gia, năm 2014 [39];
+

Luận văn Thạc sỹ của tác giả Vũ Thị Thanh Hương, đề tài “Cải cách thủ

tục hành chính tại UBND huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Bảo vệ tại Học viện
hành chính Quốc gia, năm 2017 [35];
+

Nghiên cứu làm Luận án Tiến sỹ có tác giả Nguyễn Văn Linh với đề tài

“Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh
ở Việt Nam hiện nay”. Bảo vệ năm 2015 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh [41].

Ngoài ra còn có một số bài báo được công bố trên các tạp chí khoa học:
+

Bài báo của tác giả GS.TSKH. NGND Nguyễn Văn Thâm, tiêu đề “Một số

vấn đề hiện nay của việc thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa liên
thông”. Tạp chí quản lý nhà nước số 11 năm 2010 [57];
+

Bài báo của tác giả GS.TS Nguyễn Đăng Thành, tiêu đề “Các yếu tố tạo động

lực thúc đẩy cải cách hành chính”. Tạp chí quản lý nhà nước số 4 năm 2012 [58];

+

Bài báo của tác giả PGS.TS Lương Thanh Cường, tiêu đề “Sự tham gia

của xã hội vào tiến trình cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam”. Tạo chí quản lý
nhà nước số 4 năm 2012 [25];
+

Bài báo của PGS.TS Võ Kim Sơn, tiêu đề “Nâng cao năng lực thực thi

công vụ của cán bộ, công chức – một thách thức của cải cách hành chính Việt Nam
hiện nay”. Tạp chí quản lý nhà nước số 9 năm 2012 [55];
+

Bài viết của tác giả Đinh Duy Hoà và Võ Thị Hải Minh, tiêu đề “Dịch vụ

công và những vấn đề đặt ra trong cải cách ở Việt Nam”. Tạp chí quản lý nhà nước số

2 năm 2013 [37].
+

Bài báo của tác giả Lưu Công Thắng, tiêu đề “Cải cách thủ tục hành chính

để gần dân hơn”. Báo Nhân dân điện tử ngày 28/6/2018 [59].
+

Bài báo của Ths. Nguyễn Thị Trà Lê, Ths. Nguyễn Hùng Huế - Cục Kiểm

soát thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ, tiêu đề “Thay đổi phương


thức thực hiện để nâng cao hiệu quả, tạo bước đột phá trong công tác kiểm soát, cải
cách thủ tục hành chính”. Tạp trí Tổ chức nhà nước tháng 5/2018[42].
+

Bài báo của tác giả Nguyễn Văn Lâm – Nguyên phó Chủ nhiệm Văn

phòng Chính phủ, tiêu đề “Sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa cải cách hành chính với
xây dựng chính phủ điện tử và kiểm soát thủ tục hành chính”. Tạp chí Tổ chức nhà
nước tháng 9/2016[40].
+

Bài báo của Ths. Nguyễn Cảnh Toàn - Ban Kinh tế Trung ương, tiêu đề

“Cải cách thủ tục hành chính: Nhìn từ góc độ thể chế”. Tạp chí Tổ chức nhà nước
tháng 9/2015[60].
Nhìn chung, các công trình trên nghiên cứu về cải cách hành chính, thủ tục
hành chính nói chung hoặc cải cách thủ tục hành chính theo mô hình một cửa, một

cửa liên thông ở một số lĩnh vực, địa phương nhất định và đều có những đặc thù khác
nhau. Dù vậy, các công trình khoa học trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị
đối với việc nghiên cứu đề tài của luận văn.
Thực tiễn cho thấy, mặc dù việc thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một
cửa, một cửa liên thông tại UBND cấp huyện, tỉnh Cao Bằng đã được triển khai đồng
bộ, toàn diện nhưng ngày càng bộc lộ nhiều vấn đề không còn phù hợp. Nhiều vấn đề
mới phát sinh đang gây nhiều lúng túng, khó khăn trong thực hiện. Để nâng cao chất
lượng hoạt động của mô hình một cửa, một cửa liên thông như vấn đề tổ chức bộ máy
bộ phận này; vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin; cơ chế phối hợp với các phòng
ban chuyên môn, giữa các cơ quan hành chính của các cấp chính quyền địa phương
trong giải quyết thủ tục hành chính liên thông; vấn đề cán bộ công chức…Đó là
những vấn đề rất cấp thiết mà đề tài Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1.

Mục đích của luận văn:

Đánh giá việc thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên
thông tại UBND huyện, tỉnh Cao Bằng thời gian qua, rút ra bài học từ những thành
công và hạn chế của mô hình, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của


cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở cấp huyện, đáp ứng yêu cầu mới của cải cách
hành chính giai đoạn 2011-2020.
3.2.

Nhiệm vụ của luận văn:

+ Làm rõ sự cần thiết khách quan của cơ chế một cửa, một cửa liên thông
trong thực hiện thủ tục hành chính để giải quyết công việc của công dân, tổ chức đảm

bảo các yêu cầu của tiến trình cải cách hành chính tại chính quyền cấp huyện tỉnh
Cao Bằng.
+ Đánh giá thực trạng thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một
cửa liên thông ở cấp huyện tỉnh Cao Bằng thời gian qua, xác định các yếu tố tác
động, ảnh hưởng đến kết quả triển khai thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một
cửa liên thông cấp huyện, chỉ ra những bài học kinh nghiệm thành công và các hạn
chế, tồn tại, tìm hiểu nguyên nhân hạn chế, các khó khăn và vướng mắc cần tháo gỡ,
giải quyết.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại UBND huyện, tỉnh Cao Bằng đáp
ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới nói chung và cải cách thủ tục hành
chính nói riêng.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Quá trình thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên
thông tại UBND huyện, tỉnh Cao Bằng;
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu mô hình một
cửa, một cửa liên thông tại UBND các huyện, tỉnh Cao Bằng (gồm 12 huyện trong
toàn tỉnh).
+ Nội dung nghiên cứu tập trung vào: Bộ máy tổ chức và cơ chế hoạt động;
quan hệ phối hợp với các phòng ban chuyên môn thuộc UBND huyện, với các cơ
quan quản lý nhà nước theo ngành dọc tại địa phương, với bộ phận một cửa, một


cửa liên thông cấp xã và các cơ quan hành chính cấp tỉnh; các hoạt động giải quyết
thủ tục hành chính…

+ Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu khái quát quá trình hình thành, tổ chức
triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại Ủy ban nhân dân huyện
tỉnh Cao Bằng từ khi triển khai thực hiện đến nay và theo các văn bản quy định của
Nhà nước. Số liệu thu thập, khảo sát, tổng hợp và đánh giá thực trạng tập chung trong
3 năm gần đây (năm 2015, năm 2016, năm 2017) để minh chứng cho cơ chế một cửa,
một cửa liên thông tại các huyện, tỉnh Cao Bằng bằng các số liệu được cập nhật từ đó
có sơ sở nhận diện các vấn đề giải quyết cho giai đoạn tiếp theo nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của cơ chế này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1.

Phương pháp luận:

Để giải quyết những vấn đề do đề tài Luận văn đề ra, tác giả luận văn đã dựa
trên quan điểm hệ thống, khách quan, toàn diện và lịch sử - cụ thể. Các quan điểm
của phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh được
lấy làm chỗ dựa cho quá trình nghiên cứu của tác giả để giải quyết các nhiệm vụ đặt
ra.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu:

Các phương pháp đã được sử dụng để nghiên cứu làm luận văn gồm:
+ Tổng hợp và phân tích. Phương pháp này được sử dụng để xử lý các số liệu
thống kê, các kết quả nghiên cứu, các báo cáo đề cập đến cơ chế một cửa, một cửa
liên thông các huyện.
+ Phương pháp chuyên gia. Được sử dụng để tiếp cận, phỏng vấn, trao đổi
với công chức của Sở Nội vụ tỉnh Cao Bằng với tư cách là đơn vị quản lý, hướng dẫn
và hỗ trợ các huyện thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên
thông; với công chức các sở, ban ngành và một số xã thực hiện liên thông trong thực

hiện thủ tục hành chính với bộ phận một cửa cấp huyện. Chuẩn tiêu chí đánh giá
được sử dụng gồm: trình độ đào tạo, trang bị cơ sở vật chất, công khai thủ tục hành
chính, mức độ hợp tác của người dân, tổ chức, chế độ chính sách đối với cán


bộ, công chức làm việc tại bộ phân tiếp nhận và trả kết qảu….Trên cơ sở đó thu
thập các ý kiến và thông tin về cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một
cửa liên thông tại UBND các huyện.
+ Khảo sát và ghi nhận trực tiếp. Được sử dụng để khảo sát hoạt động cụ thể
của bộ phận một cửa, một cửa liên thông; công chức làm việc tại các phòng, ban
chuyên môn của UBND cấp huyện; người dân, tổ chức đến giải quyết công việc…về
thực trạng chất lượng hoạt động của bộ phận một cửa, một cửa liên thông. Qua đó
tiến hành thu thập và phân tích các vấn đề có liên quan đến điều kiện hoạt động và
hiệu quả thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở các huyện tỉnh Cao Bằng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
-

Làm sáng tỏ thêm lý luận về cơ chế một cửa, một cửa liên thông và một

cửa liên thông trong cải cách thủ tục hành chính.
-

Là một tài liệu giúp các nhà quản lý có thể tham khảo cho việc hoạch định

chính sách liên quan đến thể chế hành chính nhà nước nói chung và thủ tục hành
chính nói riêng trong hoạt động của chính quyền địa phương.
-

Góp phần làm phong phú thêm tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu,


đào tạo và giảng dạy cho các cơ sở có liên quan.
7.

Kết cấu của luận văn

Luận văn được cấu trúc gồm những phần như sau:
Mở đầu
Chương I: Cơ sở lý luận về cơ chế một cửa, một cửa liên thông
Chương II: Thực trạng thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên
thông tại Ủy ban nhân cấp huyện, tỉnh Cao Bằng
Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục
hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại UBND huyện, tỉnh Cao Bằng
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG
1.1. Khái niệm, nội dung thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một
cửa, một cửa liên thông.
1.1.1. Thủ tục hành chính, thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một
cửa, một cửa liên thông.
Thủ tục hành chính là một loại quy phạm pháp luật quy định trình tự về thời
gian, về không gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy Nhà nước, là
cách thức giải quyết công việc của các cơ quan Nhà nước trong mối quan hệ với các
cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân [33],[34],[58].
Thủ tục hành chính có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thủ tục hành chính được điều chỉnh bằng quy phạm thủ tục - là cơ sở
pháp lý cho các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng của mình. Thủ tục hành chính

là một bộ phận cấu thành của hệ thống quy phạm thủ tục. Hệ thống quy phạm thủ tục
là toàn bộ các quy tắc pháp lý quy định về trình tự, trật tự thực hiện thẩm quyền của
các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết công việc công việc nhà nước và thực
hiện nghĩa vụ hành chính đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân. Đó
cũng chính là các hệ thống các nguyên tắc quản lý và điều hành bắt buộc các cơ quan
nhà nước cũng như các công chức phải tuân theo trong giải quyết công việc thuộc
thẩm quyền của mình.
Là quy phạm thủ tục, thủ tục hành chính có chức năng làm cho các quy phạm
nội dung của luật pháp được thực hiện thuận lợi. Thiếu thủ tục hành chính việc thực
thi luật pháp sẽ gặp khó khăn, thậm chí không có khả năng đi vào đời sống thực tế. Ví
dụ: Nhà nước muốn thu thuế thì cần có thủ tục để người dân thực hiện việc nộp thuế.
Còn muốn quản lý an toàn giao thông thì cần có thủ tục để hướng dẫn người dân
tham gia giao thông tuân theo, v.v.
Hoạt động quản lý chủ yếu là hoạt động áp dụng pháp luật mà ở đó, hành vi áp
dụng pháp luật liên quan chủ yếu đến việc xác định tình trạng thực tế của vụ


việc, lựa chọn quy phạm pháp luật tương ứng và ra quyết định về vụ việc đó. Các
hành vi áp dụng pháp luật này được tiến hành theo những thủ tục hành chinh nhất
định. Như vậy nếu thiếu các thủ tục cần thiết thì quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia trọng hoạt động quản lý sẽ không được đảm bảo thực hiện. Thủ tục hành chính là
một nhân tố bảo đảm cho sự hoạt động chặt chẽ, thuận lợi và đúng chức năng quản lý
của cơ quan nhà nước, vì nó là chuẩn mực hành vi cho công dân và công chức nhà
nước để họ tuân theo và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Dựa vào các
thủ tục hành chính các công việc hành chính sẽ được xử lý và đạt được những hiệu
quả pháp luật đúng như dự định.
Thứ hai, thủ tục hành chính là trình tự thực hiện thẩm quyền trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước. Xét trong quá trình giải quyết công việc của các cơ
quan hành chính nhà nước thì thủ tục hành chính là cách thức, trình tự mà các cơ
quan hành chính nhà nước áp dụng để giải quyết các nhiệm vụ theo quy định của

pháp luật. Trình tự này có thể từ dưới lên, từ cấp trên xuống mà cũng có những trình
tự thực hiện song hành.
Nói như vậy có nghĩa là thủ tục hành chính được phân biệt với thủ tục lập
pháp và thủ tục tố tụng pháp.
Thủ tục lập pháp là trình tự, cách thức xây dựng Hiến pháp và ban hành luật
thuộc thẩm quyền của cơ quan lập pháp; thủ tục tố tụng tư pháp thuộc thẩm quyền
của cơ quan tư pháp liên quan đến những hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, định tội.
Thứ ba, thụ tục hành chính rất đa dạng và phức tạp. Tính đa dạng phức tạp
được biểu hiện như sau:
- Do nhiều cơ quan và công chức nhà nước thực hiện;
- Quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia mối quan hệ hành chính,
trong đó bao gồm cả công việc của Nhà nước và công dân;
- Việc quy định thủ tục hành chính phải kết hợp với những khuôn mẫu ổn
định tương đối và chặt chẽ với các biện pháp thích ứng cho từng loại công việc và
từng loại đối tượng;


- Nền hành chính nhà nước hiện nay đang chuyển từ hành chính cai quản
sang hành chính phục vụ đã tác động mạnh mẽ vào thủ tục hành chính;
- Thực hiện chủ yếu ở công sở nhà nước, gắn liền với công tác văn thư và tổ
chức ban hành, quản lý văn bản, giấy tờ;
- Do chủ thể cơ quan hành chính nhà nước xây dựng để giải quyết công việc
nên phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của chủ thể ban hành.
- Trong bối cảnh của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay, các thủ
tục hành chính có yếu tố nước ngoài cần phải phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ tư, thủ tục hành chính có tính năng động hơn so với các quy phạm nội
dung của luật hành chính, đòi hỏi phải thay đổi nhanh hơn để thích ứng và phù hợp
với nhu cầu thực tế của đời sống xã hội. Đây chính là yếu tố cần nhận thức đúng đắn
giúp cho các nhà ban hành các quy định thủ tục hành chính ban hành các quy định
phù hợp với thực tế khách quan và tiến trình phát triển kinh tế xã hội.

Hiện nay thủ tục hành chính ở nước ta vẫn còn những tồn tại: Hình thức, đòi
hỏi nhiều giấy tờ, chưa thuận lợi cho cá nhân, tổ chức thực hiện; nhiều cấp trung
gian, không rõ ràng về trách nhiệm; chưa phù hợp và đáp ứng được với yêu cầu của
thời kỳ mở cửa và hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh và đặc biệt giai đoạn hiện
nay Chính phủ đang quyết tâm xây dựng Chính phủ kiến tạo. Thủ tục hành chính vẫn
còn tình trạng thiếu thống nhất, chồng chéo, tần xuất thay đổi nhanh và có tính
thường xuyên, tính công khai, minh bạch còn hạn chế.
Hậu quả của tồn tại trên là gây phiền hà cho việc thực hiện quyền, nghĩa vụ,
lợi ích và công việc chung của cơ quan quản lý nhà nước, làm giảm năng lực cạnh
tranh quốc gia trong thu hút đầu tư, gây ra tệ cửa quyền và chưa đúng với tinh thần
Chính phủ kiến tạo. Thủ tục hành chính còn phức tạp trong giải quyết công việc là
điều kiện thuận lợi cho nạn tham nhũng, lãng phí phát sinh, hoành hành…
Chính vì vậy, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hiệu
lực, hiệu quả là yêu cầu mong mỏi của tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư trong nước và
ngoài nước. Trong tiến trình phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành chính có
một vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu thủ tục hành chính nói riêng, nền


hành chính nói chung không được hay chậm cải cách thì sẽ là một rào cản kìm hãm
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta. Nghị quyết số 38/CP ngày 01/5/1994
của Chính phủ “Về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công
việc của công dân và tổ chức” là khâu đột phá trong cải cách hành chính Nhà nước đã
phát huy tác dụng và đạt được những kết quả nhất định trong thời gian qua. Tuy
nhiên, trước yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng, thủ tục hành chính cần phải cải
cách mạnh mẽ hơn nữa.
Cải cách thủ tục hành chính là điều kiện cần thiết để tăng cường củng cố mối
quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, tăng cường sự tham gia quản lý Nhà nước của
nhân dân. Cải cách thủ tục hành chính cần phải tạo sự chuyển biến của toàn bộ hệ
thống của nền hành chính quốc gia.
Nghị Quyết số 30c/NQ-CP, ngày 08/11/2011 của Chính phủ về ban hành

chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 đã đề ra 6 nhiệm vụ
chính, trong đó cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
Thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông là việc
áp dụng cơ chế giải quyết thủ tục hành chính thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của một
cơ quan hành chính nhà nước, từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ, giải quyết đến
trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối duy nhất là bộ phận một cửa của cơ quan
hành chính nhà nước. Đây là một trong những mô hình cải cách thủ tục hành chính
tại Việt Nam hiện nay đang phát huy và đem lại hiệu quả tích cực, cũng là mô hình
đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng.
1.1.2. Sự hình thành cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở Việt Nam.
Từ năm 1995, trước nhu cầu bức bách về giải quyết thủ tục hành chính cho
công dân và tổ chức trong thời kỳ cơ chế thị trường, một số địa phương đã chủ động
thí điểm thực hiện áp dụng cơ chế giải quyết công việc liên quan đến các giao dịch
của cơ quan hành chính nhà nước với người dân theo mô hình một cửa hoặc “một
cửa, một dấu”. Đi đầu trong lĩnh vực này là thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây UBND
thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo CCHC thành phố do Chủ tịch UBND thành phố
làm Trưởng ban. Ủy ban nhân dân thành phố đã xây dựng đề án trình Chính phủ thí


điểm tổ chức thực hiện hoạt động mô hình “một cửa, một dấu” tại UBND Quận 1,
Quận 5 và huyện Củ Chi. Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho thực hiện
(Thông báo số 6194/CCHC ngày 30/4/1995 của Văn phòng Chính phủ). Thành ủy
thành phố Hồ Chí Minh cũng ban hành chỉ thị số 04/CT-TU, ngày 18/10/1996 về việc
cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa, một dấu”. Sau khi sơ kết đánh giá
thí điểm cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, một dấu”, tháng 11/1996
UBND thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Chỉ thị số 36/CT-UBND ngày
11/11/1996 về việc tiếp tục thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa, một
dấu”, trong đó yêu cầu tất cả các quận, huyện chuẩn bị tốt mọi điều kiện, xây dựng đề
án để triển khai nhân rộng cơ chế “một cửa, một dấu” trong toàn thành phố. UBND
thành phố Hồ Chí Minh đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về phương án triển khai

nhân rộng mô hình cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa, một dấu” ra tất cả các
quận, huyện còn lại của thành phố. Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho nhân rộng,
đồng thời tiếp tục thực hiện thí điểm cơ chế một cửa tại Văn phòng UBND thành phố
và một số sở, ban ngành thuộc UBND thành phố.
Trên cơ sở những kết quả đạt được, bài học kinh nghiệm trong triển khai cơ
chế “một cửa, một dấu” của thành phố Hồ Chí Minh, nhiều tỉnh, thành phố trong cả
nước đã nghiên cứu, học tập và chia sẻ cách làm của thành phố Hồ Chí Minh, mạnh
dạn thực hiện thí điểm cơ chế này tại địa phương mình.
Tháng 5/2002, tỉnh Cao Bằng cũng đã triển khai thí điểm cơ chế một cửa tại
UBND huyện Hòa An thông qua sự hỗ trợ kỹ thuật của Dự án Cải cách hành chính
tỉnh Cao Bằng do Chính phủ Thụy Điển tài trợ.
Sau một thời gian thực hiện mô hình đang đề cập trên đây, đến năm 2003 đã
đạt được những kết quả sau:
8. Đổi mới cách thức, quy trình giải quyết các thủ tục hành chính tạo chuyển
biến cơ bản trong quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với người dân và tổ
chức, giảm phiền hà, nhũng nhiễu và chi phí cho người dân một cách đáng kể, tổ
chức, tạo sự đồng thuận lớn trong nhân dân.


9. Nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ hành chính cũng như tinh thần thái độ phục
vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
10.

Điều chỉnh một bước về tổ chức bộ máy và đổi mới, cải tiến chế độ làm

việc và quan hệ công tác trong cơ quan hành chính nhà nước.
11.

Bước đầu hình thành và thay đổi tư duy trong đội ngũ cán bộ, công


chức thực thi công vụ, từ một nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ.
12.

Hiện đại hóa một bước công sở hành chính [11].

Từ những kết quả thực tiễn trong quá trình thực hiện thí điểm và căn cứ vào
các kết luận của Hội nghị tổng kết, Bộ Nội vụ đã xây dựng và trình Chính phủ phê
duyệt Quy chế thực hiện cơ chế một cửa tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương. Ngày 04/9/2003 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 181/2003/QĐTTg ban hành Quy chế này. Theo đó, cơ chế một cửa được thực hiện đối với cấp tỉnh
và cấp huyện từ ngày ngày 01/01/2004, đối với cấp xã từ ngày 01/01/2005 [51]. Qua
quá trình thực hiện đến nay, thuật ngữ một cửa trong giải quyết công việc cho người
dân, tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước ở chính quyền các cấp không còn xa lạ
với người dân và được dùng phổ biến trong đời sống xã hội.
Thực hiện Quyết định 181/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến hết
năm 2004, tỉnh Cao Bằng đã triển khai thực hiện cơ chế một cửa cấp huyện tại toàn
bộ 13/13 đơn vị hành chính cấp huyện trong tỉnh.
Quá trình triển khai thí điểm đến nhân rộng trong phạm vi toàn quốc, cơ chế
một cửa tại cả 03 cấp chính quyền địa phương qua thời gian đã bộc lộ một số vướng
mắc, khó khăn, ảnh hưởng và hạn chế đến hiệu quả hoạt động của cơ chế một cửa cấp
huyện. Những khó khăn vướng mắc đó đã được phân tích, đánh giá dưới nhiều góc
độ khác nhau để tìm ra hướng giải quyết, nhằm hướng tới hoàn thiện các yêu cầu
CCHC theo cơ chế một cửa. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định
số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa,
một cửa liên thông tại tất các cơ quan hành chính nhà nước ở chính quyền địa
phương.


Đến năm 2015, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của cơ chế một
cửa, một cửa liên thông đáp ứng với yêu cầu mới của thực tiễn, Thủ tướng Chính phủ
đã ký Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg ngày 25/3/2015 ban hành Quy chế thực hiện

cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương.
Đến năm 2018, Chỉnh phủ đã ban hành thêm Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về
việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính
cho tổ chức, cá nhân.
Theo Nghị định số 61/2018/NĐ-CP, cơ chế một cửa trong giải quyết thủ tục
hành chính là phương thức tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả kết quả giải quyết thủ
tục hành chính, theo dõi, giám sát, đánh giá việc giải quyết thủ tục hành chính cho tổ
chức, cá nhân của một cơ quan có thẩm quyền thông qua Bộ phận Một cửa.
Cơ chế một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính là phương thức
phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả kết
quả giải quyết một thủ tục hành chính hoặc một nhóm thủ tục hành chính có liên quan
với nhau, theo dõi, giám sát, đánh giá việc giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức,
cá nhân thông qua tiếp nhận và trả kết quả.
Theo quy định chung, việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông phải
đảm bảo các nguyên tắc sau [24]:
- Lấy sự hài lòng của tổ chức, cá nhân là thước đo chất lượng và hiệu quả
phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức và cơ quan có thẩm quyền.
- Việc giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân theo cơ chế một
cửa, một cửa liên thông được quản lý tập trung, thống nhất.
- Giải quyết thủ tục hành chính kịp thời, nhanh chóng, thuận tiện, đúng pháp
luật, công bằng, bình đẳng, khách quan, công khai, minh bạch và có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền.
- Quá trình giải quyết thủ tục hành chính được đôn đốc, kiểm tra, theo dõi,
giám sát, đánh giá bằng các phương thức khác nhau trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và có sự tham gia của tổ chức, cá nhân.


- Không làm phát sinh chi phí thực hiện thủ tục hành chính cho tổ chức, cá
nhân ngoài quy định của pháp luật.

- Cán bộ, công chức, viên chức cơ quan có thẩm quyền thực hiện trách nhiệm
giải trình về thực thi công vụ trong giải quyết thủ tục hành chính theo quy định của
pháp luật.
- Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế có
liên quan đến thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục
hành chính mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
Cơ chế một cửa, một cửa liên thông được áp dụng đối với các cơ quan giải
quyết thủ tục hành chính (Bộ, cơ quan ngang bộ; Tổng cục và tương đương, cục, vụ
thuộc bộ, cơ quan ngang bộ có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết thủ tục hành chính và
tham gia vào quá trình giải quyết thủ tục hành chính); UBND các cấp; các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; các ban quản lý khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết thủ tục
hành chính). Nhà nước cũng khuyến khích các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh
nghiệp nhà nước và các cơ quan, tổ chức khác áp dụng Nghị định này trong giải
quyết thủ tục cho tổ chức, cá nhân.
Hoạt động của cơ chế một cửa, một cửa liên thông được thể hiện qua sơ đồ
sau:
Bộ phận tiếp
nhận và
trả kết quả
Tiếp nhận
Tổ
chức,
cá nhân

Phòng ban chuyên
môn (Thụ lý, xử lý,
tham mưu)

yêu cầu


Trả kết quả

Hoàn thành giải
quyết thủ tục
hành chính

Lãnh đạo
đơn vị (Phê
duyệt kết
quả giải
quyết thủ
tục hành
chính)

Sơ đồ 1.1. Quy trình thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa
(Nguồn: Quyết định số181/2003/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính
phủ [63]


×